← Quay lại trang sách

Tám

Mùa hè nào cũng vậy, vào kỳ nghỉ tháng Tám, Greta và Einar lại đến Menton, một thị trấn Pháp nằm tại cảng biển cạnh biên giới với Ý. Sau mùa hè dài dằng dặt, Greta chào tạm biệt Copenhagen với cảm giác nhẹ nhõm. Khi chuyến tàu lửa xình xịt tiến về phía Nam, băng qua dãy núi Maritime Alps, cô cảm thấy như mìn đã bỏ lại điều gì đó sau lưng.

Năm nay, nhờ Anna, vốn vừa tham gia diễn opera tại Monte Carlo hồi tháng Năm, đã mách nước cho Greta và Einar thuê một căn hộ nằm trên đại lộ Boyer, xéo với con đường chạy qua sòng bạc thị trấn Menton. Chủ nhân của căn hộ là một tay người Mỹ, đã vội vàng cất công chạy sang Pháp ngay sau chiến tranh để thu mua những xưởng may quần áo bị đóng cửa ở vùng Provence. Anh ta hiện sống ở New York, trở nên giàu có và kiếm được bộn tiền từ việc chuyên bán quần áo đơn giản mặc thường ngày không có lớp lót cho những bà nội trợ ngụ ở phía Nam Lyon.

Bên trong căn hộ, nền nhà được lót đá cẩm thạch mát lạnh màu cam, phòng ngủ thứ hai được sơn màu đỏ. Một tấm bình phong kiểu Trung Hoa khảm xà cừ được đặt trong phòng khách. Cửa sổ phía trước mở ra một khoảng sân nhỏ vừa đủ để trồng vài chậu phong lữ và đặt hai chiếc ghế dây kim loại. Những buổi tối trời nóng bức, Einar và Greta sẽ ngồi ngoài đấy. Greta còn gác chân lên lan can tận hưởng cơn gió nhẹ lâu lâu lại thổi đến từ mấy cây cam và chanh trồng ngay dưới công viên. Greta mệt nhoài, vì vậy cô và Einar có thể ngồi cạnh nhau suốt buổi tối mà không nói lời nào ngoại trừ câu "Chúc ngủ ngon".

Vào ngày thứ năm của kỳ nghỉ, thời tiếc đột nhiên thay đổi. Gió Sirocco từ Bắc Phi điên cuồng thổi qua vùng Địa Trung Hải trũng thấp, đến tận bãi biển gập ghềnh, lùa qua cửa lớn trước hiên nhà làm tấm bình phong kiểu Trung Hoa ngã chỏng chơ.

Đang ngủ trưa trong căn phòng sơn màu đỏ, Greta và Einar nghe tiếng ngã ầm một phát. Hai người nhìn ra thì thấy tấm bình phong ngã trên ghế sofa cameback (1). Tấm bình phong vốn dĩ che khuất một giá treo đầy hàng mẫu những bộ quần áo thường ngày được sản xuất tại xưởng may của chủ nhà. Những chiếc váy hoa màu trắng vẫn đung đưa trên giá treo tựa như có một đứa trẻ đang níu lấy gấu váy.

Greta thấy những bộ quần áo trông thật đơn sơ, tay áo được viền một cách cẩu thả, và hàng nút may ngay phía trước để tiện cho con bú - quá thô thiển và thực dụng đến mức cô bắt đầu cảm thấy hơi ghét bỏ kiểu phụ nữ ăn mặc thế này.

Cô bước lên thử dựng lại tấm bình phong rồi bảo: "Giúp em một tay nào."

Einar đang đứng cạnh giá treo trang phục mẫu, gấu váy tung bay cọ cọ vào chân anh. Mặt anh trở nên đờ đẫn. Greta có thể thấy gân xanh hai bên thái dương của anh đang co giật. Cô nhận ra những ngón tay của anh, vốn giống như ngón tay của nghệ sĩ piano hơn là họa sĩ, khẽ run rẩy. "Anh đang định mời Lili đến thăm vợ chồng mình," anh lên tiếng. "Cô ấy chưa từng đến Pháp."

Greta chưa bao giờ xua đuổi Lili. Suốt mùa Hè, nhiều lần Einar thông báo Lili sẽ đến ăn tối, và Greta - vốn kiệt sức sau một ngày dài phải chăm chút cho buổi triển lãm thất bại, thầm kêu gào, ôi trời ơi, điều cuối cùng mình muốn làm vào lúc này là ăn tối với một ông chồng đang mặc áo quần phụ nữ. Nhưng Greta sẽ chôn chặt những suy nghĩ đó trong lòng mình, cắn chặt môi đến bật máu. Cô biết mình không đỉ sức ngăn cản Einar. Cô nhận ra, từ sau vụ việc với Henrik, Lili vốn có chính kiến của riêng mình.

Suốt vài tuần trước chuyến nghỉ mát ở Menton, Lili bắt đầu xuất hiện vào buổi chiều mà không hề báo trước. Greta thường rời khu nhà Widow House vì có hẹn ở ngoài. Khi về đến nhà, cô sẽ thấy Lili đứng bên cửa sổ trong bộ váy đầm rộng thùng thình, lại còn chẳng buồn cài hàng nút sau lưng. Greta sẽ giúp Lili chỉnh trang lại quần áo và đeo chuỗi hạt màu hổ phách lên cổ. Greta chưa bao giờ thoát khỏi cảm giác sửng sốt khi thấy chồng cô như thế, chờ đợi với cổ áo rộng mở hờ hững trên đôi vai yếu ớt. Cô chưa từng phàn nàn gì với Einar, hay với Lili, dù chỉ một lần. Thay vào đó, cô luôn chào đón Lili với tư cách là một người bạn xa lạ nhưng vui tính. Lúc giúp Lili mang giày, cô luôn ậm ừ rồi nói chuyện phiếm với cô ấy. Greta sẽ nghiêng chai nước hoa ra ngón tay trỏ rồi lướt đầu ngón tay xuống cổ và dọc theo phía trong cánh tay của Lili. Rồi cô ngắm Lili trong gương và thì thầm, giọng cô vẫn dịu dàng, thân thiết như lúc mới kết hôn, "Nhìn xem... thật là xinh đẹp hết sức."

Greta làm tất cả những điều này với sự tận tâm hết mức, vì lòng tin rằng cô có thể bỏ mặc bất kỳ ai trên đời này, ngoại trừ chồng mình. Cô đã từng coi trọng Teddy như thế. Greta có thể dám làm những chuyện đại loại như cáu gắt với mẹ, tranh cãi với cha, và phớt lờ mọi người ở Pasadena cũng như Copenhagen, nhưng sâu thẳm trong trái tim là tấm lòng khoan dung vô hạn chỉ dành cho người đàn ông mà cô yêu thương. Cô chưa từng hoài nghi lý do tại sao cô cho phép Lili xuất hiện trong cuộc đời mình. Cô vẫn luôn tự nhủ với lòng, chỉ cần đó là điều làm Einar vui. Bất kỳ điều gì cũng được.

Thế nhưng, Greta vẫn là Greta, và sự tận tâm hết gan ruột này thỉnh thoảng làm cô chạnh lòng. Sau chuyện Lili lén lút hẹn hò với Henrik, Greta bắt đầu kè kè đi theo mỗi khi Lili bước ra đường ở Copenhagen. Lili đã cam đoan sẽ không bao giờ gặp lại Henrik, rằng bọn họ đã chấm dứt, nhưng cho dù như vậy thì Greta biết chắc có hàng tá đàn ông trẻ tuổi có thể tâng bốc Lili đến khi cô ấy đỏ mặt và ngã vào vòng tay một gã nào đó. Và thế là Greta và Lili lại khoác chặt tay nhau, cùng tản bộ dưới hàng cây dọc công viên. Greta không ngừng quét mắt dọc con đường trải sỏi để tìm kiếm những kẻ khả nghi, vì cô biết rõ Lili với đôi mắt nâu ướt át có thể làm xao lòng cánh đàn ông Đan Mạch trẻ tuổi như thế nào. Một ngày nọ, Greta chụp cho Lili một bức ảnh trước cổng tòa tháp Rosenborg Slot, tòa lâu đài nhỏ bé bằng gạch phía sau Lili trông hơi nhòe nhưng lại mơ hồ toát ra vẻ đáng sợ. Hôm khác, Lili kéo Greta dừng lại trước nhà hát múa rối và ngồi xuống cạnh đảm trẻ con, gương mặt cô thoáng do dự còn đôi chân vụng về y như bọn nhóc.

"Greta?" Einar lặp lại. Anh đang đứng tựa lưng vào giá treo trang phục mẫu. Tấm bình phong kiểu Trung Hoa vẫn đang nằm chỏng chơ trên ghế sofa. "Em sẽ không thấy phiền nếu Lili đến đây thăm vợ chồng mình chứ?"

Greta bắt đầu dựng tấm bình phong lên. Từ khi họ đến Pháp, cô chưa từng cầm đến cọ vẽ. Cô chưa từng gặp người nào thú vị đến mức phải lên tiếng để mời đối phương làm mẫu để vẽ một bức chân dung. Thời tiết lúc nào cũng âm u và ẩm ướt, làm sơn dầu trên khung vải thật là khó khô. Suốt mùa Hè, cô đã thử đổi phong cách vẽ, bắt đầu dùng những màu sắc tươi sáng hơn, đặc biệt là màu hồng, màu vàng và màu vàng đồng, chọn nét vẽ to hơn và thậm chí với tỉ lệ lớn hơn. Đó là một phong cách hội họa hết sức mới mẻ với Greta nhưng lại khiến cô mất nhiều thời gian hơn để hoàn thành bức tranh trên khung vải trắng trơn. Để vẽ tranh cỡ quá khổ với tông màu pastel vui tươi, Greta cần giữ vững niềm say mê từ nội tâm. Không có gì làm cho cô hạnh phúc hơn việc phác họa Lili.

Greta cân nhắc đến việc bắt tay vào làm một bức chân dung cỡ người thật mô tả phong cảnh Lili đứng ngoài khoảng sân nhỏ, cơn gió nhẹ làm tung bay mái tóc và tà váy, những bông hồng màu nâu trên váy ẩn hiện một cách xinh xắn, còn biểu cảm trên gương mặt Lili sẽ giống như trên gương mặt của chồng cô lúc này - hăng hái, lo lắng, làn da căng lên đỏ bừng như sắp nổ tung.

Greta và Lili thả bộ đến L'Orchidee trên Bonaparte. Đấy là một nhà hàng nổi tiếng với món mực luộc trong nước mực đen, theo lời Hans viết trong bức thư hẹn gặp vào buổi tối. Nhiều cửa hiệu trên phố đã đóng cửa từ chập tối. Vài túi rác nằm nép mình bên vệ đường. Mấy hòn đá cuội rơi từ rãnh lốp xe ô tô nằm chỏng chơ trên đường.

Thư của Hans đang nằm trong túi Greta, và cô đang cọ chiếc nhẫn cưới trên tay vào cạnh lá thư khi rảo bước cạnh Lili dọc con đường St. Michel hướng về cảnh. Với Greta, một trong những phong tục hay ho của Đan Mạch là việc đeo nhẫn cưới trên tay phải. Khi quay lại Đan Mạch lúc đã trở thành góa phụ, cô từng hứa với lòng mình rằng sẽ không bao giờ tháo chiếc nhẫn mạ vàng mà Teddy đã tặng. Cô không biết phải làm sao mới tháo nổi chiếc nhẫn của Teddy ra khỏi tay mình. Cô nhớ đến khoảnh khắc anh trao nó cho cô, vụng về lục lọi hai túi quần để tìm chiếc hộp nhung đen bé xíu. Nhưng rồi Greta nhận ra rằng mình không cần phải tháo nhẫn của Teddy. Vì vậy cô vẫn luôn đeo hai chiếc nhẫn cho đến tận bây giờ. Cô chơi đùa với hai chiếc nhận một cách công bằng, lơ đễnh xoay tròn chúng trên tay.

Greta chưa bao giờ kể với Einar quá nhiều về Teddy Cross. Cô quay lại Đan Mạch vào Ngày đình chiến, sáu tháng sau khi trở thành góa phụ, và lấy lại tên Greta Waud. Mỗi khi bạn bè hỏi đến chồng trước, cô đều bảo anh ấy chỉ đột ngột qua đời. Suy cho cùng, Greta luôn nghĩ ra khi mới hai mươi bốn tuổi và phải sống trong cái nóng bức khô hạn của vùng Califfornia, chỉ là hệ quả của một điều duy nhất: sự trớ trêu của cuộc đời. Chuyện này chẳng có nghĩa lý gì cả, thật đấy. Còn chuyện Teddy chẳng hề có vóc người kiểu Tây lại là một chuyện nữa chẳng công bằng tí nào. Thỉnh thoảng cô thoáng nghĩ, khi phải nhắm nghiền mắt để kìm nén cảm giác hối hận: có lẽ cô và Teddy chưa bao giờ được định sẵn là sẽ kết hôn với nhau. Có lẽ tình yêu của anh dành cho cô chưa vĩ đại bằng tình yêu cô dành cho anh.

Khi cả hai gần đến nhà hàng thì Greta chặn Lili lại rồi nói, "Đừng giận em, nhưng em có một điều ngạc nhiên dành cho chị." Cô đẩy phần mái tóc Lili ra khỏi mắt. "Em xin lỗi vì đã không nói trước với chị, nhưng em nghĩ mọi chuyện sẽ chẳng dễ dàng hơn nếu chị biết ngay trước khi đến nơi."

"Về chuyện gì cơ?"

"Chuyện chúng ta sẽ ăn tối với Hans."

Mặt Lili trở nên trắng bệt, và cô lập tức hiểu ra. Cô cụng trán vào cửa sổ của một cửa hàng thịt đã đóng cửa. Bên trong cửa hàng là mấy con lợn sữa bị lột da treo trên dây trông như mấy sợi dây móc thòng lọng màu hồng. Vậy mà Lili vẫn hỏi: "Hans là ai?"

"Thôi nào. Đừng hoảng hốt. Chỉ là Hans thôi mà. Anh ta muốn gặp chị."

Nhà phê bình người Paris với nốt mụn cơm mọc bên rìa mắt đã nhanh chóng trả lời thư của Greta, gửi cho cô địa chỉ liên lạc với Hans rồi còn hỏi thêm về tranh vẽ của Greta. Sự chu đáo của nhà phê bình làm Greta chìm đắm trong mơ mộng. Paris đang quan tâm đến tài năng hội họa của cô! Cô tự nhủ, mở hộp bút mua từ cửa hiệu Arhus, và bơm đầy mực vào cây viết máy của minh. Đầu tiên, cô viết thư cho nhà phê bình, hỏi: "Có triển vọng phát triển nào cho tôi ở Paris không? Liệu chồng tôi và tôi có nên cân nhắc việc rời khỏi Đan Mạch, cái nơi chả ai buồn quan tâm đến tôi là ai? Liệu cuộc sống của chúng tôi có tự do hơn nếu đến sống ở Paris không?"

Sau đó, Greta viết thư cho Hans. Cô mở đầu: chồng tôi có vẻ chưa bao giờ quên anh. Những khi anh ấy thả hồn mơ mộng bên giá vẽ, tôi biết anh ấy nhớ đến hình ảnh anh treo mình từ cây sồi và đung đưa trên bãi lầy. Mặt anh ấy thần ra. Cảm giác giống như anh ấy quay về tuổi mười ba, với đôi mắt long lanh và chiếc cằm nhẵn nhụi.

Hiện nay, khi đã là một người đàn ông hơn ba mươi tuổi, Hans Axgil sở hữu một cái mũi thanh tú, còn cổ tay được che phủ bởi lớp lông rậm vàng hoe. Anh đã trở thành một người đàn ông to cao cường tráng, chiếc cổ khỏe mạnh vươn cao trước ngực khiến Greta liên tưởng đến gốc cây tiêu huyền mọc bên rìa khu vườn nhà cô tại California. Einar đã miêu tả Hans giống như một cậu bé nhỏ thó, còi cọc của vùng đầm lầy. Biệt danh của anh ấy là Valnod, nghĩa là quả óc chó; nhiều người lý giải là vào mùa hè, da anh ấy sẽ biến thành màu nâu nhạt; trông giống như mới bị nhúng vào bãi bùn lâu năm ở làng Bluetooth. Bãi bùn chính là nơi Hans được sinh ra. Ngày ấy khi chiếc xe ngựa lật úp giữa cơn giông mưa đá, mẹ anh và hai cô hầu gái bị mắc kẹt giữa bãi hoang chỉ với hộp diêm và chiếc áo khoác vải bạt của người lái xe cho mượn làm tấm lót đỡ đẻ.

Dĩ nhiên là bây giờ, Hans đã trở thành người đàn ông thực thụ, cao lớn như người Đức. Anh bắt tay với người khác bằng hai tay. Hai bàn tay ấy cũng thường đan sau gáy khi anh kể chuyện gì đấy. Anh không uống gì khác ngoài rượu champagne và nước có gas. Anh chỉ ăn độc món cá, một lần nếm thử một miếng thịt nai đã khiến anh mất hết khẩu vị suốt cả tháng trời. Anh là nhà buôn tranh, chuyên gia o bế những bậc thầy người Hà Lan để gom tranh bán cho những tay người Mỹ giàu có thường sưu tập tranh nhằm chất đống để đó. Đó là một công việc kinh doanh nghe có vẻ trái đạo đức, anh tâm sự với nụ cười để lộ hai răng cửa nhọn như mũi khoan. "Không phải lúc nào cũng vậy, nhưng thường là đủ sống," anh kể. Môn thể thao yêu thích của Hans vẫn là tennis. "Điều tuyệt vời nhất ở Pháp là sân đất nện. Sân bóng màu đỏ như đất sét. Những trái bóng tennis trắng tinh với đường viền bằng nhựa dính. Còn tay trọng tài ngồi chễm chệ trên ghế."

Nhà hàng nằm trên đường dẫn ra cảng biển. Dọc lối đi bộ là tám chiếc bàn kê dưới những tán dù sọc được cố định bằng hộp thiếc nhét đầy đá. Xa xa phía cảng thấp thoáng những người thủy thủ đang lục tục về nhà. Mấy du khách người Anh đứng bên bến tàu, tay trong tay, phía sau đầu gối rám nắng. Trên chiếc bàn ở nhà hàng còn bày lọ hoa cúc vạn thọ và tấm giấy bảo vệ khăn trải bàn.

Chưa kịp ngồi vào bàn, đó là nơi Hans đang ngồi chờ sẵn với bàn tay đan sau gáy, Greta đã bắt đầu băn khoăn về kế hoạch của mình. Đến tận lúc này, cô vẫn lo lắng Hans liệu có nhận ra nét tương đồng trên gương mặt Lili với Einar hay không? Greta sẽ làm gì nếu Hans chồm người qua bàn và thốt lên, "Sinh vật bé nhỏ xinh đẹp này là người bạn cũ của tôi, Einar đấy à?" Điều đó là không tưởng; nhưng Greta sẽ làm sao nếu Hans hỏi một câu như vậy? Và Lili sẽ phản ứng như thế nào? Rồi Greta nhìn vào Lili, xinh xắn trong bộ trang phục thường ngày với làn da rám nắng do nằm trên tấm phao nổi trên biển. Greta lắc đầu. Không, chẳng có ai ở đây ngoài Lili. Ngay cả Greta cũng chỉ nhìn thấy Lili. Và thêm vào đó, lúc anh chàng bồi bàn kéo ghế cho hai người, rồi Hans tiến đến hôn Greta và hôn Lili sau đó. Greta thầm nghĩ, Hans không còn có nét gì giống với cậu bé trong hồi ức của Einar về thời thơ ấu.

"À, giờ thì, kể cho tôi nghe về Einar đi," Hans cất lời khi món mực luộc được dọn ra trong chiếc liễn đựng súp.

"Tôi e là anh ấy đang một mình ở Copenhagen tối nay," Greta trả lời. "Ngay cả trong kỳ nghĩ mà anh ấy cũng quá bận rộn với công việc."

Lili gật gù, nâng góc khăn ăn lên miệng. Hans dựa lưng vào ghế, dùng nĩa xiên miếng mực. Anh tiếp lời, "Nghe có vẻ giống với Einar." Rồi Hans kể cho hai người nghe chuyện của Einar thường hay mang hộp sáp màu ra bên vệ đường để vẽ cảnh đầm lầy trên những hòn đá tảng. Ban đêm, mưa xuống sẽ rửa sạch bức tranh, và ngày hôm sau, cậu ấy lại vác hộp màu ra rồi tiếp tục hí hoáy phát họa.

"Thỉnh thoảng anh ấy sẽ vẽ tranh về anh," Lili kể.

"À, đúng rồi, mất mấy giờ liền đấy. Tôi sẽ ngồi bên vệ đường để cậu ấy vẽ mặt tôi lên hòn đá."

Greta chú ý thấy Lili vừa ngã vai ra sau, ngực cô ấy nhô lên như những bông hoa trinh nữ mong manh đang úp lại. Chúng vốn vẫn mọc khắp dãi núi phía trên Menton. Greta quên rằng, gần như quên mất, đó không phải là ngực thật; chúng chỉ là hạt của trái bơ gói trong khăn tay, rồi nhét vào áo lót mùa hè mà cô mua được tại cửa hiệu tạp hóa cạnh ga.

Greta cũng chú ý cách Lili - với đôi mắt thâm quầng của Einar được giấu kỹ dưới lớp phấn trang điểm - trò chuyện với Hans về Jutland. Có khao khát nào hiện rõ qua cách cô ấy khẽ cắn môi trước khi trả lời một trong những câu hỏi của Hans. Và còn cách cô ấy ngước cằm lên nữa chứ.

"Tôi biết Einar sẽ muốn gặp anh vào một lúc nào đó," Lili nói. "Anh ấy tâm sự với tôi rằng cái ngày anh bỏ trốn khỏi Bluetooth đúng là ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời. Anh ấy nói, anh là người duy nhất để anh ấy vẽ trong yên bình, còn nói rằng dù có chuyện gì xảy ra, anh ấy hoàn toàn có thể trở thành một họa sĩ." Dưới ánh nến, bàn tay cô trông xương xương và mảnh dẻ, khẽ duỗi ra rồi lại khum khum hướng về vai của Hans.

Lúc tối muộn, Lili và Greta đi thang máy lồng sắt lên căn hộ đang thuê. Greta mệt đến mức phải nhờ Einar giúp cô cởi váy và lau sạch lớp son môi. "Hans không nhận ra, đúng không?" cô hỏi, khoanh tay trước bộ ngực phẳng lì hơn cả ngực Lili. Trên trần thang máy có lắp hai cái bóng đèn trơ trọi; ánh đèn soi rõ những đường nét trên trán Einar và quanh miệng anh, lớp phấn nền màu cam đã vón thành cục. Cái sụn nhỏ trên cổ Einar đột nhiên nhô lên trên chuỗi hạt màu hổ phách. Cơ thể anh toát ra một mùi nam tính: mùi lá cây ẩm tỏa ra từ khoảng sẫm màu tiếp giáp giữa cánh tay và bờ vai, hay nằm tại chân trái nối với chân phải.

Greta lăn ra ngủ trước khi Einar lên giường. Khi tỉnh giấc, cô nhận ra Lili trong chiếc áo lót hai dây đang nằm dưới lớp chăn mùa hè. Tóc cô ấy hơi xỉn màu, dưới ánh sáng lờ mờ gương mặt ấy trông thật sạch sẽ với mấy sợi râu lún phún trên má. Lili đang nằm duỗi thẳng lưng, lớp chăn mỏng nhẹ ôm lấy hai bầu ngực hình quả lê, và xuống dưới chút nữa là khối thịt mọc giữa hai chân. Lili chưa từng ngủ chung giường với Greta; hai người từng cùng nhau ăn sáng trong bộ kimono lụa với họa tiết hình con sếu, thậm chí còn đi mua tất lụa với nhau và Greta luôn là người đứng ra trả tiền như người mẹ hoặc người cô hiếm muộn trái tính. Nhưng Einar chưa từng ngủ trên giường với bộ dạng của Lili. Trái tim của Greta vốn đập thình thịch bỗng nặng trĩu như đeo đá. Chẳng lẽ đây cũng là một phần của trò chơi? Cô có nên hôn Lili như hôn chồng mình?

Hai vợ chồng càng ngày càng ít khi gần gũi nhau. Thường thì Greta nhận lỗi về mình. Cô hay thức khuya để vẽ vời, đọc sách, và lúc cô lật chăn lên thả mình nằm xuống thì Einar đã ngủ từ lâu. Thỉnh thoảng cô sẽ thúc vào người anh, hy vọng anh sẽ thức dậy, nhưng Einar ngủ rất sâu và sau đó cô cũng ngủ mất. Cô sẽ ôm chặt chồng mình suốt đêm đến lúc tỉnh giấc, tay vòng qua ngực anh. Vào mỗi buổi sáng yên tĩnh, ánh mắt họ chạm vào nhau. Những lúc khát khao chạm vào anh, ngay khi bàn tay cô vuốt ve ngực, rồi trượt xuống đùi anh, Einar sẽ lấy tay giụi mắt, rồi nhảy xuống giường. "Anh làm sao vậy?" Greta cất giọng, vẫn quấn mình trong chăn. "Không sao hết," anh trả lời khi xả nước vào bồn tắm. "Hoàn toàn không có việc gì đâu."

Những lần làm tình, thường là do Greta bắt đầu nhưng không phải lúc nào cũng vậy, cô sẽ cảm thấy chuyện xảy ra vừa rồi không hề thỏa đáng. Cứ như cô chẳng muốn chạm vào anh nữa. Cứ như anh chẳng còn là chồng cô nữa.

Ngay lúc này, Lili trở mình. Cơ thể cô ấy xoay nghiêng lại khiến Greta liên tưởng đến sợi dây dài ngoằn. Vết tàn nhang trên lưng đập vào mắt Greta, lại còn thêm nốt ruồi gồ lên giống như hòn đảo Zealand trông đen thui và ghê sợ như một con đĩa. Dưới lớp chăn mùa hè, hông Lili cong vòng tựa như chiếc ghế sofa cameback đặt trong phòng khách của căn hộ đang thuê. Chiếc hông cong này đến từ đâu? - cong như con đường chạy dọc theo sườn núi ngoằn ngoèo trên đảo Cote từ vùng biên giới Ý đến thành phố Nice; cong như chiếc bình hoa tròn với cổ lọ thuôn thuôn mà Teddy đã nặn trên chiếc bàn xoay. Nó trông chẳng khác gì hông của người phụ nữ chứ không phải hông của chồng cô. Cảm giác này giống như có một người không quen biết đang nằm trên giường cô. Greta suy tư về chiếc hông ấy mãi đến khi bình minh trải trên khoảng sân nhỏ của căn hộ, rồi cơn mưa làm căn phòng lạnh lẽo đến mức Lili phải kéo tấm chăn mùa hè lên tận cằm cho ấm, chỗ nhấp nhô trên hông biến mất dưới tấm chăn đang giương lên như một túp lều. Hai người lại chìm vào giấc ngủ, và khi tỉnh dậy, Greta nhìn thấy Lili đang cầm trên tay hai tách cà phê. Lili mĩm cười rồi cố gắng trượt người xuống lớp chăn, nhưng hai tách cà phê đổ nhào. Greta nhìn tách cà phê đổ tràn lên chăn đệm, chảy về phía cô và Lili bật khóc.

Sau đó, lúc chiều khi Einar đang loay hoay sau căn phòng trống để biến hình thành Lili, Greta lột khăn trải giường ra. Cô xốc lấy cái chăn mốc meo, trắng nhờ nhờ và có mùi của Einar, Lili và cà phê trộn lẫn vào nhau, trải lên lan can trước hiên, rồi lấy diêm đốt một góc. Có gì đó trong lòng khiến cô muốn thấy tấm chăn bị đốt trụi. Chẳng mấy chốc tấm chăn đã chìm trong ngọn lửa cuồn cuộn, và Greta nhìn từng mảnh tro bay rải rác trong lúc thả hồn suy tư về Teddy và Einar. Mấy mảnh chăn rơi lả tả từ khoảng hiên, mang theo làn khói đen mỏng manh, khẽ khàng bay lên rồi rớt xuống theo cơn gió mùa hè, cuối cùng hạ cánh trên tán lá xù xì trên cây cam và cây chanh mọc ở công viên dưới nhà. Một phụ nữ đứng dưới đường gào lên với Greta, nhưng cô phớt lờ bà ta rồi nhắm tịt mắt lại.

Cô chưa bao giờ kể với Einar về trận hỏa hoạn ở xưởng gốm của Teddy trên phố Colorado. Phía trước phòng là một lò sưởi lót gạch mên màu cam mang phong cách Mission (2). Vào một ngày tháng Giêng, trong lúc hứng lên dọn dẹp, Greta đã nhét vòng hoa Giáng sinh vào lò sưởi, đúng nơi có ngọn lửa nhỏ đang cháy âm ỉ từ lâu. Một làn khói trắng mù mịt bắt đầu bốc lên từ mấy chiếc lá xanh khô giòn. Ngay sau đó, một tiếng răng rắc điếc tai như tiếng súng vang lên, khiến Teddy từ xưởng phía sau chạy vội đến. Anh đứng lại nơi cửa. Từ biểu cảm trên mặt anh, Greta có thể đọc được câu hỏi: Em đang làm cái gì vậy? Và rồi, hai người cùng nhìn ngọn lửa bùng lên từ vòng hoa đang bốc khói nghi ngút; một giây sau, ngọn lửa với tay ra và đốt cháy chiếc ghế lắc lư làm bằng gỗ liễu gai.

Ngay tức khắc căn phòng bốc cháy dữ dội. Teddy kéo Greta ra ngoài phố Colorado. Họ đứng ngoài lề đường chưa được mấy giây thì nắm đấm mạnh mẽ của ngọn lửa đập tan dãy cửa sổ lắp kính. Greta và Teddy lùi xuống lòng đường, đứng ngay giữa làn xe chạy. Mấy người tài xế liếc mắt nhìn, miệng tròn thành hình chữ O, còn lũ ngựa chồm lên nhảy ra khỏi tòa nhà đang bốc cháy và mấy chiếc ô tô nghiêng ngả.

Tất cả những lời Greta định nói đều có vẻ không ổn, khi ngọn lửa dâng cao quá trụ đèn đường và đường dây điện thoại vốn hay võng xuống do sức nặng của bọn chim giẻ cùi lam, cô tự nhủ một lời xin lỗi nghe thật sáo rỗng. Đúng là một cảnh tượng kinh hoàng, vậy mà Greta chẳng biết nói gì hơn ngoài câu: "Mình đã làm gì thế này?"

Teddy an ủi, "Anh lúc nào cũng có thể làm lại từ đầu mà." Trong xưởng gốm, hàng trăm lọ hoa và gạch men, hai lò nung, một ngăn đựng hồ sơ chứa đầy đơn đặt hàng và còn cuộc sống của một người thợ làm gốm tự thân lập nghiệp đã rạn nứt, nổ tung và vỡ tan thành từng mảnh đen thui. Lời xin lỗi sáo rỗng vẫn kẹt trong miệng Greta. Lời xin lỗi như bị dán chặt vào lưỡi cô như một viên đá không bao giờ tan chảy. Suốt vài phút liền, cô không nói nên lời, mãi đến khi mái nhà sập xuống, bùng cháy như tấm chăn bị thiêu rụi trong lửa.

"Em không cố ý đâu." Cô tự hỏi liệu Teddy có tin lời mình không. Khi tay phóng viên của tờ American Weekly đến hiện trường cùng mấy cây bút chì nhét trong băng vải cố định tay áo, Greta tự hỏi liệu có ai ở tại thành phố Pasadena này sẽ tin lời cô.

"Anh biết," Teddy an ủi cô hết lần này đến lần khác. Họ quan sát ngọn lửa đốt trụi bức tường phía trước. Họ nhìn chằm chằm vào những người lính cứu hỏa kéo lê cái ống nước phẳng lì, ủ rũ. Greta và Teddy đứng nhìn trân trối, mãi cho tới khi một tiếng khùng khục ẩm ướt dâng lên trong họng anh, tiếp đó là cơn ho thoát ra khỏi môi anh như báo hiệu điềm xấu.

Chú thích:

(1) Sofa cameback: kiểu ghế sofa có phần lưng ghế uốn lượn hơn so với các chi tiết còn lại của chiếc ghế.

(2) Phong cách Mission: Một phong cách nghệ thuật và sáng tạo được bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 tại Châu Mỹ.