← Quay lại trang sách

Mười bảy

Ngày hôm sau, cô thủ thư tìm được thêm vài quyển sách cho Einar. Mấy quyển sách có tựa đề là Giới tính; Người bình thường và bất bình thường; Nghiên cứu khoa học về vấn đề trái đạo đức trong tình dục; Cơn khủng hoảng về tình dục, được xuất bản tại Dresden hai mưoi năm về trước. Hầu hết mấy quyển sách đều khai thác những lý thuyết về sự phát triển giới tính dựa trên giả thuyết và nghiên cứu trên chuột nuôi trong phòng thí nghiệm. Có một quyển sách Einar đọc được về một người đàn ông vốn là quý tộc xứ Bavaria có cả dưong vật và âm đạo lúc sinh ra. Có điều gì đó về hoàn cảnh của anh ta - cảm giác bối rối suốt thời thơ ấu, bị cha mẹ bỏ rơi và quá trình vô vọng tìm kiếm một chốn nương thân khắp thế giới - khiến Einar phải nhắm mắt lại và suy ngẫm, “Đúng vậy, mình biết mà”. Một chương sách kể lại chuyện thần thoại về Hermes và Aphrodite. Quyển sách giải thích sự phát triển rạch ròi về giới tính, và một khái niệm gọi là tình trạng giới tính trung gian. Không hiểu vì sao nhưng Einar biết rằng anh đang đọc về chính mình. Anh nhận ra sự tồn tại song song và tình trạng không thể xác nhận giới tính hoàn toàn thuộc về phía bên nào. Khi đọc đến truyện người quý tộc xứ Bavaria, một cảm giác nhoi nhói cứ đè nặng trên ngực Einar.

Có vài quyển sách đã quá cũ kỹ, chắc phải từ thế kỷ trước, bụi bặm bám đầy gáy sách. Mỗi khi lật sang trang mới, tiếng sột soạt lại phát ra từ mấy tờ giấy, khiến Einar sợ rằng mấy cậu sinh viên sẽ ngước mắt lên khỏi mớ bài tập đặt trên cái bàn dài. Rồi từ cảm xúc đan xen giữa sợ hãi và nhẹ nhõm trên gương mặt Einar, họ sẽ nhận ra anh thực sự là ai.

Anne-Marie đặt những quyển sách theo một góc xéo ngay trước mặt Einar. Cô còn cho anh mượn một chuỗi hạt chì bọc trong vải nỉ để giữ cho trang sách mở ra khi Einar chép những câu từ vào trong cuốn sổ bìa thiếc.

Dãy bàn dài được chia thành nhiều phần, khiến Einar nhớ đến kiểu bàn làm việc của mấy bà bán cá ở Copenhagen hay dùng để chặt đầu cá lưới tại chợ cá Gammel Strand. Trước mặt Einar có đủ không gian để rải vài quyển sách quanh chỗ ngồi, và anh bắt đầu tưởng tượng những trang sách màu cát vàng đang mở rộng chính là đàn cá bảo vệ xung quanh anh. Đó cũng là cảm nhận của anh khi đọc những quyển sách này vào mỗi sáng sau khi lẻn ra khỏi căn hộ: cứ như từng câu chữ về tính nam và tính nữ sẽ bảo vệ Einar suốt một năm tới, khi anh tự hứa với lòng rằng tất cả mọi thứ phải thay đổi.

Rốt cuộc anh cũng đọc nhiều đến mức tự huyễn hoặc rằng mình cũng sở hữu bộ phận sinh dục nữ. Chôn giấu bên trong cơ thể anh là bộ phận sinh dục của Lili, những túi da và nếp thịt đã định ra hình hài của cô. Ban đầu, anh cảm thấy thật khó tin, nhưng rồi anh càng ngày càng cảm thấy bị thuyết phục bởi ý niệm ấy - rằng chuyện này không liên quan gì đến tâm thần mà là vấn đề sinh lý. Anh tưởng tượng ra tử cung đang co bóp bên dưới tinh hoàn. Anh tưởng tượng bộ ngực không biết bằng cách nào đang bị trói buộc bên dưới lồng ngực.

Einar dành một tuần ở phòng đọc sách, và những phát hiện mỗi ngày sẽ khiến anh bàng hoàng đến mức chỉ biết gục đầu lên cánh tay và khóc thầm.

Nếu anh ngủ gật, Anne-Marie sẽ dùng bàn tay nhỏ trắng muốt đánh thức anh. “Chiều rồi đấy,” cô nhắc nhở, và anh sẽ bối rối trong một giây: Chiều rồi sao?

Ồ, đúng vậy. Chiều rồi.

Carlisle bắt đầu rủ Einar đi cùng mình vào những buổi chiều. “Chiều đi với tôi nhé?” Carlisle sẽ gào lên vào mỗi sáng khi Einar chuồn ra ngoài bằng lối cửa trước, suýt nữa thì lạc đường vì nóng lòng về những gì đang chờ mình ở thư viện.

“Tôi không chắc đi được đâu,” Einar sẽ trả lời.

“Sao lại không?” Greta thắc mắc.

Carlisle biết rõ mình không nên rủ Greta tham gia cùng bọn họ. Một lần nọ anh đã kể cho Einar rằng ngay từ khi còn nhỏ, cô sẽ thở dài vì thất vọng mỗi khi Carlisle đề nghị hai người đi đến bãi bắn cung tại hẻm núi Arroyo Seco. “Greta lúc nào cũng bận rộn khám phá điều mới,” Carlisle than phiền. “Đọc tiểu thuyết của Dickens, làm thơ, phác họa cảnh đồi San Gabriels, vẽ hình anh. Nhưng cô ấy chẳng bao giờ đưa tranh cho tôi xem. Tôi thường đòi được xem những bức tranh màu nước ấy, nhưng Greta lại đỏ mặt rồi khoanh tay trước ngực.”

Vậy nên Carlisle chuyển sang rủ rê Einar. Lúc đầu anh phải thúc giục Einar mãi. Có điều gì đó trong đôi mắt xanh thẳm của Carlisle, vốn trong trẻo hơn đôi mắt Greta, dường như chứa đựng khả năng đọc được suy nghĩ của Einar. Anh cảm thấy khó lòng ngồi yên cạnh Carlisle nên cứ lắc người qua lại, rồi ngồi thẳng dậy, và sau đó lại co người vào cái ghế bện thừng.

Carlisle tậu một chiếc ôtô, chính là chiếc Alfa Romeo Sport Spider. Chiếc xe đỏ rực với bánh xe nan hoa và một cái hộp công cụ màu đỏ rực gắn ngay chỗ bậc lên xuống xe. Anh thích kéo mái che bằng vải bạt ra sau mỗi khi lái xe. Bảng đồng hồ màu đen chia sáu vạch, thêm vào đó là một tay nắm nhỏ màu bạc mà Einar luôn níu vào mỗi khi Carlisle phóng vèo qua góc cua. Sàn xe được làm từ thép khắc hoa văn, và mỗi khi Carlisle lái chiếc Spider vòng quanh Paris, Einar lại cảm nhận được hơi nóng thoát ra từ động cơ qua lớp lót giày.

Vào một ngày nọ khi hai người đang ở trong xe, Carlisle thân thiết dịch tay từ cần số có tay nắm hình tròn màu đen sang phía đầu gối Einar rồi nói: “Cậu nên học cách tin tưởng người khác nhiều hơn”. Anh đang trên đường lái xe chở Einar ra sân tennis tại Auteuil. Sân tennis nằm cạnh rừng Boulogne, trông như một cái bát bằng bê tông vươn cao giữa rừng cây dương. Trời đã không còn sớm, mặt trời lên cao, trông như một vòng tròn trống rỗng giữa bầu trời xanh trắng. Mấy lá cờ vây quanh sân treo rũ rượi trên cao. Bao quanh bãi đỗ xe của sân tennis là mấy chiếc cổng sắt, những người đàn ông trong bộ vest xanh lục và mũ rơm đang soát vé rồi xé chúng ra làm đôi.

Một người đàn ông dẫn Einar và Carlisle đến một ngăn nhỏ hơi dốc sơn màu xanh lục. Trong ngăn là bốn chiếc ghế đan, đặt trên đó là một tấm đệm kẻ sọc. Chỗ ngồi nằm ngay trên đường cuối sân quần vợt vốn được làm từ đất sét nhuyễn đỏ chót như màu phấn má Lili đã từng mua tại gian hàng đặt trước cửa hiệu Fonnesbech.

Trên sân bóng là hai tay vợt nữ đang khởi động. Một người đến từ Lyon; làn váy xếp li có màu trắng tinh, và cô lướt ngang qua sân bóng như một con thuyền buồm. Tay vợt còn lại là người Mỹ, theo như tờ chương trình giới thiệu thì đó là một cô gái đến từ New York; cô ta trông thật to cao với làn da ngăm ngăm, mái tóc ngắn cũn và bóng loáng như chiếc mũ da của phi công.

“Chẳng ai muốn cô ta thắng cuộc cả,” Carlisle nói về cô người Mỹ. Anh đang giơ tay trước trán để che bớt ánh mặt trời. Xương hàm anh giống y như Greta: vuông vuông, hơi dài, cong cong với hàm răng chắc khỏe. Làn da của hai người cũng giống nhau y hệt: ngả sang màu nâu chỉ sau một tiếng phơi nắng, với làn da cổ hơi thô ráp. Vào ban đêm Einar vẫn thường hôn lên cổ Greta một cách cuồng nhiệt. Đó là chuyện anh thích nhất với Greta, còn thích hơn lúc hôn môi cô: dán môi mình lên đường cổ thon dài, rồi mút nhẹ, liếm theo những đường xoáy, nhay nhay sau đó hôn sâu vào chỗ hõm sâu đầy gân guốc trên cổ cô.

“Thỉnh thoảng tôi muốn đến thăm California,” Einar nói. Trận đấu đã bắt đầu, tay vợt người Mỹ đang giao bóng. Cô tung bóng lên thật cao, và Einar có thể nhìn được cơ bắp trên vai cô ta rung lên khi vung vợt qua không khí. Greta thường bảo khi nghe thấy tiếng bóng tennis, cô liên tưởng đến những trái cam rơi xuống đất; còn Einar thì lại nhớ đến bãi cỏ khô sau căn biệt thự bằng gạch, với những đường kẻ sân bằng đường bột tung bay trong gió.

“Greta đã bao giờ kể gì về nơi ấy chưa?” Carlisle hỏi. “Như chuyện về nhà ấy?”

“Tôi nghe nói rằng có rất nhiều thứ phải thay đổi trước khi cô ấy quay về nơi đó.” Greta từng nói rằng chẳng ai trong hai người sẽ hợp với nơi đó, tại Pasadena, nơi tin đồn lan qua những ngọn đồi với tốc độ như chim giẻ cùi lam lao đi trong gió. “Đó là nơi không dành cho cả anh lẫn em,” cô tuyên bố như thế.

“Chẳng biết cô ấy có ý gì nữa,” Carlisle lẩm bẩm.

“Anh biết Greta rồi đấy. Cô ấy không thích người khác xì xào về mình.”

“Nhưng xét về mặt nào đó thì cô ấy thích vậy mà.”

Cô người Mỹ thắng điểm đầu tiên, cú đánh bóng ngắn của cô chỉ kịp lướt qua lưới rồi rơi xuống sàn đất nện một cách tinh quái.

“Cậu đã bao giờ nghĩ đến việc đi thăm thú đâu đó chưa?” Carlisle gợi ý. “Đến California chẳng hạn? Có thể đến tham quan vào mùa đông để vẽ tranh?” Anh đang cầm tờ chương trình quạt lấy quạt để; rồi giơ cái chân què quặt ra, gập đầu gối lại. “Đi đây đi đó tham quan rồi vẽ rừng cây khuynh diệp và rừng cây bách? Hay là một trong mấy vườn cam cũng được lắm? Cậu sẽ thích cho mà xem.”

“Không phải là đi với Greta,” Einar đáp lại.

Và Carlisle, người vừa giống vừa không giống em gái mình tí nào, thốt lên: “Nhưng vì sao lại thế?”

Einar bắt chéo chân, bàn chân anh làm chiếc ghế đan dịch ra trước một chút. Cô gái đến từ Lyon lướt qua sân bóng, làn váy căng phồng, trả bóng bằng một cú vụt lên trái về phía cô người Mỹ tinh quái, hất trái bóng màu trắng lấm bẩn bay vèo qua vạch và ghi điểm. Đám đông, hầu hết đều bảnh bao, đội mũ và phảng phất hương thơm hoa oải hương và chanh, rối rít reo hò.

Carlisle quay mặt về phía Einar. Anh đang mỉm cười và vỗ tay, trên trán lấm tấm mồ hôi; và rồi, khi sân vận đông rơi vào im lặng để tay vợt từ Lyon phát bóng, anh lên tiếng: “Tôi đã biết về Lili.”

Einar ngửi thấy mùi đất sét, chính là cái mùi bụi bặm nồng nồng, và cả ngọn gió thổi qua rừng cây dương. “Tôi không chắc là hiểu anh đang...”

Nhưng Carlisle đã ngắt lời. Anh đặt khuỷu tay lên đầu gối, ngước mắt nhìn ra sân bóng và bắt đầu kể cho Einar nghe về những lá thư Greta viết cho mình suốt năm qua. Những lá thư dày cộm được gửi đến hòm thư mỗi tuần một lần, những dòng chữ phủ kín nửa tá giấy màu xanh dương mỏng manh; cô viết thư trong cơn giận dữ đến mức chẳng hề chừa lề, những dòng chữ nhỏ nhắn khin khít chạy khắp trang giấy từ bên này sang bên kia. “Có một người tên là Lili,” đó là lần đầu tiên cô viết thư cho anh cách đây một năm. “Một cô gái đến từ vùng đầm lầy Đan Mạch mà em nhận chăm sóc.” Những lá thư miêu tả chuyện Lili lượn lờ khắp Paris, quỳ gối trong công viên cho đàn chim bồ câu ăn, tà váy phủ quanh người cô ấy trên con đường lát sỏi. Thư cũng viết về chuyện Lili ngồi hàng giờ trên ghế đẩu trong xưởng vẽ của Greta trên phố Vielle du Temple, khi ánh sáng từ cửa sổ rọi lên mặt cô ấy. Những lá thư đến gần như hàng tuần, cứ như một bản tóm tắt những ngày trước đó của Lili. Thư chẳng bao giờ nhắc đến Einar, và khi Carlisle trả lời thư bằng những câu như “Einar thế nào rồi?” hay là câu “Gửi đến Einar những điều tốt đẹp nhất,” và ngay cả một lần nọ anh viết, “Chẳng phải đây là ngày kỷ niệm mười năm lễ cưới của em sao?”. Nhưng Greta chưa một lần trả lời thắc mắc của anh.

Một ngày nọ, khoảng sáu tháng kể từ khi qua lại thư từ hàng tuần, một phong thư mỏng được gửi đến hòm thư của Carlisle. Anh kể với Einar rằng mình nhớ như in ngày hôm ấy, vì những cơn mưa tháng một tầm tã liên miên suốt cả tuần, còn chân anh đau nhức như vừa bị một chiếc xe tông vào chiều hôm trước. Anh bước xuống, men theo con đường lái xe, tiến đến hòm thư, với cây gậy tre trong một tay và chiếc ô trong tay còn lại. Mực viết trên phong thư bị nước mưa làm nhòe đi, và anh mở lá thư ngay tại sảnh đường tối om được trang trí bằng gỗ sồi Pasadena. Anh đọc lá thư khi nước nhỏ tong tong từ trên tóc xuống tờ giấy. “Einar đang rời bỏ em,” đó là dòng đầu tiên trong bức thư của Greta. “Anh đã nói đúng. Sau mười năm trời, anh ấy đang rời bỏ em.” Ngay lập tức, Carlisle nghĩ đến việc lái xe thẳng tới bưu điện trên phố Colorado để gửi điện tín. Carlisle khoác vội chiếc áo cao su khi đọc nốt phần còn lại của lá thư, và sau đó anh mới hiểu được Greta đang ám chỉ điều gì.

Lá thư thứ hai đến vào ngày hôm sau, và một bức tiếp theo vào ngày hôm sau nữa. Sau đó là những bức thư viết về việc hằng ngày của Lili. Mấy trang giấy vẫn đầy những dòng miêu tả như trước kia, nhưng bây giờ xen giữa những dòng chữ là vài bức phác họa nguệch ngoạc gương mặt một cô gái: Lili đang đội mũ đính những bông hoa violet khô; Lili đang đọc tờ Le Monde; Lili tròn xoe mắt ngước nhìn lên bầu trời.

“Sau đó Greta bắt đầu gửi những bức phác thảo từ sổ ký họa của cô ấy. Những bức phác thảo để vẽ tranh về Lili. Cô ấy gửi cho tôi bức tranh Lili cạnh vườn chanh. Và Lili trong bữa tiệc cưới.” Anh dừng lại khi cô người Mỹ giao bóng. “Những bức tranh đẹp tuyệt. Cô ấy đẹp tuyệt, Einar à.”

“Vậy là anh đã biết hết.”

“Tôi không mất quá nhiều thời gian để hiểu được mọi chuyện,” Carlisle nói. “Tất nhiên tôi chẳng biết gì nhiều về chuyện này,” anh trấn an. Một con chim nhỏ màu nâu đậu trên lan can khán đài. Cái đầu nó quay qua quay lại như đang tìm kiếm hạt thức ăn. “Nhưng tôi muốn giúp đỡ. Tôi muốn gặp Lili. Để biết liệu mình có giúp gì được hay không. Cậu thấy đấy, đó là cách Greta hành động, gửi thư và tranh. Cô ấy chẳng bao giờ bước ra và cầu xin sự giúp đỡ. Nhưng tôi biết rõ cô ấy cần ai đó giúp. Tôi biết sự chịu đựng của cậu khi phải nhờ ai đó giúp còn lớn hơn việc cô ấy có thể làm.” Và anh tiếp lời, “Chuyện này rất khó xử với Greta. Cậu không nên quên rằng chuyện này càng lúc càng khó xử với cô ấy.”

“Cô ấy nói vậy sao?”

“Greta sẽ không bao giờ nói những lời như thế. Nhưng tôi có thể nhìn thấy.”

Einar và Carlisle dõi mắt theo trận tennis. Thời tiết hôm nay ấm áp, mấy cô gái phải dùng khăn lông lau mặt. “Cậu đã đến gặp bác sĩ chưa?” Carlisle dò hỏi.

Einar kể với Carlisle về bác sĩ Hexler. Chỉ nhắc đến tên ông ta mà anh đã muốn choáng váng; anh gần như cảm nhận bụng mình quặn lên.

“Tôi không hiểu tại sao cậu lại đến gặp bác sĩ y khoa,” Carlisle lên tiếng. “Không phải cậu nên nói chuyện với ai đó về cảm nhận của mình? Về những suy nghĩ của mình ấy? Tôi sẽ đưa cậu đến gặp một người. Tôi đã tìm được vài cái tên, và tôi sẽ dắt cậu đến gặp bất kỳ ai đó có thể giúp được. Giúp cậu giải quyết chuyện này dứt điểm luôn một lần. Đừng lo Einar à. Tôi có ý tưởng mà.”

Và đây là cảnh tượng in đậm trong tâm trí Einar nhất: sau đuôi mắt anh thấp thoáng hình ảnh đôi chân của Carlisle, cái chân què đang gập lại một cách cứng nhắc. Và cô người Mỹ trên sân bóng nhễ nhại mồ hôi, phần áo dưới ngực ướt đẫm. Thêm vào đó là gương mặt ngăm đen nhưng mịn màng; cái đầu to tướng và đôi tay mới dài làm sao, có điều gì đó không hợp lý về cô ấy. Ví dụ như gân mạch chằng chịt nổi trên cánh tay. Hay như quầng thâm dưới môi cô ấy. Kèm theo thái độ thù địch của toàn sân vận động đối với cô, càng lúc cô càng nới rộng khoảng cách về điểm số với cô gái tóc vàng đến từ Lyon. Dường như cả thế giới đang chống lại cô ấy - tất cả mọi người ngoại trừ Carlisle, cái người vừa nghiêng mình qua đùa giỡn: “Cậu không muốn cô ấy thắng chứ? Chẳng phải nếu cô ấy thắng thì mọi chuyện sẽ thú vị hơn sao?”

Đầu tiên Carlisle lái xe đưa Einar đến gặp bác sĩ McBride. Ông ta là một bác sĩ tâm thần được đại sứ quán giới thiệu, phòng khám của ông nằm trên phố Tilsitt, ngay cuối con đường đến văn phòng cấp hộ chiếu. Bác sĩ McBride có một mái tóc cứng như rễ tre và hàng ria mép chỗ đen chỗ xám. Cổ và bụng ông ta to tướng. Ông mặc một chiếc áo được hồ cứng như giấy. Ông đến từ Boston và suốt cuộc hẹn với Einar, ông ta luôn tự gọi mình là một “người da đen gốc Ireland”. Mỗi khi cười, ánh vàng lại lóe lên trong miệng.

Phòng khám của bác sĩ McBride trông giống như văn phòng luật sư hơn là phòng mạch của bác sĩ. Bàn làm việc của ông ta được chống đỡ bởi hai chân trụ, trên bàn lót một tấm da màu lục. Một bên tường đặt kệ sách kèm một hàng tủ hồ sơ bằng gỗ sồi. Trong lúc Einar kể về Lili, ông bác sĩ mặt lạnh như tiền cứ liên tục đẩy kính mắt lên xuống dọc sống mũi. Khi điện thoại reo lên, bác sĩ McBride phớt lờ và giục Einar tiếp tục câu chuyện. “Thời gian lâu nhất mà anh sống dưới thân phận của Lili là bao lâu?” ông ta đặt câu hỏi.

“Hơn một tháng,” Einar đáp. “Mùa đông năm ngoái cô ấy đã ở đây suốt một thời gian dài.” Einar nhớ đến mùa đông năm ngoái, khi anh thường xuyên đi ngủ và chẳng hề biết được sáng mai thức dậy mình sẽ là ai. Một đêm nọ, sau khi rời khỏi nhà hát Opera, Lili và Greta bị một gã dùng dao uy hiếp. Tên cướp là một gã đàn ông nhỏ thó mặc chiếc áo khoác có hai hàng khuy lớn, và con dao trong tay gã ta chẳng có vẻ gì là sắc bén dưới ánh trăng mùa đông. Nhưng gã ta cứ vung vẩy con dao trước mặt hai người và đòi họ phải giao ví tiền ra. Chắc mấy ngày rồi gã chưa hề cạo râu, và gã ta cứ dậm chân xuống đất rồi cất giọng đe dọa: “Tôi nghiêm túc đấy, quý cô à. Đừng có nghĩ rằng tôi đang đùa.” Khi Lili tiến đến giao ví tiền cho gã ta, Greta cố níu lấy cổ tay cô ấy, kêu lên: “Lili, đừng.” Nhưng gã ta chộp lấy ví tiền, rồi lại nhào tới chỗ Greta. Greta hét lên, “Ôi, xin đừng!”, rồi bắt đầu bỏ chạy xuống phố, hướng về nhà hát Opera đang lấp lánh ánh vàng giữa đêm tối. Lili vẫn đứng dựa lưng vào tường còn tên cướp chặn ngay trước mặt cô. Gã ta vẫn giẫm chân lên mặt đường, có vẻ như đang suy nghĩ nên làm gì tiếp theo. Greta chạy qua một dãy nhà rồi quay người lại. Lili chỉ nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của cô ấy: tay chống lên hông, chân mở rộng. Rồi cô ấy bắt đầu đi về phía Lili và tên cướp. Gã ta cười với vẻ lo lắng. “Cô ta điên mất rồi,” gã ta lẩm bẩm rồi lại giẫm chân xuống mặt đường. Gã lắc cổ tay sao cho lưỡi dao, vốn chẳng khác gì con dao cùn trên bàn tiệc, chĩa xuống đất. Rồi gã ta bắt đầu chạy thục mạng xa khỏi Greta.

“Anh có nghĩ đến Einar khi mình là Lili không?” bác sĩ McBride thắc mắc.

“Không hề.”

“Nhưng anh nghĩ đến Lili khi mình là Einar đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Anh nghĩ đến điều gì?” Ông ta tháo nắp bút rồi đặt bút lên một tờ giấy trắng tinh.

“Hầu hết tôi nghĩ đến những suy nghĩ của cô ấy,” anh trả lời. Einar giải thích rằng nếu anh đang ăn một miếng bánh tart táo rắc quế thì sẽ tự hỏi mình có nên để dành cho Lili một miếng không. Nếu đang to tiếng với gã bán thịt hay cố nhấn tay lên cái cân, Einar sẽ thầm hỏi liệu Lili có cãi cọ như thế hay không. Anh tự thuyết phục bản thân rằng cô ấy sẽ chẳng thèm chấp gã bán thịt trông mảnh dẻ và đẹp mã với mái tóc vàng óng được vuốt dựng đứng; và thế là ngay lúc tranh luận giữa chừng, Einar sẽ xin lỗi rồi bảo gã bán thịt cứ tiếp tục đóng gói khúc thịt cừu.

Bác sĩ McBride lại đẩy kính mắt lên lần nữa.

Carlisle đang ngồi đợi tại quán cà phê bên kia đường. Lúc này Einar chợt nghĩ chắc anh ấy đang đọc một quyển cẩm nang du lịch của Baedeker, rút cây bút chì gác sau tai rồi đánh dấu một địa điểm được chọn. Ngay lúc này đây, có lẽ Carlise đang uống nốt ly cà phê rồi nhìn vào đồng hồ.

“Và anh cảm thấy thế nào về đàn ông?” bác sĩ McBride tiếp tục hỏi. “Anh có căm ghét họ không?”

“Ghét đàn ông sao?”

“Đúng vậy.”

“Dĩ nhiên là không rồi.”

“Nhưng theo lẽ tự nhiên thì anh phải cảm thấy thù ghét đàn ông chứ.”

“Nhưng tôi không hề ghét.”

“Lili thì sao? Cô ấy cảm thấy đàn ông thế nào?”

“Cô ấy cũng không hề thù ghét đàn ông.”

Bác sĩ McBride rót thêm ít nước từ cái phích nước màu bạc. “Cô ấy thích đàn ông sao?”

“Tôi không hiểu ông muốn hỏi gì.”

Ông bác sĩ nhấp một ngụm nhỏ. Einar có thể nhìn thấy vết môi ông ta để lại trên viền ly nước, và đột nhiên Einar cảm thấy khát khô cổ.

“Cô ấy đã từng hôn người đàn ông nào chưa?”

Einar đang cố nghĩ đến việc làm thế nào để hỏi xin một ly nước, nhưng anh chẳng thể nói nên lời. Anh nghĩ có lẽ mình nên đứng dậy và tự rót một ly nước, nhưng dường như anh không làm được. Và thế là Einar cứ ngồi đó, cảm thấy mình giống như một đứa trẻ đang lọt thỏm trong chiếc ghế bọc vỏ len thô ráp màu vàng của bác sĩ McBride.

“Anh Wegener, tôi hỏi là vì...”

“Vâng,” Einar ngắt lời. “Đúng vậy, cô ấy đã từng hôn một người đàn ông.”

“Cô ấy thích chuyện đó không?”

“Ông phải hỏi cô ấy chứ.”

“Tôi tưởng mình đang hỏi cô ấy.”

“Trông tôi rất giống Lili sao?” Einar hỏi ngược lại. “Trong mắt ông, tôi giống phụ nữ lắm sao?”

“Không hẳn vậy.”

“Ồ, vậy thì...”

Điện thoại của bác sĩ McBride lại reo lên, và hai người đồng thời liếc mắt đến ống nghe màu đen đang rung lên theo từng hồi chuông. Rốt cuộc nó cũng im lặng.

“Tôi e rằng anh là một người đồng tính,” bác sĩ McBride cuối cùng cũng đưa ra kết luận. Ông đóng nắp bút lại một cái tách.

“Tôi không hiểu.”

“Anh không phải là người đầu tiên gặp phải tình trạng này,” bác sĩ McBride giải thích.

“Nhưng tôi không hề đồng tính. Đó không phải là vấn đề tôi đang gặp phải. Có một nhân cách khác đang tồn tại bên trong tôi,” Einar gào lên, bật dậy khỏi ghế ngồi. “Một cô gái tên là Lili.”

“Và điều này làm tan nát trái tim tôi,” bác sĩ McBride vẫn tiếp tục, “khi tôi phải nói với những người như anh rằng tôi chẳng thể giúp gì cho họ. Với tư cách là một người da đen gốc Ireland, tôi cảm thấy thật đáng tiếc.” Ông ta hớp một ngụm nước, viền môi ngậm vào miệng ly. Rồi ông ta đứng dậy, đi lòng vòng quanh bàn làm việc. Bàn tay ông ta đặt lên vai Einar, rồi đẩy anh ra khỏi cửa. “Lời khuyên duy nhất của tôi là anh nên tự kìm nén chính mình. Anh sẽ phải luôn luôn chống chọi với ham muốn của mình. Hãy phớt lờ nó, anh Wegener. Nếu anh không làm được... thì anh sẽ luôn luôn cô độc.”

Einar gặp Carlisle ở quán cà phê. Anh biết bác sĩ McBride đã phán đoán sai lầm. Nếu là không lâu trước đây, có lẽ Einar đã tin lời bác sĩ rồi tự thương hại chính mình. Einar nói với Carlisle rằng cuộc hẹn đúng là chỉ phí thời gian. “Chẳng ai thấu hiểu được tôi đâu,” anh quả quyết. “Tôi chẳng thấy việc này có chút tác dụng nào cả.”

“Nhưng đó không phải là sự thật,” Carlisle phản bác. “Chúng ta cần tìm cho cậu một bác sĩ phù hợp. Chuyện chỉ có vậy. Đúng là bác sĩ McBride chẳng biết ông ta đang nói cái quái gì. Vậy thì sao? Đâu có nghĩa cậu phải từ bỏ.” “Vì sao anh lại làm chuyện này?”

“Vì cậu không được vui.”

“Đúng, nhưng sao nữa?”

“Vì Greta.”

Vài ngày sau đó, Carlisle lại đưa Einar đến Trung tâm Thủy Liệu Pháp, một bệnh viện có tiếng trong việc điều trị những bệnh lý về thần kinh. Bệnh viện nằm ở ngoại ô, trên đường đến thị trấn Meudon, giấu mình khỏi đường lộ ngay sau một khu vườn trồng toàn cây sung. Ngay tại cổng chính có một nhân viên gác cổng. Anh ta thò mặt vào xe và hỏi họ đến gặp ai. “Bác sĩ Christophe Mai,” Carlisle đáp lời. Người gác cổng nhìn chằm chằm vào họ rồi khẽ cắn môi. Anh ta đưa cho hai người một tập giấy để ký.

Bệnh viện là một tòa nhà hình hộp mới toanh trông có vẻ thần bí với thành phần chính là xi măng và kính. Tòa nhà được che mát bởi mấy cây sung, siết chặt thành vết hằn trên mấy cành sung là cây tiêu huyền. Chấn song bằng thép che kín những ô cửa sổ nằm ngang mặt đất, những ổ khóa lóe lên dưới ánh mặt trời.

Họ phải ký một tờ giấy nữa tại lối vào phía trước, và một tờ giấy thứ ba khi đến được văn phòng của bác sĩ Mai. Một cô y tá với mái tóc bạch kim loăn xoăn bảo hai người chờ trong căn phòng nhỏ. Khi cô y tá đóng cánh cửa sau lưng họ, căn phòng nhỏ giống như được khóa kín một cách bảo mật.

“Tôi chưa kể với Greta về chuyện chúng ta đi đâu vào hôm nay,” Carlisle nói. Vài ngày trước, Einar nghe được hai người bàn luận gì đó về mình. “Anh ấy không cần đến gặp bác sĩ tâm thần,” cô bảo, giọng cô lan qua kẽ nứt dưới cửa. “Hơn nữa, em nghĩ em biết một người có thể giúp anh ấy. Và ông ta không phải là bác sĩ tâm thần. Đây là người thực sự có thể giúp được anh ấy.” Rồi giọng cô nhỏ dần, và Einar chẳng nghe được gì sau đó.

Văn phòng bác sĩ Mai có màu nâu và phảng phất mùi thuốc lá. Einar có thể nghe được tiếng bước chân dọc hành lang phía ngoài. Có thứ gì đó rất thảm thương về bệnh viện này khiến lòng anh dâng trào cảm xúc, mách bảo rằng đây mới là nơi mình thuộc về. Trên tấm thảm lót sàn màu nâu in dấu xe đẩy, và Einar bắt đầu tưởng tượng chính mình bị trói trên xe rồi đẩy thẳng vào khu vực sâu nhất trong bệnh viện, nơi không có lối về.

“Anh thực sự cho rằng bác sĩ Mai sẽ giúp tôi sao?”

“Tôi hy vọng vậy, nhưng chúng ta phải xem sao đã.” Carlisle đang khoác một chiếc áo vest vải sọc nhăn, phối với quần tây xếp li thẳng thớm và cà vạt màu vàng. Einar thừa nhận tinh thần lạc quan của anh ấy, cái cách anh ấy ngồi chờ đợi trong trang phục mùa hè. “Chúng ta ít nhất phải thử xem.”

Einar biết Carlisle nói đúng. Anh không thể tiếp tục sống như thế này. Chỉ vỏn vẹn sáu tháng trôi qua mà phần lớn cơ bắp trên người anh đã biến mất; bác sĩ McBride đo cân nặng cho anh, và khi mấy quả cân đen xì trượt qua bên trái, Einar nhận ra mình chẳng nặng hơn bao nhiêu so với hồi còn là một cậu bé. Einar bắt đầu chú ý đến mảng da có màu kỳ quặc: xanh xám như bầu trời lúc bình minh, cứ như máu anh đang chảy với tốc độ chậm hơn. Và hơi thở yếu dần khiến mắt anh mờ đi mỗi khi chạy chưa được vài bước, hay những lúc bất chợt nghe thấy tiếng ồn, ví dụ như tiếng ôtô kêu rắc một phát, làm anh giật mình. Lại còn chuyện chảy máu hay làm Einar vừa khiếp sợ vừa mong chờ. Anh cảm thấy choáng váng khi nhận ra dòng máu đầu tiên đang chảy xuống môi hay giữa hai chân mình. Không ai nói ra điều này, nhưng Einar biết đó là vì bên trong anh là một phụ nữ. Anh đã đọc về vấn đề này: bộ phận sinh dục nữ bị che khuất trong cơ thể người lưỡng tính thỉnh thoảng sẽ xuất huyết như đang nổi loạn.

Bác sĩ Mai hóa ra lại là một người đàn ông dễ mến. Mái tóc ông sẫm màu. Ông ta còn đeo một chiếc cà vạt màu vàng giống cà vạt của Carlisle đến kỳ lạ. Hai người đều bật cười vì điều này, và sau đó bác sĩ Mai dẫn Einar đến phòng xét nghiệm.

Căn phòng được lát gạch men, cửa sổ nhìn ra cổng sắt với công viên trồng toàn cây sung và cây tiêu huyền. Bác sĩ Mai kéo tấm rèm màu xanh lục dày cộm ra sau, để lộ bàn khám bệnh. “Mời ngồi,” ông ta nói, tay đặt trên tấm đệm. “Hãy cho tôi biết vì sao anh đến đây.”

Rồi bác sĩ dựa vào tủ hồ sơ lắp cửa kính. Ông đang ôm một kẹp hồ sơ trước ngực và gật gù tỏ vẻ đang lắng nghe Einar giải thích về chuyện của Lili. Bác sĩ Mai đưa tay chỉnh nút thắt cà vạt một hai lần gì đấy. Thỉnh thoảng, ông còn viết vài chữ lên giấy.

“Tôi không biết mình nên tìm sự giúp đỡ như thế nào,” Einar tâm sự. “Tôi không nghĩ mình có thể tiếp tục sống như thế này.”

“Như thế nào cơ?”

“Như thể tôi chẳng biết được mình là ai.”

Bác sĩ Mai kết thúc cuộc phỏng vấn tại đó. Ông xin phép ra ngoài, để Einar ngồi trên bàn khám bọc đệm đong đưa hai chân. Ngoài công viên, cô y tá đang đỡ một người đàn ông mặc bộ pajamas kẻ sọc, áo choàng tắm của anh ta mở toang. Người đàn ông có râu quai nón, còn chân anh ta yếu đến mức cô y tá, với chiếc áo rũ xuống tận bàn chân, là thứ duy nhất giúp anh ta đứng thẳng.

Khi quay lại, bác sĩ Mai nói, “Cảm ơn anh vì đã đến gặp tôi.” Ông ta bắt tay Einar rồi dẫn anh đến chỗ Carlisle.

Lúc lái xe quay về Paris, hai người im lặng suốt một hồi lâu. Einar nhìn chằm chằm vào bàn tay của Carlisle đang đặt trên cần số, còn Carlisle thì dán mắt vào con đường. Rốt cuộc Carlisle cũng lên tiếng, “Bác sĩ muốn cậu nhập viện.”

“Để làm gì?”

“Bác sĩ nghi ngờ cậu bị tâm thần phân liệt.”

“Nhưng chuyện đó là không thể nào,” Einar phản bác. Anh nhìn qua Carlisle, người vẫn đang dán mắt vào dòng xe cộ. Phía trước hai người là một chiếc xe tải. Mỗi khi xe cán qua vết sụt lún dọc đường, đá sỏi sẽ rơi từ sàn xe tải xuống mui của chiếc Spider. “Làm sao tôi có thể bị tâm thần phân liệt được?” Einar nhấn mạnh một lần nữa.

“Ông ta đã yêu cầu tôi ký giấy xác nhận để cậu nhập viện ngay sau đó.”

“Nhưng đó là phán đoán sai. Tôi không hề bị tâm thần phân liệt.”

“Tôi đã bảo với ông ta là không cần gấp như vậy.”

“Nhưng anh không nghĩ là tôi bị tâm thần phân liệt, đúng không? Chuyện này quá vô lý đi.”

“Không, tôi không hề tin vậy. Nhưng khi cậu giải thích mọi chuyện..., khi cậu giải thích chuyện của Lili, nghe thật giống như cậu nghĩ rằng có hai người. Hai con người khác nhau.”

“Bởi vì chính xác là có hai người.” Trời sụp tối dần và xe cộ di chuyển chậm lại vì một con chó chăn cừu Đức vừa bị xe tông. Xác nó nằm ngay trên đường nên từng chiếc xe phải né qua một bên. Con chó đã chết, nhưng bên ngoài chẳng có thương tích nào, đầu nó gác trên lề đường lát đá hoa cương ngay chỗ bùng binh.

“Anh cho rằng Greta cũng nghĩ thế à? Anh có cho rằng cô ấy tin tôi bị điên không?”

“Không hề,” Carlisle cam đoan. “Cô ấy là người tin tưởng vào Lili nhất.”

Họ băng qua chỗ con chó chăn cừu Đức, và xe bắt đầu tăng tốc. “Liệu tôi có nên nghe lời bác sĩ Mai không? Anh có nghĩ tôi nên đến đó với ông ta một thời gian không?”

“Cậu nên suy nghĩ kỹ về chuyện này,” Carlisle đáp lời. Bàn tay Carlisle vẫn siết chặt tay nắm trên cần số, và Einar cảm thấy Carlisle còn muốn nói gì đó. Gió thổi, cộng thêm khí thải ra từ xe buýt tự động khiến hai người khó mà nói chuyện với nhau. Giao thông trong thành phố thật là tấp nập, và Einar lại nhìn sang Carlisle như muốn giục anh ấy nói thẳng mình nghĩ gì. Hãy nói cho tôi biết anh đang nghĩ gì, Einar muốn gào lên như vậy đấy, nhưng lại chẳng thốt nên lời Có gì đó đang treo lơ lửng giữa hai người, và sau đó họ về đến khu Marais, ngay trước căn hộ, rồi thứ gì đó vụt qua, biến mất khi động cơ chiếc Spider tắt hẳn. Carlisle dặn dò, “Đừng kể với Greta về chuyện chúng ta đã đi đâu.”

Mệt nhoài, Einar trèo thẳng lên giường ngay sau bữa tối và Greta chen lên giường trước khi anh kịp thiếp đi.

“Ngủ sớm vậy em,” anh thắc mắc.

“Tối nay em mệt lắm. Em đã thức trắng suốt mấy đêm liền để làm việc rồi. Vừa giao xong nửa tá tranh minh họa trong tuần này. Đấy là còn chưa kể đến bức chân dung Lili trên bãi bùn gần cửa biển.” Cô khen ngợi, “Anh vẽ phông nền đẹp tuyệt. Em không thể nào hài lòng hơn được nữa. Hans cũng nói vậy. Em đã muốn nói với anh như vậy từ lâu rồi.”

Anh nhận ra cô nằm bên cạnh anh, người cô thon thả và ấm dưới lớp chăn mùa hè. Đầu gối cô cọ vào chân, còn tay vắt lên ngực anh. Từ trước đến giờ hai người vẫn chạm vào nhau như vậy, nhưng không hiểu vì sao không khí lúc này còn mập mờ hơn đêm tân hôn, khi cô kéo mạnh cà vạt rồi tháo thắt lưng cho anh: bàn tay cuộn lại như loài động vật nhỏ dụi dụi vào ngực anh; đầu gối kẹp chặt khiến anh yên lòng; hơi thở ướt át và nóng bỏng; còn mái tóc cô giống như dây nho mọc từ cổ họng anh. “Em có nghĩ anh đang mất trí không?” anh hỏi.

Cô bật dậy. “Mất trí? Ai nói với anh như vậy?”

“Không ai cả. Nhưng em có nghĩ vậy không?”

“Đó là câu nói nực cười nhất mà em từng nghe. Ai đã nói với anh như thế? Carlisle nói gì với anh sao?”

“Không có gì. Chỉ là đôi lúc anh không biết chuyện gì đang xảy ra với mình.”

“Nhưng chuyện đó là không thể nào,” cô trấn an. “Chúng mình đều biết chuyện gì đang xảy ra với anh. Bên trong anh là Lili. Sâu thẳm trong tâm hồn anh là một quý cô trẻ tuổi xinh đẹp tên là Lili. Chuyện chỉ có vậy. Chẳng hề liên quan gì tới chứng mất trí cả.”

“Anh đang tự hỏi em nghĩ gì về anh.”

“Em nghĩ rằng anh là người đàn ông dũng cảm nhất mà em từng biết,” cô đáp lại. “Giờ thì ngủ thôi.” Bàn tay cô nắm lại chặt hơn, sợi tóc cô phủ lòa xòa trên cổ anh, còn đầu gối cô lùi ra xa.

Một tuần trôi qua. Einar dành cả ngày để dọn dẹp lại xưởng vẽ, cuộn những khung vải cũ rồi cất vào góc phòng, cảm thấy vui vẻ vì đã dẹp chúng sang một bên. Anh thích vẽ phông nền cho Greta, nhưng chẳng hề nhớ nhung cảm giác sáng tạo thứ gì đó cho riêng mình. Thỉnh thoảng, khi nhớ đến sự nghiệp đang bỏ bê, anh cảm thấy như rốt cuộc mình cũng chấm dứt một công việc vừa vặt vãnh vừa tẻ ngắt. Và khi nhớ lại những bức tranh mình vẽ - quá nhiều vũng lầy, quá nhiều bãi hoang trong bão tố - anh chẳng hề có cảm xúc gì. Ý niệm phải sáng tạo ra điều mới, thậm chí chỉ cần nghĩ đến việc phải hồi tưởng rồi phác họa cảnh vật mới, đã khiến anh thấy kiệt sức. Anh tự nhủ phải chăng ai đó mới là người vẽ nên những bức tranh phong cảnh cỡ bé xíu như vậy. Anh thường nói với học viên tại Học viện Hoàng gia câu gì nhỉ? Nếu bạn có thể sống mà không có hội họa, xin hãy tiếp tục bước về phía trước. Vì cuộc sống lúc đấy sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều.

Einar thường đi ngủ muộn và thức dậy trong trạng thái mệt mỏi. Mỗi sáng, anh tự hứa với lòng rằng mình sẽ sống vào ban ngày với tư cách là Einar, nhưng khi đứng trước tủ quần áo, anh có cảm giác như đang đứng trước mớ trang phục của một vị tổ tiên đặt trên gác mái.

Thường thì Lili sẽ ló đầu ra khỏi phòng ngủ rồi ngồi trên ghế đẩu trong xưởng vẽ của Greta. Đôi vai cô sẽ khom lại rồi chơi đùa với chiếc khăn choàng đặt trên đùi; hay cô sẽ quay lưng lại với Greta, người đang say sưa vẽ một bức chân dung khác, và nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng mắt xuống phố tìm kiếm bóng hình Hans hay Carlisle.

Sau đó Carlisle lại đề cử Buson, một bác sĩ trẻ tuổi đang công tác tại phòng khám tâm thần ở Auteuil. “Làm sao mà anh biết ông ta?” Einar hỏi Carlisle, người đã nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống ở Paris sau sáu tuần, còn nhanh hơn Einar trong ba năm đầu tiên. Anh ta đã xài qua hộp danh thiếp thứ hai và còn nhận được thiệp mời tụ họp cuối tuần ở cung điện Versailles hay thành phố St-Malo. Ông thợ may trên phố Paix còn nhớ rõ kích cỡ áo sơ mi của Carlisle.

Anh lái xe đưa Einar đến phòng khám của bác sĩ Buson, và Einar lại cảm nhận sức nóng xuyên qua lớp sàn kim loại.

“Hans giới thiệu anh ta cho tôi đấy,” Carlisle lên tiếng.

“Hans sao?”

“Đúng vậy. Tôi gọi điện cho anh ta. Kể với anh ta rằng một người bạn của mình cần gặp bác sĩ. Tôi không nói rõ là ai cả.”

“Nhưng nếu anh ta...”

“Anh ta không thế đâu,” Carlisle ngắt ngang. Rồi lại nói tiếp, “Mà nếu anh ta biết thì sao? Anh ta là người bạn lâu năm nhất của cậu, đúng không nào?” Lúc này, với mái tóc vàng hoe bị gió thổi phủ lòa xòa trên mặt, Carlisle trông đúng là anh trai sinh đôi của Greta; anh vén tóc ra sau tai.

“Hans hỏi thăm cậu đấy,” Carlisle tiếp tục kể. “Hans bảo biết có gì đó không ổn. Rồi còn kể rằng một ngày nọ anh ta trông thấy cậu đang đi bộ dọc cảng Lourve, hướng về phía sông Seine, nhưng suýt nữa thì chẳng nhận ra cậu.”

Tay Carlisle đang táy máy cần gạt nước, và Einar cứ tưởng chừng như nó sẽ rớt từ chỗ núm điều khiển xuống đầu gối anh lần nữa. “Anh ấy kể là cậu đi lướt qua,” Carlisle huyên thuyên. “Còn nói rằng đã gọi tên cậu, nhưng cậu lại cứ thế bỏ đi.”

Chuyện này là không thể nào. “Bỏ đi khỏi Hans sao?” Einar thốt lên. Qua hình ảnh phản chiếu từ cửa sổ ôtô, Einar có thể nhìn thấy bóng dáng mơ hồ của chính mình, cứ như sự tồn tại của anh ở đó là như có như không. Anh nghe được Carlisle đề nghị: “Có lẽ cậu nên nói thật với anh ta. Anh ta sẽ hiểu mà.”

Bác sĩ Buson trạc tuổi Einar, là người gốc Geneva. Tóc anh ta đen nhánh và dựng đứng trên đỉnh đầu. Hai má Buson hóp lại, còn cái mũi rất dài. Anh ta hay nghiêng đầu sang bên trái khi nói chuyện, cứ như không biết mình có nên hỏi câu tiếp theo hay không. Bác sĩ Buson hẹn gặp Einar và Carlisle tại một căn phòng nhỏ màu trắng với cái ghế tựa ngả lưng được đặt ngay dưới ngọn đèn xét nghiệm tráng bạc. Có một chiếc xe đẩy nhỏ có gắn bánh xe, phía trên phủ một tấm vải xanh lục. Đặt trên tấm vải là một tá kéo với kích cỡ khác nhau. Treo trên tường là một tấm bảng mô phỏng cấu tạo não người.

Lần này, Carlisle cùng vào gặp bác sĩ với Einar. Vì lý do nào đó mà Carlisle khiến Einar cảm thấy mình thật bé nhỏ, cứ như Carlisle là cha của Einar, vừa đặt câu hỏi, vừa trả lời. Einar cảm thấy thật khó để mở miệng khi ngồi cạnh Carlisle. Cửa sổ hướng ra khoảng sân tối om vì mưa gió, và Einar nhìn thấy vài nhóm y tá chạy lúp xúp trên đường lót đá.

Bác sĩ Buson đang giải thích cách anh ta chữa trị cho những bệnh nhân gặp tình trạng rối loạn về nhân cách. “Thường thì họ muốn có một cuộc sống yên bình,” ông ta vẫn thao thao bất tuyệt. “Và điều này đồng nghĩa với việc phải chọn lựa.”

Carlisle hí hoáy ghi chép, và Einar đột nhiên cảm thấy đúng là lạ khi anh ấy bỏ công đi từ California để giúp Einar như thể đây mới là dự án quan trọng nhất đối với mình. Einar biết rõ anh ấy chẳng cần phải làm như vậy. Carlisle không cần phải cố gắng thấu hiểu. Ngoài sân, một cô y tá trượt ngã trên mặt đá ướt, và khi được đồng nghiệp kéo đứng dậy, cô ấy mở tay ra, để lộ lòng bàn tay đầy máu.

“Về mặt nào đó thì tôi cho rằng những người đến gặp tôi khá may mắn,” bác sĩ Buson vẫn đang nói. Anh ta ngồi trên chiếc ghế đẩu bằng thép có thể hạ xuống và nâng lên chỉ nhờ vào động tác xoay ghế. Bác sĩ mặc một chiếc quần tây đen bên dưới áo choàng phòng thí nghiệm, cùng với đôi vớ bằng lụa màu đen. “Họ khá may mắn vì tôi nói với họ rằng, ‘Anh muốn mình là ai?’ Và sau đó họ có thể lựa chọn. Quá dễ dàng, đúng không nào. Nhưng chẳng phải chúng ta luôn mong muốn có ai đó hỏi rằng chúng ta muốn được là ai sao? Dù chỉ là quan tâm một chút?”

“Dĩ nhiên,” Carlisle gật gù tán đồng, lại nguệch ngoạc vài dòng vào sổ tay. Einar cảm thấy may mắn vì Carlisle chịu đến đây, lái xe đưa anh đến gặp tất cả bác sĩ, rồi sau mỗi cuộc hẹn thảm thương lại đặt tay lên vô-lăng và trấn an, “Đừng lo. Sẽ có một bác sĩ phù hợp với cậu mà.” Có gì đó trong lòng Einar dịu lại, và anh cảm thấy hơi thở mình trở nên chậm rãi. Anh ước rằng Greta mới là người cố gắng giúp anh.

“Và bây giờ đến lúc tôi giới thiệu quy trình trị liệu,” bác sĩ Buson tiếp tục thuyết giảng. “Đây là một quy trình mới mẻ, khiến tôi vô cùng hào hứng được chia sẻ vì nó mang nhiều hứa hẹn.”

“Quy trình gì vậy?” Einar thắc mắc.

“Giờ thì tôi không muốn anh cảm thấy quá hào hứng khi tôi kể cho anh biết, bởi vì nghe thì có vẻ phức tạp hơn thực tế nhiều. Quy trình nghe có vẻ nghiêm trọng nhưng thực sự thì chẳng có gì. Đó là một ca phẫu thuật có tác dụng với những người gặp vấn đề về hành vi. Việc điều trị cho kết quả tốt hơn hẳn so với bất kỳ phương pháp nào tôi từng biết từ trước đến giờ.”

“Anh nghĩ rằng phương pháp này sẽ có tác dụng với người như tôi sao?”

“Tôi chắc chắn,” bác sĩ Buson cam đoan. “Phương pháp đó gọi là thủ thuật mở thùy não.”

“Là sao?” Einar hỏi tiếp.

“Đó là một quy trình giải phẫu đơn giản để cắt đứt những đường dẫn truyền thần kinh ở phần trước của bộ não.”

“Phẫu thuật não sao?”

“Đúng vậy, nhưng không mấy phức tạp. Tôi không cần phải mở hết hộp sọ. Không cần làm vậy, đó chính là cái hay của nó. Tất cả những gì tôi phải làm là khoan vài lỗ trên trán anh, ngay chỗ này... và chỗ này nữa.” Bác sĩ Buson chỉ tay lên đầu Einar, ngay hai bên thái dương, rồi chỉ vào một điểm ngay trên mũi anh. “Một khi tôi đã khoang xong mấy lỗ trên đầu anh, tôi có thể luồn vào và cắt đứt hết những nhánh dây thần kinh kiểm soát nhân cách của anh.”

“Thế nhưng làm sao anh biết được dây nào kiểm soát nhân cách của tôi?”

“Ồ, đấy là những gì tôi vừa khám phá ra. Anh chưa nghe thấy tên tôi trên báo chí à?”

“Một người bạn giới thiệu chúng tôi đến đây,” Carlisle đáp.

“Vậy thì anh ta có lẽ đã đọc được mấy bài viết. Thông tin được đăng khắp mấy trang báo mà.”

“Nhưng nó có an toàn không?” Carlisle rốt cuộc cũng thắc mắc.

“An toàn như nhiều phương pháp khác. Nghe này, tôi biết nghe nó có vẻ quá cấp tiến. Tôi từng trị cho một người đàn ông tin rằng mình là năm người khác nhau chứ không chỉ là hai người đâu, và tôi đã chọc vào não anh ta rồi sửa chữa nó.”

“Bây giờ anh ta sao rồi?” Einar dò hỏi.

“Anh ta đang sống với mẹ mình. Anh ta yên lặng hẳn đi, nhưng rất hạnh phúc. Mẹ anh ta chính là người đưa anh ta đến chỗ tôi.”

“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với tôi?”

“Anh sẽ đến bệnh viện. Tôi sẽ giúp anh chuẩn bị sẵn sàng cho ca phẫu thuật. Điều quan trọng là anh phải nghỉ ngơi và cơ thể không được suy yếu. Tôi phải để anh nhập viện và lấy lại sức lực trước khi đưa vào phòng mổ. Mọi chuyện không mất bao nhiêu thời gian cả. Và sau đó anh sẽ nghỉ ngơi. Ca phẫu thuật chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Và hai tuần sau thì anh có thể sẵn sàng xuất viện rồi.”

“Và sau đó thì tôi sẽ đi đâu?” Einar hỏi tiếp.

“Ồ, tôi tưởng anh đã biết rồi.” Bác sĩ Buson duỗi chân ra, đụng vào chiếc xe đẩy. “Anh sẽ phải sắp xếp vài thứ trước khi phẫu thuật. Sau khi mọi chuyện kết thúc, anh sẽ không còn là người giống như ban đầu.”

“Thực sự nó đơn giản như vậy sao?” Carlisle tò mò.

“Thường là vậy.”

“Nhưng sau đó tôi sẽ là ai?” Einar lên tiếng.

“Về việc này thì,” bác sĩ Buson trầm ngâm, “đây là việc chúng ta không thể nào dự đoán được. Chúng ta phải chờ xem sao.”

Einar có thể nghe thấy tiếng guốc gõ lách cách trên mấy hòn đá lót đường trên sân. Mưa rơi nặng hạt hơn, đập rào rào vào cửa sổ. Bác sĩ Buson khẽ xoay ghế. Và Carlisle tiếp tục hí hoáy ghi chép. Ngoài trời, cô y tá với bàn tay bị thương xuất hiện trên lối đi có ô kính cửa sổ hình oval. Bàn tay cô bị băng bó. Cô vẫn đang cười đùa với người đồng nghiệp, và hai cô gái - có lẽ chưa quá hai mươi tuổi giữ chức vụ trợ lý - băng ngang qua sân, chạy đến bên một cánh cửa với ô cửa sổ hình oval ngay phía trên. Ô cửa sổ ấy có màu vàng kim và sáng rực dưới ánh đèn, in trên đó là mấy vệt mưa lất phất.