← Quay lại trang sách

Mười bốn

Chưa bao giờ Greta hăng say với công việc như thời gian ba năm ở Paris thế này. Sáng nào cũng vậy, khi Lili đang ở ngoài mua sắm hay đi bơi, Greta sẽ hoàn thành đề tài được giao trên tạp chí. Gần như tuần nào cũng vậy, một biên tập viên của tờ La VieParisienne sẽ gọi điện thoại đến, giọng nói rối rít vì hốt hoảng, yêu cầu cô vẽ nhanh một bức về vở opera mới nhất từ tác phẩm Carmen, hay một bức tranh minh họa cho câu chuyện trong buổi triển lãm xương khủng long tại Đại Cung Điện. Greta tự nhủ thực tình cô chẳng cần nhận mấy công việc nhu vậy. Suốt mấy năm qua, tên cô vẫn đều đặn xuất hiện trên tạp chí; nhung tay biên tập vẫn rít gào vì cần tác phẩm minh họa. Khi kẹp điện thoại giữa vai và cằm để trả lời cuộc gọi, rồi nhìn chằm chằm cảnh Lili chuồn khỏi căn hộ, Greta thầm nghĩ, ồ, sao lại không nhỉ? Phải rồi, cô sẽ nhận việc phác thảo. Đúng vậy, cô có thể làm xong việc trong một buổi sáng. Rồi, tôi cần bắt tay ngay vào công việc, Greta nói rồi đặt ống nghe lên giá đỡ và tiến đến cửa sổ để dõi theo Lili đang rảo bước giữa ánh sáng ban ngày, băng qua khu phố Marche Buci, chiếc áo khoác mùa xuân màu hồng nổi bật giữa con phố buồn tẻ và ướt mưa.

Mãi cho đến khi Lili quay về thì công việc thực sự của Greta mới bắt đầu. Cô pha một ly trà cho Lili và nói, “Đến đây ngồi nào,” rồi Greta tạo dáng cho cô ấy trên ghế ngồi, hay bên cạnh cây cọ trồng trong chậu, đặt đĩa đựng và tách trà vào tay Lili. Bất kể thời tiết ra sao, Lili luôn quay về căn hộ với đôi tay run rẩy và lạnh cóng. Greta lo rằng thân hình cô ấy chẳng còn tí thịt nào, nhưng lại chẳng thể nào ép cô ấy ăn thêm chút gì. Chuyện chảy máu thỉnh thoảng đến rồi đi, vài tháng một lần, với biểu hiện là một dòng máu rỉ xuống môi trên của Lili. Sau đó Lili sẽ nằm bẹp trên giường suốt mấy ngày liền, cứ như những giọt máu đỏ thẫm rơi xuống đã rút hết sức lực của cô ấy. Greta dắt Einar đến gặp một hay hai bác sĩ người Pháp, nhưng ngay khi họ bắt đầu truy vấn hàng loạt câu hỏi (“Tôi có nên được biết thêm điều gì về chồng cô không?”), cô nhận ra chẳng có tay bác sĩ nào hiểu biết nhiều hơn bác sĩ Hexler. Cô lo lắng khi Lili nằm bẹp trên giường, ngủ li bì cả ngày, vết máu dính đầy ga trải giường, khiến Greta phải ném nó vào lò đốt rác sau căn hộ. Nhưng sau đó vài ngày, đôi khi là một tuần, nhanh chóng như lúc bắt đầu, đợt chảy máu cũng ngừng lại. “Nằm trên giường cả tuần thật là buồn tẻ,” Lili càm ràm và ném gối ôm xuống thảm.

Nếu ngồi đếm lại, Greta sẽ phát hiện ra tính đến bây giờ cô sở hữu hơn một trăm bức tranh về Lili: Lili bơi lội trong hồ; Lili tham dự đám cưới; Lili săm soi đám cà rốt bày trong chợ. Những bức tranh này hầu hết miêu tả Lili với khung cảnh ngoài trời, trên bãi đất hoang, trong vườn olive, đứng trước đường chân trời xanh ngắt trên biển Kattega. Đôi mắt mí lót màu nâu lúc nào cũng to tròn; hàng lông mày được tỉa tót thành một đường cong tinh tế; mái tóc vén sau vành tai, để lộ chiếc hoa tai màu hổ phách rũ xuống cổ.

Einar không còn vẽ nữa. “Anh đang cảm thấy thật khó để tưởng tượng ra vũng lầy,” anh gọi với ra từ xưởng vẽ, nơi những khung vải và hộp màu của anh được sắp đặt gọn gàng. Theo thói quen, anh vẫn tiếp tục đặt màu vẽ từ tận Munich, mặc dù loại màu vẽ xịn nhất thế giới đang được bán tại cửa hàng nằm ngay bên kia sông tại khu Sennelier, nơi người bán hàng đang nuôi một con mèo lúc nào cũng mang thai. Greta ghét cay ghét đắng con mèo bụng xệ đến chạm đất, nhưng cô lại thích đến gặp anh chàng bán hàng tên Du Brul, người thường nói rằng cô là khách hàng nữ quan trọng nhất, trong khi chòm râu dê kiểu Van Dyke của anh ta giựt giựt như điên. “Và người ta tin rằng phụ nữ chẳng vẽ vời gì được!” anh kêu lên ngay sau khi cô rời khỏi cửa hàng với một hộp màu mới toanh gói trong giấy báo, con mèo kêu ré lên cứ như sắp sinh đến nơi.

Căn hộ trên phố Vieille du Temple có một phòng khách rộng đến mức để vừa một cái bàn dài và hai ghế đọc sách bên cạnh lò sưởi bằng khí đốt. Trong phòng có một chiếc ghế dài bọc đệm nhung đỏ vừa to vừa tròn, với phần tựa lưng bọc đệm phồng lên ở giữa, giống như loại ghế trong cửa hàng giày dép. Và một chiếc ghế lắc lư làm bằng gỗ sồi bọc da màu nâu chuyển đến từ Pasadena. Greta gọi nơi đó là căn hộ hạng sang. Thật ra nó chẳng giống một căn hộ hạng sang tí nào vì mấy xà nhà nứt toác trên trần, và ô cửa sổ kiểu Pháp với chốt khóa bằng đồng ngăn cách mấy căn phòng. Nhưng không biết vì lý do gì mà nó làm cô nhớ đến căn nhà bên kia hẻm núi Arroyo Seco, nơi cô và Teddy Cross đã chuyển đến ở sau khi rời khỏi Bakersfield. Ánh mặt trời rọi qua sân nhà lót gạch phủ đầy rêu khiến Teddy thức dậy mỗi ngày với ý tưởng mới như nặn một chiếc bình trên bàn xoay, hay kết hợp hai màu sắc để tạo thành lớp men. Khi hai người sống ở đó, anh ấy làm việc thật nhanh nhẹn và tự do. Trong khu vườn sau nhà có trồng một cây bơ. Cây bơ cho ra nhiều quả màu xanh hình lựu đạn đến mức họ chẳng thể ăn hay cho hết được. “Anh muốn được giống như cây bơ,” Teddy nói. “Luôn luôn làm việc cật lực.” Giờ đây, tại Paris, trong căn hộ hạng sang, Greta nghĩ mình cũng giống như cây bơ. Từ cây cọ đầu hạt phỉ tương tự như cành cây, những bức tranh vẽ Lili cứ tiếp tục rơi xuống không ngớt.

Suốt một thời gian dài, cô cảm thấy tiếc nuối cho sự nghiệp dang dở của Einar. Những bức tranh phong cảnh của anh treo đầy trong căn hộ, trải từ trần nhà xuống chân tường. Mấy bức tranh là lời nhắc nhở dai dẳng và đôi lúc đượm buồn cho cuộc sống đảo ngược của hai người. Ít nhất với Greta là vậy. Einar chưa bao giờ thừa nhận rằng anh nhớ cuộc sống của họa sĩ. Nhưng đôi khi cô nhớ nó giúp anh rồi cảm thấy khó lòng hiểu được làm sao một người luôn dành cả đời để sáng tạo đột nhiên ngừng lại. Cô đoán rằng động lực trước kia của anh - chính là nhu cầu được tập trung vào khung vải trống, chiếc hộp chứa đầy ý tưởng và nỗi sợ hãi - giờ đã chuyển sang Lili.

Chỉ một năm sau khi hai người chuyển đến Paris, Hans đã bắt tay vào buôn bán tranh vẽ Lili. Với lời kêu gọi từ tạp chí, tên tuổi Greta bắt đầu nổi như cồn khắp Paris, trong quán cà phê dọc đại lộ St-Germain, trong phòng tiếp khách nơi mấy nghệ sĩ và nhà văn thả mình trên tấm thảm da ngựa vằn và uống thứ rượu tinh cất từ mận vàng. Cũng có thể có quá nhiều người Mỹ tại Paris, người này bàn tán về người kia, để mắt đến kẻ nọ theo kiểu Mỹ. Greta cố gắng tránh xa bọn họ, chính là nhóm người đêm nào cũng tụ tập ở số 27 đường Fleurus. Cô cảm thấy hoài nghi họ, và biết rõ rằng họ cũng hoài nghi cô. Những đêm dài với mấy chuyện tầm phào cạnh lò sưởi về việc ai hiện đại hay cổ hủ chẳng làm Greta hứng thú nổi. Và Greta biết giữa những nhóm người vừa tinh ranh vừa màu mè ấy không hề có chỗ cho Lili hay Einar.

Nhưng nhu cầu mua tranh vẽ Lili vẫn không ngừng, và ngay lúc bắt đầu cảm thấy hụt hơi, Greta nảy ra một ý tưởng. Cô đang vẽ bức tranh Lili trên đồng cỏ linh lăng ở vùng thôn quê Đan Mạch. Để thực hiện bức vẽ, cô yêu cầu Lili đứng trong xưởng với hai tay chống hông. Greta dễ dàng vẽ xong chân dung, mặc dù cô phải tưởng tượng cảnh ánh nắng hè nhàn nhạt ở Đan Mạch hắt lên khuôn mặt Lili. Nhưng cảnh nền đồng cỏ, với hàng cỏ mọc sau lưng Lili, chẳng làm cô thấy hứng thú chút nào. Để vẽ từng ngọn cỏ một cách chính xác, kèm theo mấy cái hồ giống miếng nhắc nồi đằng xa, Greta sẽ tiêu tốn vài ngày mất thôi; đầu tiên chỗ đường chân trời phải khô hẳn, rồi mấy cái hồ, rồi mới đến lớp cỏ đầu tiên, rồi lớp thứ hai và thứ ba.

Một ngày nọ, Greta hỏi Einar “Anh có muốn hoàn tất bức tranh này giúp em không?”. Lúc đó là tháng năm năm 1929, và Einar đã lang thang bên ngoài suốt một buổi chiều. Anh quay về căn hộ và nói rằng mình đã dành cả buổi chiều ngồi tại quảng trường Place the Vosges, “Ngắm lũ trẻ thả diều.” Anh trông cực kỳ gầy yếu trong bộ comple vải tuýt, áo khoác hờ lên vai. “Mọi chuyện đều ổn chứ?” cô hỏi thăm khi anh tháo cà vạt và đi pha một tách trà. Greta nhìn thấy một nỗi buồn đậu trên vai anh, một cảm giác u sầu tăm tối hơn bất kỳ thứ gì mà cô từng thấy trước đó; hai thứ ấy trĩu nặng khiến người ta phải cau mày. Bàn tay anh vừa lạnh cóng vừa thiếu sinh khí nằm trọn trong bàn tay cô. “Em cảm thấy khó mà bắt kịp tiến độ. Sao anh không bắt đầu giúp em vẽ vài phần cảnh nền nhỉ? Anh biết một cánh đồng cỏ linh lăng phải trông như thế nào tốt hơn em mà.”

Einar để con Edvard IV nằm trên đùi và nghĩ về đề nghị này. Áo anh nhăn nhúm, và bên cạnh anh là một đĩa lê đặt trên bàn. “Em nghĩ anh làm được sao?” anh dò hỏi.

Cô dẫn anh đến xưởng vẽ và chỉ cho anh thấy bức chân dung mới hoàn thành được một nửa. “Em nghĩ phải có một cái hồ hình miếng nhắc nồi phía đường chân trời,” cô gợi ý.

Einar nhìn chằm chằm vào bức chân dung còn dang dở. Anh nhìn vào nó một cách trống rỗng, giống như anh không hề nhận ra cô gái ấy. Rồi dần dần sự hiểu biết lấp đầy đôi mắt anh, mi mắt nheo lại, lông mày giãn ra. “Vẫn còn thiếu một vài chi tiết,” anh góp ý. “Đúng rồi, nên có một cái hồ, và thêm một cây liễu mọc đơn độc bên bờ suối. Còn đây có thể là một trang trại. Nó nằm xa tít tận chân trời nên khó định hình chính xác, chỉ là một mảng màu nâu nhạt gì đó. Nhưng có lẽ đó là một trang trại.”

Anh thức gần cả đêm để hoàn thiện bức tranh, màu vẽ bê bết khắp áo quần. Greta vui mừng khi thấy anh làm việc lại. Ngay cả khi chuyện này đồng nghĩa với số buổi chiều với Lili sẽ ít hơn, nhưng cô muốn Einar có công việc của mình. Khi trải giường ngủ, cô nghe thấy tiếng anh trong xưởng vẽ, tiếng mấy lọ sơn leng keng chạm vào nhau. Cô không kìm lòng được mà gọi cho Hans ngay sáng hôm sau để kể với anh rằng Einar đã bắt đầu vẽ vời. Rằng cô vừa tìm được phương pháp để vẽ được nhiều tranh về Lili hơn. “Anh sẽ chẳng tin nổi rằng ai đang giúp đỡ em đâu,” cô reo lên. Ký ức về Hans tại nhà ga Gare du Nord ba năm về trước quay lại trong tâm trí cô. Đó là khi cô và Einar lần đầu tiên đặt chân đến Paris, trong sổ tay chỉ có vài ba địa chỉ liên lạc. Hans đang chờ họ tại ga tàu hỏa, mái tóc vàng như lông lạc đà phủ lên dáng người sừng sững đứng yên giữa một đám đông mặc toàn áo len màu đen. “Em sẽ ổn thôi,” anh trấn an Greta rồi hôn lên trán cô. Anh vòng hai tay quanh cổ Einar, hôn lên trán anh ấy. Hans lái xe đưa hai người đến một khách sạn cách Học viện Mỹ thuật chỉ mấy tòa nhà. Rồi anh hôn tạm biệt hai người. Greta nhớ đến cảm giác hụt hẫng khi Hans đến gặp họ với cánh tay dang rộng chào đón rồi biến mất nhanh chóng. Cô nhìn theo đầu tóc kiểu Borreby lướt qua cánh cửa ngoài đại sảnh. Einar hẳn cũng cảm thấy thất vọng, hay còn tồi tệ hơn. “Em có cho rằng Hans chẳng hề muốn chúng mình đến đây không?”, anh thắc mắc. Thực ra, cô đã cảm giác được sự do dự nghiêm trọng từ Hans, từ dáng đứng thẳng tắp và đanh thép như cây trụ chống đỡ mái nhà ga.

Einar băn khoăn, “Em có nghĩ rằng chúng mình quá Đan Mạch so với gu của cậu ấy không? Quá quê mùa?” Và Greta, người vẫn nhìn chồng mình, để ý đến đôi mắt nâu thẫm như vũng bùn, và những ngón tay run run đang ôm con Edvard IV trên tay, trả lời: “Đó là việc của anh ấy, không phải việc của chúng mình.”

Họ thuê hai phòng được trang hoàng với tông màu đỏ tại khách sạn. Một phòng có cả góc hóng mát với rèm kéo. Nhân viên tạp vụ của khách sạn tự hào khoe rằng Oscar Wilde đã trải qua những tuần cuối đời ở đây. “Ông ta qua đời ngay tại góc hóng mát,” bà chủ khách sạn tuyên bố.

Greta ghi chép lại vài dòng về câu chuyện lịch sử này. Đối với cô mà nói, chuyện này quá mức bi thảm để bắt Einar ghi lại. Họ sống tại hai phòng đó vài tháng trong lúc tìm kiếm một căn hộ. Sau đó vài ngày, khách sạn trở nên ảm đạm, giấy dán tường cuốn lại và vết rỉ sét cứ nhỏ giọt vào bồn rửa mặt. Nhưng vì Einar khăng khăng trả tiền nhà trọ cho hai người nên anh đã loại trừ những căn hộ tốt hơn tại khách sạn Rhin hay Edouard VII. “Thực sự mình chẳng cần phải sống kham khổ mà,” Greta lên tiếng, đề nghị thuê một chỗ ở vùng phụ cận sang trọng hơn, kèm theo quang cảnh đẹp và thuê một cô hầu gái phục vụ cà phê ban đêm. “Có thật là em đang cảm thấy kham khổ không?” Einar hỏi lại, khiến Greta bỏ dở chủ đề vừa nói. Cô cảm nhận được sự khó chịu giữa hai người vốn thường xảy ra khi họ đi du lịch.

Trong góc phòng có đặt một cái bếp lò nhỏ mà cô thường dùng để đun nước pha cà phê. Họ quyết định ngủ ngay tại góc hóng mát, trên cái giường đã trũng xuống ở giữa và kê sát tường đến mức từng tiếng rít từ phòng bên cạnh cũng có thể truyền qua. Einar dựng giá vẽ trong phòng có góc thư giãn; Greta nhận phòng thứ hai, cảm thấy nhẹ nhõm khi chốt cửa và được ở một mình. Vấn đề là cô không thể vẽ một mình. Cô cần Lili.

Họ vừa chuyển đến Paris được một tháng mà Greta đã đề nghị, “Em muốn ăn mừng việc chuyển đến đây với Lili.” Greta nhìn thấy nỗi kinh hoàng dâng lên trong đôi mắt của chồng mình, cách con ngươi giãn ra rồi co lại. Lili chưa hề xuất hiện ở Paris. Đó là một trong nhiều lý do khiến hai người rời khỏi Copenhagen. Sau chuyến khám bệnh với bác sĩ Hexler, ông ta có gửi đến một bức thư. Greta đã mở thư và đọc được lời đe dọa rằng bác sĩ Hexler có thể sẽ trình báo Einar và Lili với cơ quan sức khỏe. “Anh ta có thể trở thành hiểm họa với xã hội.” Greta tưởng tượng ra cảnh bác sĩ Hexler đọc những điều ấy qua ống nghe hình phễu để cô y tá tóc đỏ viết lại lá thư. Sự kinh hoàng do lá thư mang lại - khả năng có người khác ngoài cô sẽ kiểm soát tương lai của Lili - làm cô phiền muộn sâu sắc, và cô chẳng thể suy nghĩ rõ ràng khi Einar bước vào căn hộ sau khi đến thăm Anna. Trước khi Greta kịp ngăn mình lại, cô nhanh chóng ném lá thư vào bếp lò sắt. “Hans đã gửi thư đến,” cô nói. “Anh ấy nghĩ chúng mình nên chuyển đến Paris.” Và rồi, “Chúng mình sẽ chuyển đi luôn một lần.”

Lili đến Paris và gõ cửa phòng khách sạn của Greta. Tóc Lili bây giờ đã mọc dài hơn, với màu nâu sẫm óng ả như đồ nội thất thượng hạng, mấy cái lược đính nhiều hạt ngọc trai bé xinh giữ tóc ngược ra sau. Cô ấy đang mặc một chiếc váy đầm mà Greta chưa thấy bao giờ. Chiếc váy lụa tím với cổ áo rộng khoét sâu xuống rãnh ngực. “Chị vừa mua váy mới à?” Greta thắc mắc. Chẳng biết vì lý do gì mà Lili lại đỏ mặt, một cụm mây hồng xuất hiện trên cổ và ngực cô. Greta tò mò về việc làm thế nào mà Einar tạo ra rãnh ngực. Chẳng lẽ ngực anh mềm mại đến mức nhét vừa áo corset cơ bản nên mới đẩy bộ ngực nhô lên.

Họ đến nghe vở “Fraud" tại nhà hát Opera Gamier. Ngay lập tức, Greta nhận ra có vài gã đàn ông chú ý đến Lili khi cô ấy bước lên cầu thang có lan can màu đồng. “Cái gã tóc đen kia đang nhìn chị chằm chằm. Chúng ta mà không cẩn thận là anh ta có thể chạy sang đấy."

Bên cạnh ghế ngồi của họ là một cặp đôi vừa quay về từ California. “Mười hai tháng ở Los Angeles," người đàn ông kể. “Vợ buộc tôi phải rời đi." Anh ta nhắc đến chuyến du lịch đến Pasaneda lúc đầu năm mới để xem Hội thi đấu Hoa Hồng. “Ngay cả bờm ngựa cũng được đính hoa," người vợ xen vào. Sau đó vở opera bắt đầu và Greta dựa lưng ra sau. Cô cảm thấy khó mà tập trung vào nhân vật bác sĩ Faust đang ân hận về phòng thí nghiệm đen tối của ông ta, khi bên phải cô là Lili, còn bên trái là người đàn ông vừa ghé qua nhà chung trên đại lộ Orange Grove. Cô rung chân; rồi lơ đãng xoay cổ tay. Cô biết chắc đêm nay chuyện gì đó sẽ bắt đầu phô bày. Carlisle thường hay nói gì về cô nhỉ? Chẳng có điều gì có thể làm Greta cứng đầu dừng lại một khi cô đã bắt đầu. Không một người nào có thể cản cô.

Lúc nghỉ giữa giờ, cả Lili và vợ của người đàn ông kia đều xin phép đứng lên. Người đàn ông trung niên có râu quai nón ghé sát người Greta và hỏi, “Có cách nào để tôi gặp riêng chị họ cô một lúc không?"

Nhưng Greta từ chối người đàn ông gặp ở nhà hát giúp Lili. Giống như sau đó cô đã chối bỏ niềm khao khát của chính mình - chối bỏ rằng cô khó lòng nhận ra họ. Trong quãng thời gian hai vợ chồng còn ở tại khách sạn Oscar Wilde, Hans đón Greta tại hành lang tối và dẫn cô đến văn phòng của anh nằm trên phố Tivoli. Hans đã đồng ý bàn bạc nghiêm túc với cô về chuyện nghề nghiệp. Nhưng khi hai người đang băng qua cầu Pont Neuf, tay Hans thỉnh thoảng trượt xuống eo cô và anh nói, “Anh nghĩ là anh không cần khen em đẹp như thế nào chứ.”

Lần đầu tiên xảy ra chuyện đó, cô gạt tay anh xuống và tưởng rằng đó là chuyện tình cờ. Rồi nó lại tiếp diễn vào tuần sau. Rồi lại tiếp tục. Lần thứ tư, Greta tự nhủ với lòng mình rằng cô không thể để anh ta chạm vào mình như thế này mãi. Làm sao cô có thể nhìn mặt Einar chứ? Cô nhớ đến lúc tay Hans vuốt ve dọc sống lưng mình khi họ băng qua sông. vẫn bước đi, nhưng Greta chẳng cảm thấy gì ngoại trừ bàn tay đang đặt sau lưng cô. Cô chợt nghĩ thì ra từ lâu lắm rồi, chồng mình chẳng còn chạm vào người mình như thế nữa.

Họ tiếp tục đi đến văn phòng, bước vào phòng làm việc không cửa sổ sau phòng khách với hàng loạt ngăn kéo đựng hồ sơ, nơi Hans đang tìm vài cái tên cho Greta liên lạc. Anh mở một tập tài liệu, rê ngón tay dọc một danh sách khách hàng và nói, “Em nên liên lạc với anh ta... anh ta nữa... nhưng đảm bảo tránh xa anh này.” Đứng cạnh Hans, Greta cảm thấy như ngón tay kia đang lướt dọc cánh tay mình, nhưng chuyện đó chẳng thể xảy ra vì anh đang mở tập hồ sơ bằng hai tay. Cô có cảm giác anh đang chạm vào eo; nhưng không, anh ấy còn chưa đặt tập tài liệu xuống.

“Anh có nghĩ bọn em sẽ ổn định ở đây không?” cô hỏi.

Nụ cười khiến môi Hans suýt nứt ra. “Ý em là sao?”

“Einar và em? Tại Paris? Anh có nghĩ bọn em sẽ ổn ở đây không?”

Nụ cười trên môi anh vụt tắt. “Đúng vậy, tất nhiên rồi. Bọn em có nhau mà.” Và sau đó anh tiếp lời, “Đừng quên anh đấy nhé.” Gương mặt anh như có như không tiến sát mặt cô. Có chuyện gì đó giữa hai người - không phải tập hồ sơ, mà là chuyện khác. Họ không nói gì.

Nhưng Greta nghĩ Hans với cô là không thể. Nếu có ai đó có được Hans, người đó nên là Lili mới phải. Mặc dù phòng phía sau lạnh ngắt, cô đột nhiên cảm thấy ấm áp và nhớp nháp, cứ như một lớp bụi ẩm đang phủ lên người mình. Cô đã gây ra lỗi lầm gì không thể cứu vãn hay sao?

“Em muốn anh làm nhà buôn tranh cho em,” cô đề nghị. “Em muốn anh quản lý hết tranh em vẽ.”

“Nhưng anh chỉ chuyên buôn tranh của những danh họa lâu năm và những bức tranh thế kỷ mười chín thôi.”

“Có thể đây là lúc anh chuyển hướng sang những họa sĩ phong cách hiện đại?”

“Nhưng chuyện này thật vô lý.” Sau đó anh nói, “Nghe này, Greta, anh có điều này muốn nói với em.” Anh tiến lại gần hơn, với tập hồ sơ trên tay. Ánh đèn trong phòng xám xịt, và Hans trông như cậu thanh niên chưa quen với cơ thể to lớn mới mẻ của mình.

“Đừng nói lời nào trước khi anh đồng ý đỡ đầu cho em.” Dù lòng không muốn nhưng cô vẫn bước sang phía đối diện bàn làm việc. Giữa Greta và Hans giờ là một cái bàn chất đầy giấy tờ. Ngay lúc ấy cô vừa muốn để anh ôm mình, vừa muốn băng qua cầu Pont Neuf, chạy về khách sạn, nơi Einar đang chờ đợi và run lập cập bên lò sưởi.

“Để em nói nhé,” cô lên tiếng. “Bây giờ em đang cho anh một cơ hội được đỡ đầu cho em. Nếu anh quyết định từ chối, em chắc là một ngày nào đó anh sẽ hối hận.” Cô miết tay lên vết sẹo mờ trên má.

“Vì sao anh lại hối hận?”

“Anh sẽ hối hận bởi vì một ngày kia, anh sẽ tự nhủ với chính mình rằng anh lẽ ra đã có được cô ấy. Rằng Greta Wegener lẽ ra đã thuộc về anh.”

“Nhưng đâu phải anh hắt hủi em,” Hans bảo. “Em không hiểu sao?”

Nhưng Greta hiểu rõ. Hay ít nhất là cô hiểu ý định của Hans. Điều làm cô không hiểu là cảm giác như chim ruồi đang gõ liên hồi trong ngực cô - vì sao cô không cảm thấy khinh bỉ Hans khi anh ta sấn tới như thế? Vì sao cô không nhắc anh rằng chuyện này sẽ làm tổn thương Einar như thế nào? Vì sao cô chẳng đủ can đảm nhắc đến tên anh?

“Rốt cuộc anh có đồng ý không?” cô gắt lên.

“Chuyện gì cơ?”

“Anh có đại diện cho em không? Hay là em nên rời đi?”

“Greta, hãy cư xử hợp tình hợp lý nào.”

“Em nghĩ là em có lý. Đó là câu trả lời hợp lý nhất mà em nghĩ đến.”

Họ đều đứng tựa vào hai bên bàn đối diện nhau. Mấy tập giấy tờ được đặt dưới cái chặn giấy bằng đồng giống con ếch. Cô đọc được tên anh ấy khắp mọi nơi, trên giấy tờ, hết tờ này đến tờ khác. Hans Axgil. Hans Axgil. Hans Axgil. Nó làm cô nhớ đến quãng thời gian khi cô luyện viết lúc còn bé: Greta Greta Greta.

“Anh sẽ nhận việc này,” anh thỏa hiệp.

“Sao cơ?”

“Đại diện cho em.”

Cô chẳng biết nói gì hơn. Cô cảm ơn anh và thu xếp đồ đạc. Cô chìa tay ra. “Em nghĩ là nên bắt tay anh,” cô nói. Anh bắt tay cô, ngay lúc ấy bàn tay cô lạc lối giữa bàn tay anh, giống như bị ràng buộc; nhưng rồi anh thả tay ra.

“Tuần tới mang đến cho anh vài bức tranh nhé,” anh bảo.

“Tuần tới,” và Greta bước ra phòng khách trong văn phòng của Hans, nơi ánh mặt trời và âm thanh ồn ào của thành phố len lỏi qua cửa sổ, và tiếng máy đánh chữ của cô thư ký không ngừng lách cách, lách cách.

Mùi máu tanh làm Einar thức giấc. Anh bước xuống giường, cẩn thận tránh làm phiền Greta. Cô có vẻ không thoải mái, vẻ mặt như đang gặp phải ác mộng. Máu rỉ xuống đùi anh, thành dòng chảy chầm chậm và ấm nóng. Dòng máu cũng chảy từ mũi anh. Anh đã đánh thức Lili.

Trong phòng ngủ bỏ trống, bình minh chiếu lên tủ quần áo màu xám tro. Greta đã dành ngăn trên cho Lili. Mấy ngăn kéo phía dưới đều là của Greta và giờ đã được khóa kỹ. Nhìn vào gương, Lili thấy mũi cô đầy máu, một vệt máu nằm trên áo ngủ. Cô không giống với Greta. Chuyện chảy máu chẳng hề làm cô lo lắng, nó cứ đến rồi đi, và Lili sẽ chịu đựng nó như bệnh cảm lạnh. Với cô mà nói, đó chỉ là một phần của tất cả những chuyện này, cô thầm nghĩ vậy khi thay quần áo - kéo váy lên hông, vuốt mớ tóc dựng đứng cho ngay ngắn. Lúc đó là tháng Sáu, và một tháng đã trôi qua kể từ khi Einar quyết định, trên băng ghế trong công viên, rằng cuộc sống của anh và Lili phải tách bạch rõ ràng. Lili cảm thấy bị đe dọa, cứ như thời gian không còn là vô tận.

Trên khu phố Marche Buci, sương sớm đã khô đi. Dân buôn bán nhỏ, mỗi người có một gian hàng được che chắn bằng mái kẽm, chiếm hết hẻm này đến hẻm khác. Những người buôn bán đang bày lên bàn mấy thứ đồ sứ mẻ, mấy hộc kéo mất tay nắm, vài chồng áo quần. Một người phụ nữ chỉ bán toàn xúc xắc ngà voi. Anh chàng kia thì có nguyên một bộ sưu tập giày múa ballet nhưng đang đau lòng không muốn bán đi. Còn có một người phụ nữ nọ đang bày bán những chiếc váy và áo kiểu tinh xảo. Bà ta khoảng ngoài bốn mươi tuổi, có mái tóc ngắn màu xám và răng cửa bị mẻ. Tên bà ta là Madame Le Bon, người gốc Algeria. Sau mấy năm trời bà cũng quen với sở thích của Lili, và bà ta sẽ lùng cho bằng được những cái váy trễ eo mà Lili thích, thêm mấy chiếc áo kiểu màu trắng với hình thêu đính trên cổ áo từ chợ giảm giá đồ mai táng tại làng Passy. Madame Le Bon biết rõ cỡ giày của Lili, còn hiểu cô sẽ không chịu mang những đôi giày để lộ ngón chân không có móng. Bà cũng tìm mua cho Lili loại áo lót cúp nhỏ, và mấy cái áo corset lỗi thời có gọng làm bằng xương cá voi, thứ sẽ giúp cô ấy cải thiện vấn đề ngực nhỏ. Bà cũng biết Lili thích hoa tai dáng dài đính pha lê, và bao tay lông thỏ vào mùa đông.

Khi đang lướt tay qua giá quần áo trong gian hàng của Madame Le Bon, Lili chú ý ngay đến một người đàn ông trẻ tuổi với vầng trán cao đang chăm chú vào mấy quyển sách tranh tại gian hàng kế bên. Áo khoác ngoài vắt lên cánh tay, vali vải bạt đặt dưới chân anh. Dáng đứng của anh ta rất kỳ quái, cứ như toàn bộ sức nặng chịu trên một chân. Anh ta có vẻ chẳng mấy hứng thú với sách tranh, lật qua

vài trang rồi ngước lên nhìn Lili. Ánh mắt họ gặp nhau hai lần; lần thứ hai, anh ta mỉm cười.

Lili quay lưng đi và ướm thử một chiếc váy caro lên eo mình. “Vày này đẹp đấy,” Madame Le Bon ngồi trên ghế và xuýt xoa. Bà ta đã dựng một phòng thử đồ nhỏ bằng cách treo một tấm ga trải giường lên dây phơi quần áo. “Mặc thử đi,” bà thúc giục, vén tấm vải ra sau.

Trong phòng thử đồ, mặt trời rọi qua mấy lớp vải. Chiếc váy vừa khít và Lili nghe thấy từ bên ngoài vọng lại giọng nói của một người ngoại quốc hỏi Madame Le Bon rằng bà ấy có bán áo quần nam giới không.

“Tôi e là không có áo quần gì thích hợp với cậu hết,” bà bảo. “Cho vợ cậu thì được.”

Anh chàng ngoại quốc bật cười. Rồi Lili nghe thấy tiếng mắc áo xô đẩy trên giá treo.

Khi cô ló đầu ra khỏi phòng thử đồ, chàng ta đang trải ra rồi gấp lại mấy chiếc áo len đan. Anh chạm tay vào mấy chiếc nút màu ngọc trai và kiểm tra xem tay áo có bị sờn không. “Bà có nhiều hàng tốt thật,” anh ta nói, nở nụ cười với Madame Le Bon và Lili. Trên gương mặt anh là đôi mắt xanh biếc to tròn và có một hai nốt sẹo trên má. Anh ta cao dong dỏng. Một cơn gió nhẹ đưa đến mùi nước hoa sau khi cạo râu của anh ta, và Lili khẽ nhắm mắt, tưởng tượng ra hình ảnh người đó đổ chất lỏng ra lòng bàn tay rồi vỗ nhẹ lên cổ. Mọi chuyện giống như cô đã quen biết anh từ trước.

Madame Le Bon ghi vào sổ chiếc váy caro. Chàng trai đặt cái áo len xuống, hơi khập khiễng tiến lại gần Lili. “Xin lỗi cô,” anh ta ngập ngừng nói tiếng Pháp. “Quý cô.” Anh lê bước về phía Lili. “Tôi vừa thấy rằng...”

Nhưng Lili chẳng hề muốn nói chuyện với anh ta; chỉ là chưa muốn trò chuyện. Cô tóm lấy túi xách với chiếc váy, cảm ơn Madame Le Bon và lẩn ra sau phòng thử đồ rồi chuồn qua gian hàng kế bên, nơi gã hói đầu đang bán mấy con búp bê Trung Hoa bị hỏng.

Khi Lili về nhà, Greta đã tỉnh giấc và đang cầm miếng giẻ ướt lau dọn khắp căn hộ. Sáng nay Carlisle sẽ đến đây nhân dịp nghỉ hè. Căn hộ cần được dọn sạch, mấy đám bụi nhẹ tựa lông vũ tụ lại trong mấy góc. Greta phản đối chuyện thuê một cô giúp việc. “Em không cần,” cô cương quyết, đeo bao tay và ra tay càn quét đám bụi. “Em không phải kiểu phụ nữ cần có người giúp việc.” Nhưng sự thật thì cô đúng là kiểu phụ nữ như vậy.

“Khoảng một tiếng nữa là anh ấy đến thôi,” Greta rối rít. Cô đang mặc một chiếc váy đầm len màu nâu ôm sát người, trông thật xinh đẹp. “Anh sẽ giữ bộ dạng của Lili à?” cô thắc mắc.

“Anh nghĩ có thể như vậy lắm.”

“Nhưng em không nghĩ rằng anh ấy nên gặp Lili ngay lúc này. Không phải ngay ngày đầu tiên. Không được trước khi gặp Einar.”

Greta nói đúng, nhưng một phần trong Einar muốn Lili là người đầu tiên được gặp Carlisle, như thể cô ấy mới là một nửa hoàn hảo hơn của bản thân mình. Anh treo chiếc váy caro vào tủ quần áo và thay áo quần, chỉ chừa lại quần lót lụa kiểu tứ giác. Màu lụa xam xám như vỏ hàu. Chất lụa mềm tạo ra tiếng sột soạt khi anh bước đi. Anh không muốn đổi quần lót lụa để mặc quần cụt bằng len và áo con vốn hay gây ngứa ngáy, giữ nhiệt rồi khiến anh bốc hỏa vào

một ngày ấm áp nào đó. Anh không muốn Lili phải hoàn toàn bị gấp gọn rồi cất trong tủ. Anh ghét phải nhét cô vào chỗ nào đó. Lúc nhắm mắt lại, Einar chỉ nhìn thấy cô ấy; anh chẳng thể hình dung được hình dáng của chính mình.

Anh lôi chiếc quần tây ra. Rồi anh rời khỏi căn hộ. “Anh đi đâu vậy?” Greta vặn hỏi. “Vài phút nữa là anh ấy đến đây rồi.”

Bầu trời không một đám mây. Bóng mấy tòa nhà vừa dài vừa lạnh lẽo trải dọc con phố. Rác nhớp nháp trên rãnh nước. Cảm thấy cô đơn, Einar tự hỏi liệu có ai trên thế giới này thấu hiểu anh. Cơn gió lùa qua phố như tốc thẳng qua xương sườn anh.

Anh bước đến con phố ngắn phía bắc tòa nhà Les Halles. Chẳng có mấy người quanh đây, chỉ có ông chủ hiệu buôn thuốc lá đang dựa vào khung cửa, một bà béo đang chờ xe buýt tự động, một người đàn ông đang vội vàng bước đi, trong bộ comple có vẻ quá chật với mình và cái mũ quả dưa đội sụp xuống.

Dọc hành lang nhà số 22 là một chiếc khăn choàng dính rượu nằm trên bậc thang dẫn đến cửa nhà Madame Jasmin-Carton. “Hôm nay sớm vậy,” bà nói, tay vuốt ve con mèo của mình. Bà đưa cho Einar chìa khóa của phòng số Ba. Phòng này trở thành chốn quen thuộc với anh. Ghế bành bọc len màu lục. Thùng lưới đựng giấy vụn luôn được dọn sạch - khiến người ta thoáng ảo tưởng rằng chưa hề có ai sử dụng căn phòng này. Và hai cửa sổ nằm hai phía đối diện của căn phòng với rèm đen luôn kéo kín. Einar luôn vén rèm phía bên phải. Kéo căng sợi thừng để tấm rèm tự động kéo roẹt một phát. Anh không tài nào đếm nổi

số lần mình ngồi trên ghế bành màu lục, hơi thở làm mờ lớp kính cửa sổ khi cô gái để lộ vùng kín và nhảy nhót phía bên kia. Chuyện này đã thành thói quen, gần như ngày nào cũng vậy, như việc đi bơi ở hồ, hay thả bộ đến góc đường Etienne-Marcel để nhận thư từ Khách sạn Postes, hầu hết là gửi cho Greta. Và Madame Jasmin-Carton chưa bao giờ tính anh ít hơn năm Franc, chưa hề giảm giá, mặc dù anh không chắc mình muốn được ưu đãi một lần. Nhưng bà cũng từng ưu đãi anh, để anh ngồi trong phòng số Ba bao lâu tùy thích; thỉnh thoảng anh còn ngồi trên chiếc ghế bọc len màu lục suốt nửa ngày. Anh đã từng ngủ ở đó. Một lần khác, anh còn mang theo bánh mì, một quả táo và vài lát phô mai Gruyere để ăn trưa khi người đàn bà với cái bụng trĩu xuống như túi cát nhảy nhót quanh con ngựa gỗ bập bênh.

Nhưng Einar chưa từng chạm đến cửa sổ bên kia. Bởi vì anh biết rõ sau đó có gì. Không biết bằng cách nào, nhưng anh biết một khi đã vén rèm lên, mình sẽ không bao giờ quay lại với cửa sổ bên phải.

Vậy mà hôm nay cứ như phòng số Ba chỉ có duy nhất một cái cửa sổ, ô nhỏ màu đen nằm bên trái. Và thế là anh kéo tấm rèm bên trái. Tấm rèm mở roẹt một phát, rồi Einar nhìn qua.

Bên kia là một căn phòng quét sơn đen tuyền, với sàn lót ván gỗ sơ sài đến mức thấy rõ kẽ ván. Trong đó, một cậu trai đang đặt một chân lên cái hộp nhỏ sơn đen. Chân cậu ta đầy lông, gợi cho Einar nhớ đến cánh tay Madame Jasmin-Cartion. Cậu ta có vóc người trung bình, trông mềm mại với bộ ngực phẳng lì. Lưỡi cậu ta đang thè ra khỏi

miệng còn tay để lên hông. Cậu ta đang uốn éo xoay hông, làm dương vật nửa căng cứng cứ lúc lắc như sức nặng của một con cá lòng tong trên bến tàu. Nhờ vào nụ cười của cậu ta, Einar có thể nhận ra người này yêu bản thân mình say đắm.

Anh không biết mình đã nhìn chằm chằm vào cậu trai nhảy múa trên đầu ngón chân, dương vật căng lên rồi xìu xuống như cái đòn bẩy hết nâng lên lại hạ xuống. Einar không nhớ được mình đã quỳ xuống và dí mũi vào tấm kính như thế nào, nhưng anh nhận ra mình đã làm thế. Anh không biết mình đã cởi áo khoác, cà vạt và cả áo sơ mi vào lúc nào, nhưng giờ chúng lại xếp thành đống trên chiếc ghế bành màu lục.

vẫn còn mấy ô cửa sổ khác nhìn vào phòng chàng trai. Và sau một ô cửa ngay đối diện Einar là một gã đàn ông đang nhe răng cười. Anh chẳng thấy gì khác ngoài kiểu cười nhe răng lóe sáng dưới ánh đèn. Từ kiểu cười nhe răng nồng nhiệt, gã ta có vẻ thích thú với cậu trai giống như Einar. Nhưng sau vài phút, xuyên qua căn phòng và trực diện vào gã kia, Einar bắt đầu nhìn rõ đôi mắt người đó. Anh thầm nghĩ, đôi mắt mới xanh biếc làm sao. Còn gã ta dường như chẳng còn tập trung vào cậu trai đang duỗi tay cầm lấy dương vật, tay kia vuốt ve đầu vú nhỏ bằng đồng centime, mà là vào Einar. Gã ta nhếch môi rộng hơn, và kiểu cười nhe răng còn sáng chói hơn trước.

Einar cởi quần, thả chúng trên ghế bành màu lục. Một phần trong anh là Einar, phần khác lại là Lili. Một người đàn ông đang mặc quần lót màu xám vỏ hàu của Lili với chiếc áo lót đồng màu treo hờ hững trên vai. Einar có thể

nhìn thấy hình ảnh phản chiếu mờ nhạt của chính mình trên kính cửa sổ. Không biết vì sao nhưng anh không hề thấy chói mắt. Anh cảm thấy - đây là lần đầu tiên anh dùng từ này để miêu tả Lili - xinh xắn. Lúc này Lili thấy thư giãn: đôi vai trắng ngần phản chiếu trên kính, chỗ lõm nhỏ xinh ngay dưới cổ cô ấy. Cứ như chuyện đàn ông nhìn chằm chằm vào cô ấy trong trang phục đồ lót, với dây áo ngực chạy qua vai, là điều hiển nhiên nhất thế giới. Cứ như có gì đó trong tâm hồn Einar vừa gãy ngang, nghe như tiếng rèm cửa sổ bằng vải bạt, rồi mách bảo một cách thẳng thừng rằng đó mới là nhân cách thực sự của anh: Einar chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài mà thôi. Sau khi lột bỏ quần tây và cà vạt kẻ sọc do Greta tặng anh vào sinh nhật lần trước, thì chỉ còn lại duy nhất Lili. Anh biết rõ điều này; anh đã biết từ lâu rồi. Einar có mười một tháng. Năm tháng của anh đang trôi đi. Trong căn phòng vừa chật hẹp vừa oi bức, và qua hình ảnh phản chiếu trên kính cửa sổ, anh trông thấy vầng trán Lili đẫm mồ hôi, sáng lên như mặt trăng lúc khuyết thành hình bán nguyệt.

Người vũ công vẫn tiếp tục biểu diễn, dường như chẳng nhận thấy Einar và gã đàn ông kia. Mắt cậu ta nhắm nghiền, hông vẫn xoay, một túm lông đen nhánh lộ ra dưới cánh tay. Gã đàn ông đối diện vẫn tiếp tục chăm chú nhìn, ngoác miệng cười rộng hơn. Ánh đèn chẳng hiểu vì sao đã thay đổi, và Einar có thể thấy đôi mắt gã ta biến thành màu vàng.

Đứng trước cửa sổ, Einar bắt đầu vuốt ve ngực mình qua lớp áo lót. Đầu vú anh căng cứng và nhức nhối. Lúc xoa ngực, một làn nước ngầm gợn lăn tăn quét qua Einar. Đầu

gối anh run rẩy, còn phía sau đầu gối ướt đẫm. Einar lùi xa cửa sổ một chút để gã đàn ông kia có thể chiêm ngưỡng toàn bộ thân hình anh, thấy rõ hông anh bó chặt trong quần lụa, nhìn kỹ đôi chân anh mịn màng chứ không đầy lông lá như cậu trai kia. Einar muốn gã ta nhìn ngắm vóc dáng của Lili. Einar lùi ra phía sau thật xa đến khi gã thấy anh trọn vẹn, ngoại trừ vị trí ấy trong căn phòng số Ba thì Einar không thể thấy được gã kia. Nhưng chuyện này cũng chẳng có gì quan trọng. Và thế là trong khung cửa sổ, Einar cọ xát cơ thể mình vài phút, mô phỏng lại những động tác mà anh đã thấy mấy cô gái biểu diễn qua ô cửa sổ bên phải suốt mấy tháng vừa rồi.

Khi Einar tiến lại gần cửa sổ hơn và nhìn xuyên qua phòng, cả cậu trai lẫn gã đàn ông đều đi rồi. Đột nhiên Einar bắt đầu xấu hổ. Làm sao anh lại đến mức này - phô bày vóc dáng kỳ quái của anh, với áo lót ôm lấy bộ ngực mềm, cặp đùi tái nhợt, mềm mại, lấp lánh sắc bạc dưới ánh đèn, trước mặt mấy kẻ lạ mặt? Anh ngồi trên ghế bành, trên đống áo quần, co gối lại trước ngực.

Rồi có tiếng gõ nhẹ vào cửa, hai tiếng gõ cửa. Rồi lại tiếp tục.

“Vâng?” Einar lên tiếng.

“Là tôi đây.” Một giọng đàn ông vang lên.

Rồi lại có hai tiếng gõ cửa. Miệng anh khô khốc; tim anh như nhảy ra khỏi lồng ngực. Einar muốn người đàn ông đó biết rằng anh ta được hoan nghênh. Lặng im trên ghế bành, Einar muốn người đó biết rằng chuyện đó được mà.

Nhưng chẳng có gì xảy ra, và Einar thầm nghĩ cơ hội cho... cho một thứ gì đó đã trôi qua mất rồi.

Rồi kẻ đó nhanh chóng đẩy cửa vào. Gã ta đứng thẳng lưng, lồng ngực phập phồng theo từng hơi thở. Gã ta trạc tuổi Einar, nhưng tóc hai bên thái dương trắng và đầy râu ria. Gã ta có làn da ngăm đen, cái mũi to và đang mặc một cái áo khoác đen cài nút tận cổ. Phảng phất quanh gã ta là mùi muối mặn. Einar vẫn ngồi yên, chỉ cách người này một hai bước chân. Gã bắt đầu gật gù. Einar lấy tay xoa lên lông mày.

Gã đàn ông mỉm cười. Hàm răng gã trông sắc bén nhưng méo xẹo. Gã ta chắc có nhiều răng hơn mấy người khác. Nửa dưới gương mặt gã trông như toàn là răng. “Anh rất xinh đẹp,” người đàn ông lên tiếng.

Einar dựa lưng ra sau ghế. Gã đàn ông có vẻ thích thú với những gì mình nhìn thấy. Gã cởi nút và mở rộng áo khoác. Dưới lớp áo khoác là một bộ comple kẻ sọc to bản kiểu thương nhân. Với nút thắt cà vạt đúng hình kim cương, gã ta có vẻ chỉn chu ngoại trừ một chỗ: khóa kéo quần gã đang mở, và đầu dương vật đang thập thò ở đó.

Gã ta tiến lại gần Einar. Rồi thêm bước nữa. Đầu dương vật đang lộ ra ngoài bao quy đầu. Nó có mùi mằn mặn, và Einar bắt đầu liên tưởng đến những bãi biển ở Jutland, ở thị trấn Skagen nơi mẹ anh đã được thả về với biển cả trong tấm lưới đã nhặt sạch mang cá, rồi dương vật gã ta chỉ cách miệng Einar vài inch, và Einar nhắm mắt lại. Hàng loạt hình ảnh mờ nhạt chạy qua đầu anh: gian nhà trọ lợp mái rong biển, những tảng than bùn nằm chồng chất trên cánh đồng, tảng đá trắng toát với vệt mica lốm đốm, Hans vén mấy sợi tóc tưởng tượng của Einar để thắt dây tạp dề.

Miệng Einar mở ra. Anh gần như nếm được thứ gì đó đăng đắng và ấm áp, và ngay khi lưỡi Einar sắp đưa ra ngoài còn gã đàn ông sấn tới thêm một bước, ngay khi Einar biết chắc Lili sẽ ở lại đây còn Einar sẽ biến mất trong tức khắc, thì có một tiếng đập mạnh vào cửa, và một người nữa, không ai khác ngoài Madame Jasmin-Carton hét lên gọi hai người lập tức bước ra ngoài. Bà ta gào lên một cách vừa giận dữ vừa ghê tởm, con mèo Manx còn kêu meo meo ầm ĩ phụ họa với bà chủ nó, cứ như vừa bị ai giẫm lên cái đuôi cụt từ lâu lắm rồi.

Trời vừa bước sang chiều khi Einar ló đầu ra khỏi chỗ Madame Jasmin-Carton. Bà ta chỉ cho anh gần một phút để mặc quần áo rồi vĩnh viễn rời khỏi khu nhà của bà. Anh đứng trên con phố tối tăm, quần áo nhăn nhúm và xộc xệch với cà vạt nắm trong tay. Ông chủ tiệm buôn thuốc lá vẫn đứng gần cánh cửa, vuốt hàng ria mép và nhìn chằm chằm vào Einar. Chẳng có một người nào khác trên phố. Einar đã hy vọng rằng người đàn ông sẽ đứng chờ bên ngoài nhà Madame Jasmin-Carton, rồi hai người cùng nhau đến một quán nhỏ nằm ngay góc phố thưởng thức một ly cà phê, và có thể là một bình rượu vang đỏ nữa. Nhưng kẻ đó chẳng hề ở đây, chỉ có ông chủ tiệm thuốc lá và một con chó nâu nhỏ.

Einar tiến vào phòng vệ sinh công cộng. Mấy bức tường trong đó có mùi ẩm ướt. Einar đứng bên bồn rửa tay để chỉnh lại quần áo và thắt cà vạt. Con chó nâu nhỏ theo chân Einar vào chờ ăn chực.

Einar cứ nghĩ mãi về chuyện đến thăm Thư viện Quốc gia suốt mấy tháng trời, rồi rốt cuộc cũng đi đến đó. Thư

viện gồm mấy dãy nhà, bao quanh bởi phố Viviene, phố Colbert, phố Richelieu và phố Petits-Champs. Hans đã sắp xếp giúp Einar vé vào cổng, thay mặt Einar để viết thư cho người quản lý thư viện. Bên trong Hội trường Imprimes với hàng trăm chỗ ngồi, ngay giữa khán phòng đặt một cái bàn, đó là nơi Einar phải điền vào phiếu thông cáo nhân sự, đăng ký mục đích của chuyến tham quan: nghiên cứu về một cô gái đã mất tích. Tại đó, anh cũng viết kín mấy tờ giấy liệt kê những quyển sách mình cần. Người thủ thư ngồi sau bàn giấy trông thật nữ tính, với đôi má phủ lông tơ và chiếc cặp tóc hình vỏ ốc màu hồng kẹp ngược mớ tóc mái ra phía sau. Tên cô ấy là Anne-Marie, có giọng nói nhỏ đến mức Einar phải nghiêng người lại gần và ngửi được hơi thở có mùi đậu phộng. Khi anh giao cho cô tập giấy tờ với một dãy tên sách khoa học về vấn đề tình dục, cô đỏ mặt nhưng vẫn bắt tay vào công việc được giao.

Einar ngồi xuống một trong mấy dãy bàn dài. Một cậu sinh viên ngồi cách đó mấy ghế ngẩng đầu lên khỏi cuốn vở rồi lại cúi xuống làm bài. Căn phòng lạnh buốt, lớp bụi bặm trông rõ mồn một dưới ánh đèn. Chỉ có tiếng lật sách vang vọng khắp căn phòng. Einar chợt lo rằng mình trông có vẻ mờ ám khi đến tầm tuổi này mà còn đến đây, quần tây thì nhăn nhúm, người thì phảng phất mùi mồ hôi. Phải chăng anh nên vào phòng vệ sinh và nhìn lại mình trong gương?

Anne-Marie giao sách đến tận bàn cho anh. Cô chỉ nói, “Chúng tôi sẽ đóng cửa thư viện lúc bốn giờ.”

Einar lướt tay qua mấy quyển sách; ba quyển tiếng Đức, hai quyển tiếng Pháp còn quyển cuối cũng tiếng Mỹ. Anh

lật quyển mới nhất có tựa đề Biến đổi tính dục được xuất bản tại Vienna do Giáo sư Johann Hoffman chấp bút. Giáo sư Hoffman đã tiến hành thí nghiệm trên chuột lang và chuột nhắt. Trong một thí nghiệm, ông cải tạo tuyến vú của một con chuột đực thứ nhất sao cho đủ dưỡng chất để nuôi một lũ chuột con của con chuột thứ hai. Giáo sư Hoffman viết “Tuy nhiên khả năng mang thai là khó có thể xảy ra.”

Einar ngước đầu lên khỏi quyển sách. Cậu sinh viên ngủ gục trên vở. Anne-Maria đang tất bật xếp đồ lên xe đẩy. Anh tự thấy mình như con chuột đực thứ nhất. Hình ảnh con chuột chạy trên bánh xe thoáng qua đầu anh. Giờ thì con chuột chẳng dừng lại được. Đã quá muộn rồi. Thí nghiệm phải tiếp tục thôi. Greta vẫn luôn nói gì nhỉ? Chuyện tồi tệ nhất trên thế giới là từ bỏ! Tay cô vung vẫy trong không khí, vòng tay bạc khua lên chói tai. Cô vẫn luôn nói vậy, và thêm một câu nữa: Thôi nào Einar. Khi nào anh mới học được?

Einar nhớ đến lời hứa với lòng mình trong công viên tháng trước: thứ gì đó phải thay đổi. Tháng năm trôi qua rồi tiếp đến là tháng sáu, giống như mấy tháng trôi qua rồi tiếp đến là mấy năm. Bốn năm trước, Lili đã ra đời trên khúc gỗ sơn bóng.

Bốn giờ chiều, Anne-Maria lắc cái chuông đồng. “Xin vui lòng để tài liệu lại trên bàn,” cô thông báo. Cô phải lay mãi cậu sinh viên mới thức giấc. Cô mím môi đến trắng bệch rồi gật đầu tạm biệt với Einar.

“Cảm ơn nhé,” anh nói. “Cô không biết là thứ này hữu ích như thế nào đâu.”

Cô lại đỏ mặt, rồi nói, môi vẫn mỉm cười, “Tôi có nên để riêng mớ sách này qua một bên không? Ngày mai anh có cần tham khảo chúng không?” Bàn tay cô tái nhợt và không lớn hơn con sao biển nhỏ đặt lên cánh tay Einar. “Tôi nghĩ tôi biết mấy cuốn khác. Buổi sáng tôi sẽ lấy cho anh xem qua. Có thể mấy cuốn đó là thứ anh đang tìm kiếm thì sao.” Cô ngập ngừng. “Ý tôi là, nếu như đó là thứ anh muốn.”