Phần III - Mười chín Dresden, năm 1930
Con tàu chở Einar vừa tiến vào lãnh thổ Đức. Tàu dừng lại giữa một cánh đồng màu nâu với lóp đất mới cày xới đang lấp lánh ánh bạc trong sương giá. Bên ngoài, mặt trời yếu ớt treo trên bầu trời tháng giêng, hàng cây bạch dương bao quanh cánh đồng xào xạc trong gió. Tất cả những gì anh có thể thấy là cánh đồng trải dài và bầu trời xám xịt trên cao. Không có gì khác. Chẳng có gì ngoài một đầu máy kéo chạy bằng diesel bị bỏ lại ngoài đồng, ghế ngồi màu đỏ lay động trên lò xo.
Nhân viên tuần tra biên giói kiểm tra hộ chiếu ngay trên tàu. Einar nghe thấy giọng nói của những nhân viên từ mấy khoang kế bên, tiếng ủng dộng thình thịch trên thảm. Bọn họ nói chuyện rất nhanh nhưng có vẻ buồn chán. Một người phụ nữ cất giọng the thé giải thích giấy tờ, và một trong mấy nhân viên chỉ lặp lại, “Không, không, không được.”
Hai nhân viên đến khoang của Einar, và ngực anh lại đập rộn ràng như thực sự phạm phải lỗi gì. Hai người đều trẻ măng và cao ngòng, bộ đồng phục ôm sát vào ngực khiến Einar thấy như chúng được hồ bột quá mức. Gương mặt họ bóng loáng dưới vành mũ, bóng như nút đồng thau trên tay áo, và Einar đột nhiên nghĩ liệu có khi nào hai người trẻ tuổi này được làm từ đồng thau: cả người họ vàng óng, bóng loáng và lạnh lẽo. Trên người họ cũng toát mùi kim loại, có lẽ là từ kem cạo râu do nhà nước cung cấp. Một người cắn móng tay đến mức chỉ còn một mẩu, còn khớp ngón tay của người kia thì xây xát.
Ngay lập tức, Einar cảm thấy hai người hình thư thất vọng về anh - cứ như dù có chuyện gì xảy ra thì anh cũng chẳng có đủ khả năng gây ra rắc rối. Người có móng tay gặm nham nhở yêu cầu xem hộ chiếu của Einar; khi nhìn thấy đó là hộ chiếu Đan Mạch, anh ta lại càng thờ ơ hơn. Anh ta lật hộ chiếu ra, mắt liếc nhìn đồng nghiệp. Chẳng ai trong hai người, vẫn đang thở phì phò bằng miệng, buồn kiểm tra thông tin trên giấy tờ của Einar, hay nhìn vào tấm ảnh đã chụp ở phòng chụp ảnh cách Rundetarn chỉ vài bước chân từ lâu lắm rồi, để so sánh với gương mặt Einar hiện nay. Hai người chẳng hé răng dù chỉ một lời. Người thứ nhất ném hộ chiếu vào lòng Einar. Người thứ hai nhíu mắt nhìn Einar rồi vỗ vào bụng mình. Mấy hột nút trên tay áo rung lên, và Einar tưởng như tiếng chuông đồng vang lên. Rồi hai người đi mất.
Sau đó, con tàu tăng tốc lần nữa, và buổi chiều nhanh chóng vụt qua giữa mấy cánh đồng nước Đức, nơi những luống cải dầu sẽ sinh sôi mỗi độ xuân về, với màu hoa vàng tươi và mùi hương quyến rũ của kẻ đang kề cận cái chết.
Suốt thời gian còn lại trên tàu, Einar lạnh cóng. Greta đã hỏi liệu anh có muốn cô đi cùng hay không. Einar cho rằng mình đã làm cô tổn thương khi nói không. “Nhưng sao lại không?” cô thắc mắc. Hai người đang đứng trong phòng sinh hoạt chung ở căn hộ, và Einar không trả lời cô. Thật khó nói nên lời, nhưng anh nghĩ mình sẽ chẳng có can đảm trải qua chuyện đó nếu có Greta đi cùng. Cô sẽ khiến anh nhớ đến quá nhiều thứ về cuộc sống trước đây của hai người. Anh không ngừng tự nhủ, họ đã từng hạnh phúc biết bao. Einar và Greta đã yêu nhau say đắm. Nếu cô đi cùng, Einar sợ mình chẳng giữ lịch hẹn với Giáo sư Bolk. Thay vào đó, Einar có thể nói với Greta rằng hai người nên đổi tàu ở Frankfurt rồi xuôi về phía nam, quay về Menton, ánh mặt trời trống rỗng và biển cả ở đó sẽ khiến mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Khi thốt ra câu “Không cần, anh sẽ đi một mình,” anh thoáng ngửi thấy mùi của hàng cây chanh trồng trong công viên trước sòng bạc thành phố. Hay Einar cũng có thể nói rằng anh đang quay về Bluetooth; ở nơi đó, một gia đình khác đang sinh sống trong trang trại cạnh cánh đồng phủ đầy rêu nước. Anh có lẽ sẽ kéo Greta chạy trốn đến căn phòng thời niên thiếu có tấm chăn đắp bằng lông vũ bị nghiền dẹp lép và còn vá chằng vá đụp. Trong phòng, ngay cạnh giường anh là những đường nguệch ngoạc vẽ cảnh Hans và Einar ngủ trên tảng đá. Dưới chân bàn có lớp sơn bong tróc là nơi Einar thường trốn vào rồi nghe cha gào lên với bà nội: “Mang thêm trà trước khi con tắt thở.”
Trước khi Einar rời khỏi Paris, Carlisle hỏi liệu anh có biết mình đang dấn thân vào chuyện gì hay không. “Em có thực sự hiểu rõ Bolk muốn làm gì với mình không?” Sự thật là Einar cũng không rõ ràng lắm về chi tiết. Anh biết Bolk sẽ biến đổi mình, nhưng chính anh cũng không tài nào tưởng tượng được quá trình đó như thế nào. Anh chỉ biết sẽ có một loạt ca phẫu thuật. Bộ phận tượng trưng cho giới tính của anh, chính là cái thứ càng lúc càng giống một vật ký sinh vô dụng như hột mụn cơm, sẽ bị cắt bỏ. “Anh vẫn nghĩ, em nên đến gặp Buson,” Carlisle cố thuyết phục. Nhưng Einar đã lựa chọn kế hoạch của Greta. Giữa đêm khuya, khi trên thế gian này chẳng ai còn thức giấc ngoại trừ bọn họ, hai người nằm yên lặng dưới tấm chăn, da thịt hồng hồng cọ xát vào nhau, vậy anh chẳng biết tin ai nhiều hơn.
“Để em đi cùng anh nhé,” Greta cố gắng nài nỉ một lần cuối cùng, kéo tay anh đặt lên ngực cô. “Anh không nên trải qua những chuyện này một mình.”
“Nhưng anh chỉ làm được khi ở một mình. Nếu không thì...” anh ngập ngừng. “Anh sẽ xấu hổ chết mất.”
Và thế là Einar đi một mình. Ngồi trên tàu, anh nhìn thấy hình ảnh bản thân phản chiếu qua kính cửa sổ. Gương mặt tái nhợt với cánh mũi mỏng. Diện mạo ấy làm anh liên tưởng đến một tu sĩ lánh đời, không buồn ngước mặt nhìn qua cửa sổ trong căn nhà tồi tàn của mình suốt mấy năm trời.
Một phụ nữ đi cùng con nhỏ ném lại tờ báo Frankfurter Zeitung trên ghế phía bên kia Einar. Trên báo là lời cáo phó của người đàn ông kiếm được cả một gia tài với ngành xi măng. Báo còn đăng cả bức ảnh của người đó, với khuôn miệng trông thật sầu thảm. Có gì đó gây chú ý trên gương mặt anh ta - với chút mỡ lấp đầy cằm.
Einar dựa ra sau ghế ngồi và ngắm hình bóng mình trong cửa sổ. Khi trời tối đi nhanh chóng, hình bóng trở nên sẫm màu và góc cạnh hơn. Đến lúc chạng vạng, anh còn chẳng tài nào nhận ra gương mặt mình trong tấm kính. Sau đó hình bóng biến mất, và bên ngoài chẳng có gì ngoài ánh đèn lấp lánh từ đằng xa của một ngôi làng nuôi heo, còn Einar đang ngồi trong bóng tối.
Anh nghĩ hai người sẽ chẳng biết phải bắt đầu từ đâu nếu phải viết cáo phó cho anh. Greta chắc sẽ viết một bản nháp rồi tự tay đưa đến tòa báo. Có lẽ họ bắt đầu như thế, từ chỗ những nhà báo non nớt có mái tóc vàng hoa mỏng tang của tờ Nationaltidende. Họ sẽ lấy bản nháp của Greta rồi chỉnh sửa lại, đăng cáo phó rồi phát hiện mình mắc lỗi.
Einar cảm nhận con tàu đang kêu lạch cạch dưới chân, và anh nghĩ cáo phó của mình nên bắt đầu như thế này:
Anh được sinh ra trong vũng lầy. Một cô gái nhỏ sinh ra với hình hài con trai trong vũng lầy. Einar Wegener chưa từng kể với ai, nhưng ký ức đầu tiên của anh chính là ánh mặt trời rọi qua mấy cái lỗ nhỏ trên chiếc váy đầm bà nội anh đã mặc vào ngày hạ chí. Hai tay áo thụng có đục lỗ nhỏ đã với vào giường cũi bế anh lên. Và anh có thể hồi tưởng lại suy nghĩ - à mà không, không phải suy nghĩ, mà là cảm giác - rằng mấy hạt nắng trắng tinh của mùa hè sẽ bao bọc anh mãi mãi, như thể nó chính là một thành phần quan trọng khác: nước, ánh sáng và nhiệt lượng. Anh đang mặc áo choàng rửa tội. Viền ren được đan bởi mấy người dì thân thích với người mẹ đã mất rũ xuống quanh người. Viền ren rũ xuống tận bàn chân. Về sau, nó luôn khiến Einar nhớ đến tấm rèm ren treo trong nhà của mấy người quý tộc Đan Mạch; tấm vải thun màu xanh dương rũ xuống tận chân tường rồi xòe ra trên sàn lát ván sồi đen đã được một cô hầu gái gầy giơ xương đánh bóng bằng sáp ong. Trong biệt thự nơi Hans sinh ra cũng có những tấm rèm giống như vậy, và phu nhân nam tước Axgil sẽ tặc lưỡi - đúng là cái lưỡi mỏng nhất mà Einar từng thấy, lại còn giống như bị chẻ đôi - bất kỳ lúc nào anh, cô gái sinh ra trong hình hài con trai, tiến đến chạm vào chúng.
Cáo phó sẽ bỏ qua phần đó. Nó cũng chẳng đề cập đến cảnh Einar nốc bia Tuborg say bí tỉ rồi đứng tiểu xuống dòng kênh vào cái đêm anh bán được bức tranh đầu tiên. Lúc đó anh vẫn là một người đàn ông trẻ tuổi tại Copenhagen mặc chiếc quần vải tuýt bó quanh eo, thắt lưng được đục thêm một lỗ nữa bằng búa và đinh. Anh đang theo học tại Học viện Mỹ thuật Hoàng gia nhờ vào học bổng dành cho nam sinh đến từ nông thôn. Chẳng ai mong đợi anh vẽ được thứ gì nghiêm túc, mà chỉ cho rằng anh sẽ học một hai mánh lới về phối cảnh và vẽ cận cảnh, rồi quay về khu đầm lầy để vẽ mái ngói trên trụ sở thị trấn nằm ở phía bắc Jutland, hay vài cảnh tượng liên quan đến thần Odin của người Na Uy. Nhưng sau đó, vào một buổi chiều xuân sớm khi không khí còn đông đặc trong hai lá phổi, một người đàn ông mặc áo choàng không tay ghé qua học viện. Những bức họa của học viên treo đầy hành lang, khảm từ trên xuống dưới khắp mặt tường gần cầu thang ngoài trời có dãy lan can trắng toát. Đó là nơi mấy năm sau, Greta đã dùng tay ôm lấy mặt Einar rồi đem lòng yêu anh. Bức tranh vũng lầy tối đen của Einar cũng được treo trên đó, trong chiếc khung bằng vàng lá giả mà anh đã mua nhờ vào món tiền kiếm được từ việc nộp bài cho nghiên cứu y khoa tại bệnh viện Kommunehospitalet.
Người đàn ông mặc áo choàng không tay nói rất nhỏ, và khắp hành lang đều lan truyền tin đồn ông ta là một nhà buôn tranh đến từ Paris. Ông ta đang đội một chiếc mũ rộng vành viền da, nên đám học viên chẳng tài nào thấy rõ đôi mắt ông. Một hàng ria mép vàng hoe nho nhỏ uốn quanh miệng, còn mùi mực in thoang thoảng phía sau ông ta mới giống hệt mùi khí thải xe cộ làm sao. Quản lý tạm thời của học viện, Herr Rump, không ai khác ngoài gã hậu duệ bất tài của Herr G. Rump, tự giới thiệu bản thân với người đàn ông lạ mặt. Rump tháp tùng ông ta tham quan hành lang với sàn nhà xám xịt đầy cáu bẩn được quét dọn bởi mấy cô bé mồ côi chưa đủ tuổi lấy chồng. Rump cố gắng khiến người lạ mặt dừng chân trước mấy bức tranh của những học viên mà ông ta cưng nhất, mấy cô gái có mái tóc dợn sóng và bộ ngực quả táo đầy vênh váo cùng vài chàng trai với cặp đùi giống thịt giăm bông. Nhưng người đàn ông mặc áo choàng tự nhận, mặc dù chẳng ai có thể xác thực, “Tôi có vị giác tinh tường về tài năng,” vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi mấy đề nghị của Rump. Người lạ mặt gật gù trước bức tranh vẽ con chuột và khối pho mát của Gertrude Grubble, một cô gái có hàng lông mày vàng vọt và bồng bềnh như thể chim hoàng yến vừa rũ hai chiếc lông lên mặt cô. Ông ta cũng dừng chân bên bức tranh người phụ nữ bán cá hồi của Sophus Brandes, cậu bé có cha bị giết chết chỉ sau một cú liếc mắt trêu chọc cô vợ nhỏ tuổi của gã sát nhân trên chuyến phà đến Nga. Và sau đó người đàn ông mặc áo choàng dừng lại trước bức tranh nhỏ xíu của Einar vẽ cảnh đầm lầy tối đen. Bức tranh tả cảnh đêm, hàng sồi và liễu chỉ là những cái bóng, mặt đất tối đen và nhớp nháp như dầu. Bên góc tranh, cạnh tảng đá lốm đốm tinh thể mica là một chú chó nhỏ lông trắng muốt đang ngủ trong giá lạnh. Mới ngày hôm trước, Herr Rump phê phán rằng nó “quá u tối với một ngôi trường ở Đan Mạch” nên đã treo nó tại vị trí kém lý tưởng trên tường, cạnh phòng chứa đồ, nơi mấy cô gái mồ côi hay để chổi cỏ và thay những chiếc váy kiểu tạp dề không tay mà Herr Rump khăng khăng bắt họ phải mặc.
“Bức này được đấy,” người đàn ông khen ngợi, sau đó ông vói tay vào trong áo choàng và lôi ra một chiếc ví - một lần nữa, đây chỉ là tin đồn - làm từ da thằn lằn. “Tên tác giả là gì?” ông ta hỏi.
“Einar Wegener,” Herr Rump trả lời. Gương mặt ông ta nóng bừng vì giận dữ. Người lạ mặt trao cho ông một trăm đồng Kroner. Người đàn ông mặc áo choàng tháo bức tranh ra khỏi tường, và sau đó tất cả mọi người tại học viện - bao gồm Herr Rump, tất cả học viên đang nhìn trộm từ kẽ hở trên cửa lớp học, những người quản lý với nút áo trên cùng được cài chặt, mấy cô gái mồ côi đang len lén lập mưu, vốn sẽ thất bại, đẩy Herr Rump xuống từ cửa sổ học viện, và cuối cùng là Einar Wegener, người đang đứng trên cầu thang, tại đúng nơi Greta sẽ hôn anh sau này - phải kinh ngạc. Sự việc diễn ra đặc biệt đến mức toàn bộ học viện, từng thành viên, dù có phải họa sĩ hay không, phải đồng loạt chớp mắt, và khẽ lắc đầu. Và khi họ cùng mở mắt, mặt trời đã chiếu lên mấy ngọn tháp nhọn ở Copenhagen và rọi qua cửa sổ lắp kính của học viện. Còn người đàn ông mặc áo choàng không tay đã biến đi đâu mất.
Cáo phó cũng sẽ bỏ qua ngày hôm đó. Nó cũng sẽ không đề cập đến buổi chiều tháng tám với Greta. Đó là thời điểm trước khi hai người kết hôn, ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Greta vừa quay lại Copenhagen được một tháng. Cô đứng trước cửa văn phòng anh, trên đầu đội một chiếc mũ rơm đính hoa thược dược. Khi anh mở cửa, cô reo lên: “Tình cờ chưa!”. Hai người đã không gặp nhau từ lúc cô quay về California lúc chiến tranh bùng nổ. Einar hỏi, “Có gì mới không?” và cô chỉ nhún vai rồi hỏi lại, “Ở đây hay ở California?”
Cô kéo anh ra khỏi học viện, tiến vào quảng trường Kongens Nytorv nơi xe cộ đang nối đuôi vòng quanh bức tượng vua Christian V trên lưng ngựa. Trước cửa Nhà hát Hoàng gia là một người lính Đức cụt chân; chiếc mũ bạc đặt trên thềm đựng tiền xu. Greta nắm tay Einar. Cô kêu lên, “Ôi”, để lại tiền rồi hỏi tên người lính, nhưng có vẻ thần kinh anh ta bị chấn động đến mức không tài nào hiểu kịp lời cô nói.
“Em không nhận ra,” cô nói khi tiếp tục sóng bước cùng Einar. “Ở California, mọi thứ thật là xa vời.”
Họ băng qua góc công viên Kongens Have, nơi có hàng cây xanh cần được cắt tỉa, bọn trẻ con đang bỏ xa cha mẹ, và trên thảm cỏ là vài cặp tình nhân trẻ tuổi đang nằm trên những tấm chăn carô, ước mong toàn bộ thế giới hãy biến đi, để họ có chút riêng tư. Greta không nói rõ hai người đang đi đâu, và Einar cũng biết mình không nên hỏi. Ngày hôm nay sáng sủa và ấm áp, nên dãy cửa sổ dọc phố Kronprinsessegade đều mở toang, tấm màn mùa hè đục lỗ bay phất phơ. Một chiếc xe chở hàng băng qua, và Greta níu lấy tay Einar. Cô bảo, “Đừng nói gì cả.”
Nhưng tim Einar đập thình thịch vì cô gái trẻ từng hôn anh trên cầu thang học viện lại tiến vào cuộc đời anh một lần nữa, nhanh nhẹn như lúc cô ra đi năm năm trước. Suốt năm năm đó, thỉnh thoảng anh lại nhớ đến Greta như hồi tưởng lại một giấc mơ vừa khủng khiếp vừa tuyệt vời. Suốt thời chiến tranh, anh mơ về cuộc sống của cô tại California. Thế nhưng hình ảnh cô lượn quanh hành lang học viện, với cọ vẽ kẹp dưới tay, đầu bịt kim loại phản chiếu ánh sáng, cũng là thứ tồn tại trong tâm trí anh suốt quãng thời gian đó. Cô là học viên bận rộn nhất mà anh từng biết, trốn tiệc khiêu vũ và múa ballet nhưng luôn sẵn sàng làm việc, ngay giữa đêm khuya, khi người khác đều nốc rượu aquavit rồi ngủ say. Khi nghĩ đến hình tượng phụ nữ lý tưởng, anh lại càng nhớ đến Greta. Cao hơn phần còn lại của thế giới, lại nhanh nhẹn hơn. Anh nhớ đến một ngày nọ, khi nhấc đầu ra khỏi bàn làm việc trong văn phòng tại học viện, từ cửa sổ, anh nhìn thấy bóng dáng cô băng qua giữa làn xe cộ bấm còi inh ỏi quanh quảng trường Kongens Nytorv. Tà váy xanh xám của cô như vạch ra một con đường ngang qua những lưới tản nhiệt và thanh hãm xung của xe ngựa cùng với ôtô và mấy gã tài xế đang bóp phần núm còi xe bằng cao su. Sau đó, anh còn thấy cô xua tay trong không khí rồi gào lên, “Ai thèm quan tâm chứ?”. Đúng là Greta chẳng quan tâm đến thứ gì ngoài những chuyện có ý nghĩa với cô. Từ lúc trưởng thành, Einar càng ngày càng im lặng và cô đơn hơn bên khung vải bạt, đến khi tin chắc rằng mình là một người đàn ông không biết thuộc về nơi nào, anh bắt đầu nghĩ đến hình tượng người phụ nữ lý tưởng. Người đó chính là Greta.
Sau đó, cô xuất hiện tại văn phòng anh vào một chiều tháng tám ấm áp, và lúc này cô đang dẫn anh đi khắp phố phường Copenhagen, len lỏi dưới dãy cửa sổ phòng khách mở rộng dọc phố Kronsprincessegade. Bước ngang qua đó, họ nghe được tiếng hò hét của bọn trẻ sẵn sàng cho kỳ nghỉ hè ở biển Bắc Hải, và tiếng chó kêu ăng ẳng sẵn sàng duỗi căng những đôi chân bé xíu của chúng.
Khi hai người ra đến đường lớn, Greta bảo, “Nhớ cúi thấp đầu nhé.” Anh chẳng hiểu cô nói gì, nhưng cô nắm chặt tay anh, và họ nấp sau mấy chiếc ôtô đang đậu để đi xuống phố. Tối qua trời vừa mới mưa nên lề đường vẫn còn ẩm ướt. Mặt trời chiếu thẳng lên mấy cái lốp xe hăng hắc ướt nhẹp, làm mùi cao su đốt nóng xộc lên mũi anh. Đó là thứ mùi làm anh nhớ đến quãng thời gian dạo quanh Paris với Carlisle suốt mùa hè khi họ - tất cả bọn họ - đang hoạch định tương lai của Lili. Greta dắt anh luồn qua hết chiếc xe này đến chiếc xe khác, như thể hai người đang né bom đạn của kẻ thù. Họ xuyên qua những dãy nhà như thế này, men theo dãy nhà tại Copenhagen là nơi sống của Herr Janssen, chủ một hãng sản xuất găng tay vừa xảy ra một vụ hỏa hoạn khiến bốn mươi bảy phụ nữ co ro chết thảm bên chuỗi máy đạp chân. Sau đó họ rẽ xuống dãy nhà của bá tước phu nhân Haxen, lúc đó đã tám mươi tám tuổi và sở hữu bộ sưu tập tách trà đồ sộ nhất Bắc Âu. Bộ sưu tập ấy phong phú đến mức bà cũng chẳng tiếc khi ném một chiếc tách vào tường trong cơn giận dỗi. Rồi họ đi dọc dãy nhà nơi gia đình Hansens đang sống với cặp con gái sinh đôi, hai đứa đều có mái tóc vàng hoe tuyệt đẹp y chang nhau, khiến cha mẹ chúng luôn phập phồng lo lắng vì nạn bắt cóc trẻ em. Tiếp đó, họ lại hướng đến căn nhà trắng toát có cánh cửa màu xanh, cùng bồn hoa cạnh cửa sổ trồng đầy hoa phong lữ đỏ thắm như máu gà đang tỏa hương thơm mang chút chua cay, nồng nàn và phảng phất sự tục tằn sang tận bên kia đường. Đó là nơi cha Greta đã sống trong thời chiến, và bây giờ mọi thứ đã qua đi, ông đang quay về Pasadena.
Từ sau mui chiếc xe Labourdette Skiff, Greta và Einar quan sát những người đàn ông hối hả chuyển thùng hàng xuống bậc thang rồi tống vào khoang chứa trên xe tải đang chờ sẵn. Cả hai có thể ngửi thấy hương hoa phong lữ, mùi rơm rạ lót hàng và mùi mồ hôi toát ra từ mấy người đàn ông đang nhấc cái thùng chứa giường gắn màn trướng của cô. “Cha em đang chuyển đi,” Greta nói.
“Còn em?”
“Ồ không. Em sẽ ở đây một mình. Anh không thấy sao?”
“Thấy gì cơ?”
“Cuối cùng em cũng tự do.”
Nhưng Einar không thấy thế, lúc đó vẫn chưa. Anh không thấy Greta cần phải ở lại Đan Mạch một thân một mình, không người thân thích tại châu Âu, chỉ để trở thành người phụ nữ mà cô mong muốn. Cô cần một đại dương và một lục địa chặn giữa bản thân mình và gia đình để cảm thấy được hít thở. Lúc đó, Einar không hiểu được rằng chuyện này cũng chỉ là một dạng tính cách dày dạn từ dân Mỹ của Greta. Chính là cảm giác sôi sục khi cần được đi đây đi đó và sáng tạo từ đầu. Anh còn chưa từng tưởng tượng ra bản thân mình có thể làm ra một việc tương tự như thế.
Và đây là một phần khác trong cuộc đời anh mà cáo phó viết trên tờ Nationaltidende sẽ bỏ qua. Họ chẳng biết tìm đâu ra chuyện này. Và như phần lớn các nhà báo khác, mấy tay phóng viên non nớt với mái tóc mỏng dính sẽ chẳng buồn kiểm tra nguồn thông tin cẩn thận. Thời gian sắp hết.
Einar Wegener đang biến mất. Chỉ có Greta là người duy nhất nhớ đến cuộc đời anh đã sống.
Bản cáo phó không bao giờ được viết lẽ ra phải thêm phần này vào nữa:
Một ngày cuối hè nọ, Lili thức giấc trong phòng mình ở căn hộ và cảm thấy nóng bức không chịu nổi. Lúc đó là tháng tám. Lần đầu tiên sau khi kết hôn, Greta và Einar quyết định không đi nghỉ mát ở Menton. Phần lớn là vì tình trạng sức khỏe suy yếu của anh. Chảy máu. Sút cân. Đôi mắt hõm sâu vào hai hốc mắt. Và thỉnh thoảng anh còn không thể giữ đầu mình thẳng trên bàn. Không ai biết nên làm gì. Không ai biết Einar muốn được làm gì. Lúc Lili tỉnh giấc vào buổi sáng oi bức ấy, khí thải từ xe tải chuyển hàng cho cửa hàng thịt ở góc phố vẫn đang không ngừng len qua cửa sổ mở toang và phủ lên mặt cô một lớp bụi bẩn. Cô nằm trên giường rồi tự hỏi hôm nay mình có ngồi dậy được hay không. Và buổi sáng cứ thế trôi qua, cô hết nhìn chằm chằm vào chỗ vữa trát tường bị phồng rộp trên trần nhà, lại dán mắt lên mấy cánh hoa trắng nằm giữa đế đèn chùm.
Sau đó cô nghe thấy vài giọng nói trong phòng khách. Một người đàn ông, và thêm một người thứ hai. Hans và Carlisle. Cô nghe tiếng hai người trò chuyện với Greta, nhưng vì chẳng hề thấy Greta nói gì, nên giống như hai người đàn ông nói hết chuyện này tới chuyện khác. Chất giọng khàn khàn của họ khiến Lili liên tưởng đến hàng râu trên cổ ba ngày chưa cạo. Lili chắc là lại ngủ thiếp đi, vì sau đó cô nhận ra mặt trời đang chiếu vào phòng từ hướng khác. Lúc này ánh nắng đang hắt từ mái nhà bằng đồng xanh bên kia đường, nơi có một con đại bàng đang làm tổ, nhưng Hans và Carlisle vẫn còn trò chuyện. Và sau đó, họ xuất hiện trước cửa, rồi bước vào phòng. Lili từ lâu đã muốn lắp một ổ khóa trên cửa phòng nhưng chưa làm được. Cô nhìn hai người tiến vào, cảnh tượng như diễn ra trong ký ức chứ không phải hiện thực. Hai người đồng thanh bảo, “Thôi nào. Dậy đi.” Họ tiếp lời, “Lili bé bỏng.” Cô cảm thấy hai người kéo cánh tay cô; một lần nữa, cảm giác bị kéo tay như diễn ra trong ký ức chứ không phải hiện thực. Một trong hai người nâng ly sữa lên miệng cô. Người còn lại tròng chiếc áo đầm qua đầu cô. Họ dắt cô đến bên tủ quần áo màu xám tro để tìm một đôi giày, và cô chạm phải tia nắng khiến làn da muốn bốc cháy. Ây vậy mà Hans và Carlisle cảm nhận được, và họ tìm ra một tán dù che nắng, làm bằng giấy với khung tre, rồi nhanh chóng giương nó lên.
Bằng cách nào đó, hai người đưa cô đến công viên Tuileries. Rồi họ đi dạo cùng nhau, khuỷu tay Lili khoác vào tay từng người. Họ bước đến dưới hàng cây dương. Lili nghĩ bóng cây lay động trông thật là giống với đàn cá khổng lồ sắp hiện ra trên mặt biển. Hans kéo ra ba chiếc ghế gấp, và họ ngồi bên nhau suốt buổi chiều khi bọn trẻ chạy qua chạy lại, vài đôi tình nhân trẻ tuổi tản bộ còn những gã đàn ông cô đơn với đôi mắt hấp háy tiến về phía bên kia công viên, gần bảo tàng nghệ thuật L’Orangerie. Lili nhớ đến lần cuối cùng cô đến công viên đi dạo một mình, chỉ vài tuần trước, có hai cậu bé chạy qua cô, rồi một cậu kêu lên: “Đồ đồng tính.” Hai cậu bé chỉ khoảng chín mười tuổi, mái tóc vàng óng úp vào hai má, và quần short của chúng để lộ gần hết cặp đùi nhẵn nhụi. Ây vậy mà hai cậu bé xinh đẹp này lại ném ra những lời nói thật ác độc và sai trái.
Lili ngồi cạnh Hans và Carlisle. Cô cảm thấy nóng ran trong bộ váy đầm họ chọn giúp mình: một chiếc váy tay lở in họa tiết vỏ ốc xà cừ mang về từ căn hộ thuê ở Menton. Cô biết cuộc sống của mình với Einar đã kết thúc. Câu hỏi duy nhất còn lại là liệu cô có nên sống một cuộc đời với tư cách là Lili. Hay tất cả sẽ chấm dứt, và cô cũng yên nghỉ? Liệu Einar và Lili có ra đi cùng nhau, tay trong tay? Hóa thành bộ xương chôn dưới vũng lầy.
Và Einar biết cáo phó cũng bỏ mất phần trên. Nó sẽ nhắc đến bất kỳ chuyện gì ngoại trừ cuộc đời anh đã sống. Và sau đó, chuyển động của con tàu chậm dần. Rồi anh mở mắt và nhân viên phục vụ toa tàu hét lên: “Dresden! Dresden!”