Mười tám
Hồi đầu mùa thu năm 1929, trong cuộc gặp giáo sư Bolk lần thứ hai, Greta đến nơi hẹn với một danh sách câu hỏi viết trong cuốn sổ tay có nẹp trên bằng nhôm. Paris giờ trông thật ảm đạm, cây cối bắt đầu rụng lá. Phụ nữ bước xuống phố luôn bận rộn kéo găng tay lên tận khuỷu tay, còn cánh đàn ông thì rụt cả hai vai lại.
Hai người hẹn gặp nhau tại quán cà phê trên phố St- Antoine, ngồi ngay chiếc bàn cạnh cửa sổ cho phép Greta nhìn ngắm đàn ông và phụ nữ bước ra từ dưới ga tàu điện ngầm, gương mặt họ lập tức cau lại vì thời tiết. Giáo sư Bolk đang đợi Greta, ly espresso bé tí đã cạn đến đáy. Ông ta có vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của cô; Greta lôi ra vài lý do - bức tranh khiến cô không thể rời đi, điện thoại reo - trong lúc Giáo sư Bolk ngồi yên với khuôn mặt lạnh lùng, dùng một lưỡi dao nhỏ bằng thép không gỉ để cạo lớp bụi bặm đóng dưới ngón tay cái.
Greta cho rằng giáo sư Bolk rất đẹp trai, với gương mặt dài và cái cằm chẻ như phần dưới quả táo. Đầu gối ông ta chẳng thể nào nép vào dưới mặt bàn tròn bằng cẩm thạch đầy vết xước, hoen gỉ và thô ráp như đá chẻ. Một dải đồng thau nhỏ viền quanh mặt bàn cẩm thạch. Greta cảm thấy khó mà dựa ra phía trước để nói chuyện riêng tư với Giáo sư Bolk vì miếng đồng cứ kẹp vào chỗ thịt dưới cánh tay.
“Tôi có thể giúp chồng cô,” Giáo sư Bolk cam đoan. Dưới chân ông ta là chiếc cặp có khóa mạ vàng và quai xách hình bán nguyệt, và Greta tự hỏi liệu mọi việc có đơn giản hơn nếu Giáo sư Bolk đến tận căn hộ, mang theo chiếc cặp màu đen ấy và dành vài tiếng đồng hồ với Einar. Cô tự nhủ rằng chuyện không thể giải quyết theo cách đó được, nhưng lại ao ước giá mà đơn giản như thế, giống như những lúc mong mỏi Carlisle sẽ xoa đủ dầu bạc hà lên cái chân què, sau đó nó sẽ tự hồi phục, hay như khi mong muốn Teddy Cross cứ ngồi phơi mình để ánh nắng đốt cháy hết bệnh tật nằm trong xương của anh ấy.
“Nhưng khi tôi xong việc, anh ta sẽ không còn là chồng cô,” Giáo sư Bolk nói tiếp, sau đó mở cặp ra. Ông lôi một quyển sách bọc giấy hoa văn cẩm thạch màu xanh lục, gáy sách bằng da đã nứt nẻ và sờn như chỗ ngồi trên cái ghế đọc sách đã cũ mèm.
Giáo sư Bolk lật ra đúng trang mình cần, sau đó ông ngước mắt lên, ánh mắt giao nhau với Greta, làm thứ gì đó xổ lồng và vỗ cánh từ lồng ngực cô. Trên trang sách là hình vẽ một người đàn ông với cột sống và cơ quan nội tạng, cùng mớ đường kẻ song song và chéo góc chằng chịt, làm Greta nhớ đến một trong mấy tấm bản đồ Paris và vùng phụ cận in trong cẩm nang du lịch của Baedeker mà Carlisle đã dùng khi lần đầu đến đây. Giáo sư Bolk giải thích rằng bức tranh chính là hình ảnh minh họa một người đàn ông trưởng thành bình thường. Cánh tay anh ta dang rộng, và bộ phận sinh dục trông như chùm nho treo trên dây nho. Trang giấy được gấp góc, với mấy vết bút chì mờ mờ.
“Như cô thấy,” Giáo sư Bolk nói tiếp, “khung chậu của người đàn ông là một khoảng trống. Cơ quan sinh dục nằm bên ngoài. Bên trong khung chậu chỉ chứa đường ruột vốn có thể sắp xếp lại toàn bộ.”
Greta gọi thêm ly cà phê thứ hai, rồi bất chợt thèm một đĩa cam cắt miếng; đó là thứ khiến cô nhớ đến thành phố Pasadena.
“Tôi tò mò về khung chậu của chồng cô,” Giáo sư Bolk tiếp lời. Greta thầm nghĩ đây đúng là một câu nói kỳ cục, mặc dù cô rất thích Giáo sư Bolk và luôn tỏ ra niềm nở khi nghe ông kể về quá trình đào tạo của mình. Ông đã học tập ở Vienna và Berlin, tại Bệnh viện Charite. Ông còn là một trong số ít những bác sĩ tại bệnh viện ấy đã quyết định chuyên sâu vào hai lĩnh vực là phẫu thuật và tâm lý học cùng một lúc. Trong thời chiến, lúc còn là một bác sĩ phẫu thuật trẻ tuổi với đôi chân đang nhổ giò và giọng nói chưa biến thành giọng nam trầm nhất, ông đã thực hiện phẫu thuật cắt cụt hơn năm trăm chi - nếu có ai đó bỏ công đếm tất cả số lượng ngón tay mà ông đã cắt rời để cứu một bàn tay đã dập nát hết một nửa chỉ vì lựu đạn nổ trước thời hạn mà viên đại úy đã cam đoan. Bolk đã phẫu thuật ngay trong lều khi cửa lều rung lên vì bom đạn; hy sinh một cái chân để cứu mạng một người, tất cả mọi thứ được tiến hành dưới ánh lửa diêm. Những nhân viên cấp cứu sẽ đặt vài người với ổ bụng nổ tung lên băng ca ván gỗ, rồi đẩy mấy người lính dở sống dở chết lên bàn phẫu thuật của Giáo sư Bolk. Bàn phẫu thuật đang còn đẫm máu của người nằm trước. Lần đầu tiên khi nhận một người như thế, với phần giữa cơ thể chỉ còn là một ổ bụng lòi ruột, Bolk chẳng tài nào nghĩ ra mình nên làm gì. Nhưng người lính đang hấp hối ngay trước mặt ông, đôi mắt anh ấy đang đảo quanh hốc mắt và cầu xin sự giúp đỡ từ Bolk. Bình khí đã gần như cạn sạch, nên chẳng có cách nào gây mê cho người này. Vì vậy, Bolk đắp một miếng băng gạc lên mặt anh ta, rồi bắt tay vào phẫu thuật.
Lúc đó là mùa đông, những trận mưa đá rơi loạn xạ trên túp lều, và mấy ngọn đuốc đều tắt rụi, thêm vào đó là đống xác chết chất đầy như củi đốt, và Bolk quyết định rằng nếu cứu được đủ một phần đường ruột - thực ra lá gan và cặp thận đều không sao - thì có lẽ người lính kia sẽ sống sót, mặc dù anh ta sẽ không thể bài tiết như bình thường được nữa. Máu thấm đầy hai tay áo của Bolk, và suốt một tiếng đồng hồ, ông không dám nhấc miếng băng gạc trên mặt người đó, mặc dù anh ta đã ngất đi vì quá đau, bởi vì Bolk biết rõ ông không thể nào chịu được vẻ thống khổ hiện trên mi mắt của anh ấy. Bolk cẩn thận khâu vết thương lại, dù chẳng nhìn rõ được thứ gì. Hồi còn bé, Bolk đã từng lột da lợn, và cảm giác bên trong ổ bụng của người lính chẳng khác gì trong bụng của con lợn: ấm nóng, trơn trượt và đặc quánh, cứ như nhúng trọn cánh tay vào nồi thịt hầm mùa đông.
Khi trời đã tối hẳn, những trận nã pháo chấm dứt, cơn mưa lạnh buốt càng trở nên nặng hạt hơn, Bolk bắt đầu đắp phần da còn sót lại lên vết thương của cậu ta. Có một cô y tá mang tấm tạp dề đầy máu tên là Fraulein Schapers, và bệnh nhân cô đang chăm sóc vừa nôn hết nội tạng lên người cô trước khi tắt thở. Cô chỉ mất nửa phút để lau mặt rồi bước sang giúp Bolk. Hai người cùng nhau kéo phần da của anh lính, từ phần da dưới xương ức xuống mẩu da còn dính trên xương chậu. Fraulein Schapers cố định tấm da lại với nhau trong khi Bolk xuyên một sợi dây còn thô hơn dây giày quanh bụng người lính, kéo miếng da căng lên như mấy tấm đệm bằng vải bạt gắn trên ghế đẩu đang ngả nghiêng trong túp lều có ống khói được dành làm bếp ăn.
Cậu trai trẻ sống sót, ít nhất là còn sống đến lúc được đẩy vào xe cấp cứu với mấy dãy kệ chứa bệnh nhân. Dãy kệ làm Bolk nhớ đến chiếc xe tải của cửa hàng bánh ngọt vẫn thường hay lắc lư quanh quảng trường Gendarmenmarkt, hằng ngày chuyên chở những ổ bánh mì mà anh thường ăn hồi còn là một anh sinh viên y khoa nghèo khổ nhưng mang quyết tâm trở thành bác sĩ khiến toàn nước Đức phải ngưỡng mộ.
“Năm trăm chi và năm trăm mạng sống,” Giáo sư Bolk nói với Greta tại quán cà phê trên phố St-Antoine. “Họ nói rằng tôi đã cứu sống năm trăm mạng người, nhưng chính tôi cũng không chắc nữa.”
Ngoài trời, lá rụng đầy trên bậc thềm dẫn đến lối vào ga tàu điện ngầm, và nhiều người đến nơi đó lại trượt ngã, mặc dù ai cũng cố gượng dậy để bắt kịp con tàu bằng đồng màu xanh lục. Nhưng Greta vẫn quan sát, chờ xem có ai đó trượt ngã xây xát bàn tay, hay bị thương nặng hơn, dù chẳng muốn thấy cảnh tượng đó, nhưng cô biết đó là chuyện sẽ xảy ra.
“Khi nào tôi có thể gặp chồng cô?” Giáo sư Bolk hỏi.
Greta nhớ đến hình ảnh Einar trên bậc thềm Học viện Mỹ Thuật Hoàng gia; ở cái tuổi ấy - trời ơi, anh đã là giáo sư - Einar trông như một cậu con trai vừa dậy thì, cứ như họ biết rằng mới sáng hôm ấy, khi anh nhấc tay lên để tắm rửa mới phát hiện ra cọng lông nâu vàng đầu tiên. Greta biết anh ấy có gì đó không ổn về mặt sinh lý. Nhưng giờ đây cô tự hỏi liệu chuyện này có gì là quan trọng. Lúc chơi đùa với cái thìa trong ly cà phê, cô nghĩ có lẽ nên tiễn Giáo sư Bolk về Dresden một mình. Cô đột nhiên tự hỏi mình yêu ai nhiều hơn, Einar hay Teddy Cross. Cô tự nhủ rằng chuyện này có gì quan trọng đâu, mặc dù chính cô chẳng tin là thế. Cô ước mình có thể quyết định và yên lòng với lời xác nhận này, nhưng lại không biết quyết định ra sao. Và rồi cô nhớ đến Lili: chiếc xương đẹp tuyệt trên cột sống của cô ấy; cách cô ấy duỗi tay duyên dáng tựa như sắp đặt tay lên phím đàn dương cầm; giọng nói thỏ thẻ của cô ấy như làn gió nhẹ vờn quanh mấy cánh hoa anh túc Iceland mỏng tang mọc đầy trong khu vườn ở Pasadena vào mùa đông; cặp mắt cá chân trắng trẻo đan chéo một cách kín đáo. Cô yêu ai nhiều hơn, Greta tự hỏi lòng mình - và rồi Giáo sư Bolk tằng hắng, quả táo của Adam dịch lên trên. Giống như chẳng có nghi ngờ nào khác, “Vậy thì, tôi sẽ gặp cô và Lili tại Dresden.”
Nhưng Greta chưa thể đưa Einar đến Dresden. Ít nhất giờ chưa phải lúc. Có hàng tá lý do, bao gồm buổi triển lãm cá nhân với những bức tranh mới nhất của cô. Tất cả những bức tranh đều vẽ cảnh Lili nằm trên bàn, đôi tay cô ấy đan vào nhau trên bụng, đôi mắt nhắm nghiền như thể đã chết. Những bức tranh, có khổ nhỏ bằng quyển từ điển, treo trên sảnh đường lát gỗ của một bá tước phu nhân sống tại nơi không những gần với xưởng điêu khắc tốt nhất Paris, mà còn gần với dược sĩ giỏi nhất, người biết hết mọi thứ về mặt nạ bùn Normandy và nước súc miệng pha nước chanh, cùng với chiết xuất tinh dầu vùng Pasadena mà Greta đã trao đổi với ông ta để lấy những dụng cụ thẩm mỹ như máy làm sạch da mặt, là thứ mà Lili càng lúc càng cần hơn.
Trong một buổi chiều, những bức tranh - gồm tám bức - đều vào tay những nhân vật có tài xế riêng chờ sẵn trong mấy chiếc xe limousines Nurburg đỗ ngay trên phố. Nội thất trong xe làm bằng gỗ óc chó có vân xoắn phản chiếu ánh mặt trời mới đầu thu. Hans đã sắp xếp buổi triển lãm, và anh còn nhấn mạnh với hơn một người chủ biên rằng đây là một sự khởi đầu mới không thể bỏ lỡ. Hans cài một chiếc ghim hình oval trên ve áo vest. Anh siết chặt tay Greta mỗi khi một bức tranh được lấy khỏi mấy bức tường được trang hoàng đường viền kiểu khung ảnh và bám đầy lớp sơn dày hàng thế kỷ. Và Greta, bất chấp tài sản càng lúc càng nhiều lên trong chi nhánh ngân hàng Landmandsbanken, vẫn không kìm được mà liếc mắt vào quyển séc bọc da khi cây bút cọ xát với lớp giấy than.
Đó là một lý do mà cô chưa thể đưa Einar đến Dresden ngay lập tức. Lý do thứ hai là việc Carlisle đang cân nhắc ở lại Paris đến tận Giáng sinh. Theo như cô biết, Carlisle đúng là có một điểm rất giống cô: luôn bốc đồng khi nhận một dự án với mong muốn tìm ra giải pháp đến mức ám ảnh. Chưa có bức tranh nào mà Greta không hoàn thành. Đúng vậy, thậm chí bây giờ cô có thể thừa nhận rằng rất nhiều bức tranh - đặc biệt là trong những năm đầu tiên ở Đan Mạch - chẳng ra thể thống gì. Ồ, giá mà cô có thể quay về Copenhagen vào cái đêm đen tối nhất để tháo hết những bức tranh trang trọng mà buồn tẻ treo trên mấy bức tường trong văn phòng tại Vesterbrogade và Norre Farimagsgade mà cô đã vẽ. Lúc ấy cô còn quá trẻ, lại thiếu hiểu biết về những thành tựu cô muốn và có thể đạt được! Cô nhớ đến bức chân dung đơn sơ của ngài Herr I. Glủckstadt, nhà tài phiệt đứng sau Công ty East Asiatic và khu Cảng Tự do Copenhagen; cô đã dùng màu sơn bạc để vẽ đầu tóc của ông ta; còn cái tay phải đang cầm bút trông không khác gì một khối hình vuông nhòe nhoẹt được sơn màu sáng.
Và Greta biết cô và Carlisle có chung nhu cầu được làm việc một cách liên tục; sâu thẳm trong cơ thể giống hệt nhau của hai người là khao khát thành công. Một ngày nọ Carlisle quay về căn hộ với một chùm tin tức khiến Greta phải gác cọ vào chiếc cốc đựng dầu thông rồi ngồi lên giường xép.
“Einar và anh đã đến gặp vài bác sĩ,” anh bắt đầu kể. Lái xe xung quanh trong chiếc xe đa dụng đã tạo nên một sắc thái khác cho Carlisle, và gương mặt anh giờ đây còn đẹp trai hơn trong tưởng tượng của Greta. Khi nhắm mắt lại và lắng nghe giọng nói của anh mình, chất giọng thật trầm và chuẩn mực, cô cảm thấy như đang nghe bản ghi âm giọng nói của chính mình.
Carlisle kể về những cuộc hẹn, những lời phán đoán vô nghĩa, và sự tổn thương mà Einar phải chịu đựng. “Cậu ấy có sức chịu đựng cao hơn nhiều người,” Carlisle vẫn tiếp tục nói và Greta nghĩ thầm, đúng vậy, em biết mà.
“Nhưng có một bác sĩ,” Carlisle tiếp lời. “Bác sĩ Buson. Ông ta nghĩ mình có thể giúp Einar. Ông ta đã chữa trị tình trạng tương tự rồi. Với những người nghĩ rằng họ...” Và Carlisle nghe thấy giọng mình lạc đi, đó là chuyện chưa bao giờ xảy ra với Greta. “Những người nghĩ rằng họ không chỉ có một nhân cách.”
Carlisle giải thích về thủ thuật mở thùy não, bao gồm cả những mũi khoan nhỏ xíu mà bác sĩ Buson đã bày ra trên xe đẩy. Anh nói như thể chuyện chẳng có gì phức tạp hơn một cú đập ruồi.
“Anh nghĩ rằng đó là thứ Einar muốn làm,” Carlisle vẫn tiếp tục nói.
“Thật là tiếc vì em đã tìm được một bác sĩ khác,” Greta ngắt ngang lời anh. Cô đã ép cà phê trong một dụng cụ như ống xi lanh chứa đầy nước nóng, và bây giờ rót cà phê ra ly. Khi không tìm thấy tí kem nào trong bếp, trong lòng Greta dâng trào cảm giác gì đó - giống như hồi cô còn bé, sống trong căn nhà tại Pasadena và cô hầu gái người Nhật đã thất hứa không làm món quả chà là tẩm đường - khiến cô phải kìm nén để không dậm chân tức giận. Ngay cả Greta cũng ghét những lúc mình trở nên xét nét, nhưng thỉnh thoảng cô chẳng tài nào kìm nén được.
“Ông ta nghĩ mình có thể giúp Einar thay đổi,” cô tiếp lời. Cô xin lỗi vì hết kem, rồi thầm nghĩ mình sẽ nói, “Em đúng là chẳng giỏi quản lý cả việc nhà và sự nghiệp riêng cùng một lúc, ngay cả khi em nghĩ mình đủ khả năng.” Sau đấy, cô lại cho rằng lời nói đó quá giả dối và bạc bẽo, hay là sao đó mà không cách nào lí giải được. Greta cảm thấy nóng nực dưới tà váy dài và tay áo kiểu bó sát vào cánh tay, rồi tự hỏi vì sao mình lại thảo luận về chồng với anh trai, vì sao Carlisle lại có quyền lên tiếng trong chuyện này chứ.
Nhưng cô kìm lại.
“Nhưng bác sĩ Buson nghĩ anh ta có thể giúp Einar thay đổi,” Carlisle phản bác. “Chẳng lẽ bác sĩ của em cũng đưa ra đề nghị tương tự sao? Ông ta có nói gì đến chuyện khoan lỗ trên trán không?”
“Giáo sư Bolk nghĩ rằng ông ấy có thể biến đổi Einar thành một người phụ nữ,” Greta đáp lại. “Không phải về mặt tinh thần, mà là về mặt sinh lý.”
“Nhưng làm thế nào cơ?”
“Bằng phẫu thuật,” Greta giải thích. “Có ba ca phẫu thuật mà giáo sư muốn thử.”
“Anh chẳng hiểu gì cả.”
“Tin lời em nói đi.”
“Dĩ nhiên là anh tin em. Nhưng phẫu thuật kiểu gì?” “Phẫu thuật chuyển đổi.”
“Em đã cho Einar biết chưa?” Carlisle thắc mắc.
“vẫn chưa,” cô trả lời.
“Nghe có vẻ mạo hiểm quá chừng.”
“Không mạo hiểm hơn phương án anh vừa nói đâu.” Carlisle đang ngồi trên ghế bọc nhung, chân gác trên ghế. Cô thích anh ấy ở đây với mình, trải qua mấy tiếng đồng hồ buổi sáng khi Lili còn ngủ, ở cạnh Greta khi Lili đi mua mấy đồ lặt vặt và bơi lội. Cô cho rằng theo một cách nào đó thì mình đang cầu xin sự giúp đỡ của anh ấy trong yên lặng. “Em sẽ không để anh ấy đến gặp bác sĩ Buson đâu,” cô cương quyết từ chối. “Anh ấy có thể biến thành một đứa trẻ, một đứa bé sơ sinh không hơn không kém.” “Chuyện này phải để Einar quyết định,” Carlisle bảo. “Cậu ấy đã trưởng thành, và phải là người quyết định thôi.”
Anh cô lúc nào cũng là một người đàn ông đầy lý trí. Thỉnh thoảng, quá lý trí với tư tưởng của Greta.
Greta nhấp một ngụm cà phê; cô mới ghét cà phê đen làm sao! Cô trả lời, “Chuyện này phụ thuộc vào Einar,” rồi nói thêm, “Dĩ nhiên là vậy rồi.”
Và đó là một lý do nữa mà Greta chưa thể đưa Einar đến Dresden. Cô phải tìm một dịp khác, khi cô rảnh rỗi còn Einar thì hạnh phúc vì Lili vừa đến thăm, và kỳ này cô ấy có một quãng thời gian vui vẻ chứ không đau buồn: với một trận thắng trên sân cầu lông lát cỏ phía sau căn hộ của Anna, hay một buổi tối xem phim tại cung điện Gaumont- Palace; sau một ngày như vậy, Greta mới có thể giải thích cho Einar về những phương án anh có thể lựa chọn để giải quyết vấn đề của Lili. Chuyện chẳng dễ dàng gì đâu. Greta tưởng tượng Carlisle thành công trong việc thuyết phục Einar về kỹ năng của bác sĩ Buson, về triển vọng của thủ thuật mở thùy não khiến cô cảm thấy vừa khủng khiếp vừa tàn ác. Cô sẽ không bao giờ cho phép Einar chịu đựng những chuyện như thế. Nhưng Carlisle nói đúng một điều: Einar sẽ phải tự mình quyết định. Greta muốn thuyết phục anh tin, như cô đã tin, rằng Giáo sư Bolk có thể giải quyết vấn đề của họ một cách dứt điểm hơn bất kỳ ai khác trên thế giới. Đây cũng là vấn đề đã định hình rồi phá hủy cuộc hôn nhân giữa hai người. Giáo sư Bolk đã một mình quay về Dresden, nên cô phải đích thân thuyết phục Einar: nắm lấy tay anh, vén tóc ra sau tai, và giải thích một tương lai hứa hẹn, cùng triển vọng lấp lánh, tại Dresden.
Dù vậy, vẫn còn một lý do khác khiến Greta do dự nên chưa đưa Einar đến Dresden.
Tháng Ba năm 1918, đợt mưa mùa đông rồi cũng chấm dứt, và thành phố Pasadena lại trở nên xanh mướt như màu bức tượng Phật bằng ngọc thạch mà Akiko đặt trong phòng ngủ trên tầng ba của nhà họ Waud. Greta và Teddy đã chôn bé Carlisle trong ruộng dâu tại Bakersfield. Sau đó họ định cư tại Pasadena trong đau buồn và mất mát, còn bà Waud luôn căng thẳng khi cứ lo lắng xoay xoay mấy chiếc nhẫn.
Nhưng ít nhất mưa gió cũng đã qua, và Pasadena lại xanh mướt, với đồng lúa mạch vụ đông bao phủ như lớp chăn vải nỉ; thảm hoa mõm chó được điểm xuyết bởi những bông hoa trắng và hồng, hàng cây anh túc Iceland phất phơ trên mặt đất. Trong vườn cam, hoa nở trắng như mới khoác lên lớp áo choàng từ băng tuyết. Trong mắt Greta, bộ rễ của mấy cây cam giống như khuỷu tay đang ngoi lên giữa lớp đất ẩm; rễ cây có màu xỉn xỉn của da thịt, và to như cánh tay đàn ông. Những trận mưa đã làm dịu mặt đất hộ lũ giun đất có màu da xanh xám. Cái màu khiến Greta nhớ đến nhau thai lúc sinh bé Carlisle. Cô sẽ chẳng bao giờ quên được cuống rốn giống con giun đang vặn xoắn như đồ mở nút chai. Cũng không bao giờ quên lớp nhầy xanh xanh dính trên mắt cậu bé, hay ánh sáng lấp lánh do nước ối bao phủ khắp người, trông như một lớp màng bảo vệ mỏng manh đầy dầu mỡ, thứ màng bảo vệ mà chính cơ thể cô, với trí tuệ của riêng mình, đã tạo nên, đang bọc lấy thân hình con bé.
Mùa xuân năm ấy, cô nhớ đến chuyện này khi đang quản lý vườn cam lúc cha vắng nhà. Cô quan sát khu đất từ trong chiếc xe với lớp kính chắn gió kéo xuống, giúp cô vượt qua bùn lầy. Cô đang giám sát những người làm công, hầu hết là những cậu thanh niên đến từ thành phố Tecate và Tucson được thuê hái quả cho đủ số lượng. Cô nhìn thấy một ổ giun trườn mình qua cục đất dưới cái cây có mấy quả rụng sớm. Lúc ấy, hình ảnh này lại khiến Greta nhớ đến Teddy và cơn ho của anh. Suốt một năm qua, đờm cứ vướng ngay phổi, đêm nào anh cũng khiến ga trải giường ướt nhẹp và lạnh toát đến mức Greta tưởng anh vừa đánh đổ ly nước lên giường. Ngay khi tiếng ho đầu tiên thoát khỏi cổ họng như một quả bóng thủy tinh vỡ báo hiệu điềm xấu, cô đã đề nghị anh nên gặp một bác sĩ. Anh cứ ho mãi nên cô nhấc điện thoại gọi cho bác sĩ Richardson, một người đàn ông đến từ North Carolina có thân hình không khác gì quả trứng. Nhưng Teddy lại càu nhàu rằng: “Anh chẳng sao cả. Anh không gặp bác sĩ đâu.”
Greta gác điện thoại rồi nói, “Thôi được rồi.” Cô chờ đến lúc anh ra khỏi nhà rồi mới gọi điện thoại. Bất kỳ khi nào anh ho và đưa khăn tay lên miệng - chiếc khăn tay đã được cô là phẳng bằng bàn là sắt - Greta sẽ liếc mắt nhìn xem có gì bật ra sau cơn ho hay không. Thỉnh thoảng khăn tay vẫn khô ráo, khiến cô thở phào. Nhưng những lần khác, cơn ho có đàm, và thứ chất lỏng trăng trắng đặc quánh sẽ kéo dây nối từ miệng Teddy đến khăn tay. Sau đó, cơn ho càng lúc càng dai dẳng, anh còn phun ra một cục máu. Vì Greta, chứ không phải là Akiko, mới là người giặt tất cả áo quần cho Teddy, bao gồm cả khăn tay, nên cô sẽ biết anh ho ra máu nhiều hay ít. Đêm nào cũng vậy, cô phải đổi ga trải giường, sau đó nhúng tất cả khăn tay, và thỉnh thoảng cả áo sơ mi của anh, vào chậu giặt có thuốc tẩy. Mùi clo gay gắt xông lên mũi, làm mắt cô xốn xang. Vết máu không tự phải đi, nên cô phải dùng tay vò sạch từng vết bẩn. Những vết bẩn ấy gợi cho Greta nhớ đến mấy tấm giẻ lót quanh giá vẽ khi vẽ tranh. Từ khi chuyển đến chỗ ở tại Pasadena, cô chưa từng làm những việc như thế. Vậy mà, bất kỳ khi nào Greta nhấc điện thoại, Teddy lại khăng khăng nói rằng: “Anh không gặp bác sĩ đâu, anh không có bệnh tật gì cả, vì Chúa.”
Cô cố gắng mời bác sĩ Richardson đến vài lần. Teddy sẽ tiếp ông ta trong phòng đón nắng, mái tóc anh phủ qua mắt. “Ông biết một người vợ thường như thế nào rồi đấy,” Teddy càu nhàu. “Lúc nào cũng lo lắng toàn chuyện không đâu. Nhưng thưa bác sĩ, thực sự là tôi chẳng bị sao cả.”
“Vậy còn những cơn ho thì sao?” Greta xen vào.
“Chỉ là bệnh ho khan của nông dân mà thôi. Nếu lớn lên trên đồng ruộng thì em cũng sẽ ho như vậy,” anh mỉm cười trấn an cô, sau đó phá lên cười, khiến bác sĩ Richardson và cô cũng phải phì cười, mặc dù Greta chẳng thấy chuyện có gì đáng cười.
“Chắc là không có gì đâu,” Richardson nói. “Nhưng anh không phiền nếu tôi kiểm tra qua chứ?”
“Thực sự là tôi thấy phiền đấy.” Căn phòng đón nắng lát gạch men do chính tay Teddy đúc từ xưởng gốm. Những miếng gạch men màu cam ngả sang màu hổ phách được trát vữa đen. Vào mùa đông, sàn gạch men lạnh đến mức không chịu được, cho dù đã mang vớ vào chân.
“Vậy thì gọi cho tôi nếu cơn ho chuyển xấu nhé,” bác sĩ Richardson dặn dò, khóa cặp lại rồi rời đi.
Và Greta, người vẫn luôn mong muốn trở thành một cô vợ hiền, không muốn chồng mình kể xấu với mấy người bạn về việc cô lại trở nên chiếm hữu, tọc mạch và kêu ca liên hồi như thế nào, đành vén tóc ra sau tai và thỏa hiệp, “Thôi được rồi. Nếu anh không muốn gặp bác sĩ Richardson thì phải chăm sóc bản thân mình thật tốt đấy nhé.”
Lý do cô cho rằng mùa xuân năm nay, mùa xuân năm 1918, xanh mơn mởn hơn mọi năm là vì căn phòng Teddy đang nằm trong viện điều dưỡng hướng ra hẻm núi Arroyo Seco và dãy San Gabriel. Khi Teddy đang ngủ, cô ngồi trên chiếc ghế đặt bên cửa sổ và ngắm nhìn sắc xanh. Viện điều dưỡng là một tòa nhà có màu nâu vàng với tháp chuông treo bên vực thẳm ngay trên hẻm núi Arroyo. Con đường bao quanh tòa nhà được bao bọc bởi hàng hoa hồng bụi. Những căn phòng hình thoi có cửa sổ tay quay mở ra hướng bắc và hướng nam. Giường bệnh bằng sắt của Teddy có màu trắng, và mỗi sáng, cô y tá lại đến rồi đỡ anh lên ghế lắc lư, sau đó cuộn tấm đệm giường màu xanh dương kẻ sọc. Cứ thế tấm đệm nằm trên hàng dây lộ ra cuối chân giường, cuộn chặt như một khối kẹo bơ cứng.
Teddy nằm trong viện điều dưỡng gần hết mùa đông, và mỗi tuần trôi qua, thay vì hồi phục thì anh lại có vẻ suy yếu dần. Gò má anh hóp lại, còn thứ gì đó giống như sữa bị hỏng đóng đầy đôi mắt anh. Sáng nào cũng vậy, Greta đến và ngay lập tức kéo góc váy chùi sạch mắt của anh. Sau đó cô sẽ chải tóc cho anh. Mái tóc anh rụng dần và giờ chỉ còn vài cọng thưa thớt. Nhiều buổi sáng, anh sẽ sốt cao đến mức trán đẫm mồ hôi nhưng lại yếu đến mức chẳng đủ sức nhấc tay quệt mồ hôi đọng trên lông mày. Cô đến nơi và thấy anh trên ghế lắc lư trong tình trạng này không chỉ một lần: nằm cạnh cửa sổ tay quay, dưới ánh nắng, cả người nóng bừng vì cơn sốt và bởi chiếc áo tắm bằng vải len thô mà cô y tá cột quanh eo anh. Từ dáng vẻ nhăn nhó trên mặt, Greta có thể thấy anh đang cố gắng nhấc tay kéo áo len lên lau trán; mồ hôi nhỏ giọt từ cằm như thể anh đang đứng dưới trời mưa to. Nhưng bây giờ đã là tháng ba, và đợt mưa mùa đông đã chấm dứt, toàn bộ thành phố Pasadena đều trở nên xanh tươi như ngọc thạch. Ánh mặt trời trong vắt, thay vì thiêu rụi bệnh lao ra khỏi phổi và tủy của Teddy, thì lại khiến anh bốc hỏa. Vì vậy, chưa đến mười giờ sáng, khi ly nước quất đầu tiên trong tiêu chuẩn hai lần một ngày được đưa đến, Teddy đã ngất lịm vì cơn sốt.
Teddy ngủ càng ngày càng nhiều khi trời bước qua tháng tư. Greta ngồi trên ghế lắc lư với tấm đệm tay màu trắng giờ đã sờn trơ những cọng chỉ, trong khi anh đang nằm trên giường bên kia. Thỉnh thoảng anh sẽ trở mình trong giấc ngủ, và mấy cái lò xo lại kêu lên kẽo kẹt, nghe như tiếng rên rỉ phát ra từ khung xương chứa đầy vi khuẩn bệnh lao, giống như món bánh éclair nhồi đầy kem. Bác sĩ của anh, một người tên là Hightower sẽ bước vào phòng bệnh, áo choàng trắng phủ trên bộ comple màu nâu rẻ tiền. Teddy tiếp tục từ chối sự điều trị của bác sĩ Richardson, người chuyên chăm sóc sức khỏe không chỉ cho tất cả dòng họ Waud tại Pasadena mà còn mấy gia đình của Henrietta, Margaret và Dottie Anne. “Bác sĩ Hightower là được rồi,” anh bảo. “Anh không cần bác sĩ quá cao cấp đâu.”
“Bác sĩ cao cấp là cái quái gì?” Greta gào lên, rồi ngay lập tức cảm thấy hối hận vì đã cao giọng. Cô không muốn mâu thuẫn với anh; lại càng không bao giờ muốn làm tổn thương Teddy bằng cách nói rằng cô hiểu biết hơn anh. Đó là cảm giác của cô, vậy nên cô đành lịch sự chịu đựng bác sĩ Hightower khi ông ta đến thăm bệnh hằng ngày. Gã bác sĩ lúc nào cũng vội vàng, và ông ta còn chẳng buồn lưu đầy đủ giấy tờ trong tập hồ sơ bìa cứng cắp dưới tay. Ông ta cao lêu nghêu với mái tóc vàng hoe như màu cà phê loãng đặc chất Na Uy. Một ca phẫu thuật cấy ghép từ Chicago, và có gì đó về những bộ phận cơ thể nhô ra của ông ta như mũi, tai và những ngón tay có mấy cục u nhỏ giống như teo quắt lại vì lạnh.
“Hôm nay anh cảm thấy thế nào rồi?” bác sĩ Hightower hỏi thăm.
“Khỏe hơn một chút rồi,” Teddy trả lời, thật sự tin tưởng, hoặc không có khả năng trả lời khác đi. Bác sĩ Hightower gật gù rồi đánh dấu gì đó lên giấy theo dõi trong tập hồ sơ. Greta xin phép đi gọi điện về vườn quả, nơi một nhóm thợ hái cam từ Tecate tụ tập ở đó chờ lệnh. Và vẫn kẹp ống nghe điện thoại tại trạm y tá vào tai, Greta gọi cuộc thứ hai cho Richardson chỉ để nói rằng, “Anh ấy lại yếu đi.”
Mẹ cô thường đến thăm vào những buổi chiều, khi Teddy có một tiếng khỏe lên đôi chút. Greta và Teddy sẽ ngồi yên lặng trong khi bà Waud huyên thuyên liên hồi về chuyện xây một căn nhà sát biển tại Del Mar, hay về bức điện tín của cha Greta tường trình về chuyện chiến tranh sắp kết thúc một cách sôi nổi còn hơn báo chí. Greta thầm hy vọng mẹ mình sẽ can thiệp bằng cách riêng của bà: kéo chăn đắp qua một bên và dìu Teddy xuống giường, kéo anh qua bồn tắm nước khoáng nóng, rồi đưa một tách trà pha rượu bourbon lên tận miệng anh. “Được rồi, giờ thì hãy để con thoải mái chút nào!” bà Waud sẽ nói vậy, chà xát hai tay vào nhau rồi vén những cọng tóc lòa xòa ra sau tai. “Cái căn bệnh lao vớ vẩn này đến đây là được rồi!” bà Waud sẽ càu nhàu - hay ít nhất là Greta âm thầm hy vọng mẹ mình sẽ nói thế. Nhưng bà Waud chưa bao giờ làm những việc như thế; bà phó mặc Teddy cho Greta. Đến cuối buổi viếng thăm, bà sẽ tháo găng tay và hôn lên trán Teddy qua lớp khẩu trang y tế rồi nói, “Lần tới khi đến đây, mẹ muốn con ngồi dậy được nhé.” Rồi bà dời mắt đi chỗ khác và nhìn qua Greta. Trong hành lang bên ngoài phòng bệnh, bà Waud tháo khẩu trang và dặn dò: “Hãy đảm bảo là nó được chăm sóc tốt nhất, Greta à.”
“Anh ấy không chịu gặp Richardson.”
“Đơn giản là cậu ta phải gặp.”
Và Greta sẽ gọi cho Richardson một lần nữa để cập nhật tình trạng mới nhất của Teddy.
“Vâng, tôi biết rồi,” bác sĩ Richardson trả lời. “Tôi đã hỏi ý kiến bác sĩ Hightower. Nói thật với cô, tôi không biết mình có thể làm gì hơn cho cậu ấy. Chúng ta sẽ phải chờ xem thế nào.”
Khi Carlisle lái xe từ Stanford để thăm hỏi, anh lôi Greta ra ngoài và chất vấn: “Anh chẳng ưa nổi tay bác sĩ Hightower này. Thằng cha này từ đâu ra vậy?” Cô giải thích rằng anh ta là bác sĩ do viện điều dưỡng chỉ định, nhưng Carlisle ngắt lời cô: “Có lẽ nên mời Richardson đến.”
“Em thử rồi.”
“Anh giúp gì được không?”
Cô nghĩ về chuyện này. Cô nghe tiếng Teddy ho vọng lại từ bên kia cánh cửa. Mấy cái lò xo trên giường lại run lên bần bật. Sau đó là một tiếng thở dốc khò khè. “Em sẽ phải suy nghĩ về chuyện này đã. Đúng vậy, em chắc là sẽ có gì đó cần anh giúp đỡ. Chỉ là em phải cân nhắc thêm thôi.”
“Em biết chuyện này nghiêm trọng như thế nào, đúng không?” Carlisle nắm lấy tay cô và nói.
“Nhưng Teddy rất mạnh mẽ,” cô phản bác.
Vào lúc chiều muộn, khi Carlisle đã rời đi, mặt trời trượt dần về phía chân đồi, và bóng chiều ánh tím như tấm chăn bao trùm những dãy núi tại Pasadena, Greta cầm lấy bàn tay lạnh toát của Teddy. Mạch đập dưới cổ tay anh yếu đến mức ban đầu cô chẳng cảm thấy nó còn đập. Nhưng mạch vẫn đập yếu và không đều. “Teddy?” cô gọi. “Teddy, anh nghe thấy em nói chứ?”
“Ừ,” anh đáp lại.
“Anh có đau không?”
“Đau chứ.”
“Hôm nay anh có khỏe hơn chút nào không?”
“Không,” anh trả lời. “Anh e là anh lại yếu đi. Yếu hơn cả lúc trước.”
“Nhưng anh phải khỏe lên chứ. Teddy? Làm ơn được không? Em đã gọi cho Richardson. Ông ấy sẽ đến đây vào buổi sáng. Làm ơn để ông ấy khám cho anh. Em chỉ yêu cầu anh có vậy thôi. Ông ấy là một bác sĩ giỏi. Ông đã cứu sống em khi em mắc bệnh đậu mùa hồi còn bé. Em sốt đến hơn 41 độ, và mọi người, kể cả Carlisle, đều cho rằng em không qua khỏi. Và giờ em vẫn ở đây, khỏe mạnh như ai, chẳng có di chứng gì sót lại ngoại trừ vết sẹo bé xíu này.” “Greta, em yêu,” Teddy thều thào, những đường gân nổi đầy trên cổ anh. “Anh đang chết dần chết mòn. Em biết mà, đúng không? Anh sẽ không hồi phục được đâu.”
Và nói thật là, cô không hề biết, trước lúc đó thì không. Nhưng dĩ nhiên là anh đang chết dần chết mòn; anh đang kề cận với cái chết hơn là sự sống: cánh tay gầy teo với màu da vàng vọt, đôi mắt nhiễm khuẩn, những lổ hổng trong hai lá phổi bị máu và đờm lấp đầy, nặng trĩu đến mức đủ chìm xuống tận đáy Thái Bình Dương. Và khung xương của anh đang chịu tác động tàn ác nhất: xương rỗng xốp đi; cứ như có một ngọn lửa đầy sức sống đang ngấu nghiến lấy bộ xương của anh. Cô nghĩ đến cơn đau anh phải chịu đựng mà chẳng hề hé răng than phiền. Cô gần như chết lặng khi thấy chồng mình đau đớn. “Anh xin lỗi,” Teddy nói.
“Vì cái gì chứ?”
“Vì rời bỏ em.”
“Nhưng anh không thể rời bỏ em.”
“Và anh xin lỗi vì yêu cầu em làm việc này,” anh tiếp lời.
“Làm gì cơ? Anh đang nói gì vậy?” Cô cảm thấy sống lưng toát mồ hôi lạnh. Căn phòng oi bức và tràn ngập mùi bệnh tật. Cô dùng tay quay mở cửa sổ. Cô thầm nghĩ phải cho Teddy đáng thương tận hưởng chút không khí trong lành chứ.
“Em sẽ giúp anh chứ?”
“Giúp gì cơ?” Cô không hiểu ý anh, cô nghĩ đến việc gọi cho Richardson và thông báo rằng Teddy bắt đầu mê sảng. Cô biết Richardson sẽ hạ giọng và chầm chậm nói qua điện thoại rằng đây là dấu hiệu xấu.
“Lấy cái gối... cái gối cao su ấy. Đè nó lên mặt anh một lúc. Sẽ không mất quá lâu đâu.”
Cô dừng tay. Giờ thì cô đã hiểu. Đó là yêu cầu cuối cùng của chồng mình, người mà cô muốn làm vừa lòng hơn bất kỳ ai trên thế gian này. Vì trân trọng ký ức cuối cùng của anh, cô chẳng muốn gì hơn nếu anh rời khỏi thế gian này khi vẫn yêu cô. Cái gối cao su nằm trên ghế lắc lư; Teddy cố gắng nhấc tay chỉ vào nó.
“Chỉ cần đè lên mặt anh khoảng một hai phút thôi,” anh thều thào. “Chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều.”
“Ôi, Teddy,” cô kêu lên. “Em không làm được. Bác sĩ Richardson sẽ đến ngay vào buổi sáng. Hãy chờ đến lúc đó đi. Để ông ta khám cho anh. Ông ta có thể biết tiếp theo nên chữa trị cho anh thế nào. Nhưng anh cần phải kiên trì đến lúc đó. Làm ơn đừng nhắc tới cái gối nữa. Làm ơn đừng chỉ tay vào nó nữa.” Mồ hôi thấm đẫm lưng cô, làm ướt cả phần áo dưới ngực. Cứ như cô đang sốt, từ vầng trán trơn bóng, một giọt mồ hôi trượt qua tai cô.
Cô nhấc tay quay trên cửa sổ và cảm nhận luồng không khí mát mẻ. Cái gối đen xì, với những góc cạnh dày cui và bốc mùi như lốp xe. Teddy vẫn chỉ tay vào nó. “Đúng rồi,” anh nói. “Mang nó đến dây đi.” Cô chạm tay vào nó, lớp cao su dày như bình nước nóng. Cái gối đã xìu đi vì không khí chỉ lấp đầy một nửa. “Greta, em yêu... một điều cuối cùng. Hãy đè nó lên mặt anh. Anh không thể chịu đựng lâu hơn nữa đâu.”
Cô cầm cái gối lên, ôm nó vào ngực, mùi cao su lấp đầy cô. Cô không thể làm được. Đó là một kiểu ra đi mới kinh khủng làm sao, đè cái thứ cũ mèm hôi hám này, xóa đi hơi thở cuối cùng của chồng mình. Cô vuốt tay dọc viền gối cao su và tự nhủ, cái này còn tồi tệ hơn thứ đang giết chết anh. Không, cô không tài nào làm được, và cô ném cái gối qua cửa sổ. Cái gối đen xì như một con quạ bị thương rơi thẳng xuống hẻm núi Arroyo Seco bên dưới.
Teddy mấp máy môi, lưỡi anh thấp thoáng. Anh đang cố nói gì đó, nhưng không điều khiển nổi, và lại ngủ thiếp đi.
Greta tiến lại gần và lấy tay che lên miệng anh. Hơi thở giờ còn mỏng manh hơn một con bướm đang đập cánh. Khi màn đêm buông xuống, hành lang viện điều dưỡng trở nên vắng lặng. Mấy con chim giẻ cùi lam đáp xuống cây thông ponderosa trồng ngoài cửa sổ phòng Teddy, và Greta nắm lấy bàn tay ẩm ướt lạnh lẽo của anh ấy. Cô không nhìn anh nữa mà quay đầu hướng ra cửa sổ, trông về hẻm núi Arroyo Seco đã tối đen như mực. Dãy San Gabriel giờ trông chẳng khác gì những bóng đen mờ mờ, có thứ gì đó đen kịt và vô hình lan tỏa qua ngọn đồi nằm giữa những hẻm núi và vườn cam, chính là nơi dòng họ Waud đang sống, cũng là nơi Greta đã từng ngộp thở cho đến khi ra đi. Rồi khi cô rốt cuộc thở dốc và kéo tay áo chùi nước mắt, cô buông tay Teddy xuống. Cô lại đặt tay lên mũi anh một lần nữa, và sau đó, vào đêm ấy, cô biết Teddy Cross đã ra đi đúng như ý nguyện của anh.