Hai mươi mốt
Einar trả cho tài xế năm đồng Reichsmark và sau đó chiếc taxi lăn bánh. Đèn pha quét ngang cành đỗ quyên mùa đông trụi lá rồi hắt xuống mặt đường. Khúc cua vòng cung tối om, ngoại trừ ánh sáng phát ra từ chiếc đèn lồng treo trên cửa. Einar thấy rõ hơi thở của mình và cảm nhận cái lạnh đang thấm vào chân. Bên cạnh cửa chính là một nút cao su màu đen và Einar đã chần chừ một lúc trước khi bấm vào nó. Hơi nước đọng lên hàng chữ gắn trên bảng hiệu bằng đồng. Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố Dresden. Tấm bảng thứ hai đề tên những bác sĩ của phòng khám. Bác sĩ Jurgen Wilder, Bác sĩ Peter Scheunemann, Bác sĩ Karl Scherres, Giáo sư Bác sĩ Alfred Bolk.
Einar bấm chuông và đợi. Anh chẳng nghe thấy gì từ bên trong. Theo như anh thấy, phòng khám trông không khác gì một biệt thự hạng sang, tọa lạc giữa khu vườn trồng toàn cây đoạn, cây bạch dương và hàng rào có đầu nhọn như mũi giáo. Có tiếng động vật phát ra dưới bụi rậm, hình như là con mèo hay con chuột nào đấy đang đào hang chống rét. Bức màn sương mù đang phủ xuống, và Einar gần như
quên mất mình đang ở đâu. Anh tựa trán vào bảng hiệu bằng đồng và nhắm mắt lại.
Anh bấm chuông lần nữa. Lần này anh lại nghe thấy tiếng mở cửa bên trong, rồi một giọng nói nghe như tiếng con vật dưới bụi cây.
Rốt cuộc cửa cũng mở, một người phụ nữ trong chiếc váy xám hết sức tiết kiệm vải, dây đeo váy ép sát vào ngực, nhìn chằm chằm vào anh. Mái tóc bà màu bạc, ngắn ngang cằm, cặp mắt cũng mang màu xám. Bà ta trông như thiếu ngủ, như thể lớp da dưới cổ tạo thành cái gối để giữ đầu bà luôn thẳng đứng trong khi cả thế giới được nghỉ ngơi.
“Vâng?”, bà cất tiếng.
“Tôi là Einar Wegener.”
“Ai cơ?”
“Tôi đến đây để gặp Giáo sư Bolk,” Einar trả lời.
Bà ta siết tay mình vào nếp xếp li trên váy. “Giáo Sư Bolk ư?” Bà thắc mắc.
“Ông ấy có đây không?”
“Cậu phải gọi lại vào sáng mai rồi.”
“Sáng mai sao?” Anh cảm nhận như có gì đó khép lại xung quanh mình.
“Vậy cậu tưởng bạn gái cậu ở đây à?” Bà ấy hỏi lại. “Chẳng phải đó là lý do cậu tới đây hay sao?”
“Tôi không chắc mình hiểu được bà muốn nói gì,” Einar đáp. Anh cảm nhận được ánh mắt của bà ta xoáy vào mình, trên cái túi xách đựng quần áo của Lili.
“Bà có phòng nào cho tôi ở lại không?” Einar tiếp tục dò hỏi.
“Nhưng đây là Phòng khám Phụ Nữ.”
“Vâng, tôi biết chứ.”
Anh quay lưng lại rồi đi tới con đường tối om. Đến đó, anh đứng đợi dưới góc đường được chiếu sáng bởi chiếc đèn hình chóp treo trên đường dây điện mắc ngang giao lộ. Cuối cùng một chiếc taxi dừng lại, và thời điểm anh sắp xếp xong đồ đạc tại khách sạn Horitzisch ngay gần ga Haupthbahnhof, quận Altstadth, chạng vạng đã trôi qua từ lâu và bình mình đang tới. Bốn bức tường của khách sạn Horitzisch được dán giấy có họa tiết lưới mắt cáo. Tường mỏng như giấy, đủ để nhìn thấy các loại giao dịch của gái làng chơi ở phòng bên cạnh. Vào buổi đêm, Einar đặt bộ quần áo lên tấm ga giường nhồi lông vịt. Anh nghe thấy tiếng tàu đang vào ga, bánh xe kêu lên rin rít trên đường ray. Vài giờ trước ngay tại ga tàu, bên dưới mái hiên bằng kính đen, một người phụ nữ mặc áo khoác lông thỏ đã hỏi anh có muốn đưa cô về nhà hay không, và giờ chỉ cần nghĩ đến cô gái đó, mặt anh lại nóng lên vì hổ thẹn. Giọng cô, và giọng của vài cô gái làng chơi phòng kế bên, ùa vào tâm trí Einar, thêm vào đó là hình ảnh khuôn miệng thoa son và đường xẻ trên mấy chiếc váy mỏng tang. Sau đó Einar nhắm mắt lại và cảm thấy bắt đầu hoảng sợ thay cho Lili.
Khi anh quay lại phòng khám vào ngày hôm sau, Giáo sư Bolk vẫn chưa thể gặp được anh. “Ông ấy sẽ gọi cho cậu,” Bà Frau Krebs nói, trên người vẫn mặc chiếc váy xám của ngày hôm qua. Khi nghe vậy, Einar, lúc ấy đang đứng trên lối vào phòng khám ngay dưới chiếc đèn lồng, bắt đầu rơi nước mắt. Ngày hôm đó chẳng hề ấm áp hơn đêm hôm trước tí nào và anh bắt đầu run lập cập khi nghe tiếng sỏi đá ven đường lộp cộp dưới chân mình. Chẳng còn việc gì khác để làm, nên anh bắt đầu lang thang quanh thành phố, vừa đói bụng vừa buồn nôn.
Khu chợ Altmarkt và những quầy hàng dường như rất tấp nập trong gió lạnh, quầy hàng của tiệm thuốc Hermann Roche tràn đầy những nhân viên ngân hàng đang trong giờ nghỉ trưa. Những tòa nhà phủ một lớp muội đen hơn cả bầu trời, trên mái hiên có viết tên của các cửa hàng vốn sở hữu hàng loạt máy đếm tiền có khung bằng đồng bị bỏ không giữa những tháng ngày suy thoái: CARL SCHNEIDER, MARIEN APOTHEKE, SEIDENHAUS, RENNER KAUFHAUS, và HERMANN ROCHE DROGERIE. Những chiếc xe ôtô đậu tại trung tâm quảng trường và có hai cậu nhóc đội mũ vải tuýt, mặc quần chẽn gối, cẳng chân xanh xao nứt nẻ đang điều phối bãi đậu xe. Một người phụ nữ có mái tóc xoăn búi cao vừa bước xuống chiếc sedan có cửa kiểu Hà Lan, bà ta cố ních chiếc váy xanh căng cứng vào người, cái bụng của bà như đang thử thách sức căng của những sợi chỉ cố định chiếc nút trên áo. Hai cậu nhóc lái chiếc xe vào một chỗ hẹp, và chúng phá lên cười, đi lạch bạch, chế giễu bà ta, người đang thoa lại son môi một cách qua loa.
Cậu nhóc nhỏ hơn nhìn lên và thấy Einar, rồi lại tiếp tục cười. Hai cậu nhóc nhìn giống như anh em ruột, với mũi nhọn và tiếng cười tàn ác như nhau. Einar nhận ra hai cậu nhóc này không còn chế giễu người phụ nữ béo vừa băng qua dòng xe cộ, bước qua đường ray xe điện rồi tiến thẳng đến cửa hiệu thuốc Hermann Roche đang có chương trình giảm giá cho nước súc miệng Odol và sáp thơm cho tóc Schuppen. Hai cậu nhóc đang cười Einar, người có gương mặt hốc hác và khoác áo choàng phủ dài xuống chân. Qua tấm gương, Einar nhìn thấy người phụ nữ mập mạp đang chọn những chai nước súc miệng Odol. Anh ước mình được như bà ta, xem giá trên chồng chai lọ rồi ném một hộp sáp Schupper vào giỏ hàng của mình. Einar tưởng tượng cảnh người phụ nữ sẽ lái chiếc sedan về nhà ở Loschwitz, rồi đặt tất cả vật dụng trong phòng tắm vào ngăn tủ gắn trên bồn rửa của chồng mình.
Anh tiếp tục đi dạo quanh thành phố, nhìn qua cửa sổ vài cửa hàng. Một hàng dài phụ nữ đang xếp hàng trước cửa hàng mũ đang giảm giá. Quầy hàng tạp hóa thì đang sắp xếp những giỏ cải bắp. Và Einar dừng lại trước cửa sổ cửa hàng bán diều. Bên trong cửa hàng, người đàn ông mang kính trên chóp mũi đang uốn cong những que gỗ trên bàn chế tác. Xung quanh ông bày biện đủ loại diều. Có diều hình bươm bướm nhìn tựa cái chong chóng. Diều hình rồng và vài chiếc diều trên cánh có đính thêm mảnh giấy bạc nhìn giống như cá chuồn. Còn có diều hình đại bàng, và một chiếc diều nhỏ xíu màu đen gắn cặp mắt lồ lộ màu vàng như mắt dơi.
Einar đến phòng vé của nhà hát Semperoper và mua một vé xem vở kịch Fidelio. Anh biết rằng những người đồng tính thường tụ họp tại nhà hát opera này, và anh sợ người phụ nữ ngồi sau tấm kính bị hơi thở làm mờ sẽ cho rằng anh là một trong số đó. Cô ấy trẻ đẹp với đôi mắt xanh lục, từ chối nhìn Einar, thận trọng nhận lấy tiền của anh qua khe trống trên cửa sổ như thể cô không chắc mình có muốn nhận tiền hay không. Thêm một lần nữa, Einar cảm thấy mệt nhoài vì cả thế giới đều không hiểu gì về con người anh.
Sau đó Einar leo hết bốn mươi mốt bậc thang dẫn lên Lầu Brủhlsche hướng ra dòng Elbe và bờ hữu của sông.
Lầu ngắm cảnh được trang trí với hàng cây xanh cắt tỉa gọn gàng và được bao bọc bởi chấn song bằng sắt, nơi khách tản bộ thường tựa vào để ngắm hình vòng cung trải dài vô tận của con sông Elbe. Gió thổi theo hướng chảy của dòng sông, làm Einar phải bẻ cổ áo mình lên. Một người đàn ông đứng cạnh chiếc xe hàng đang bán món xúc xích Đức kèm theo những ly rượu bé tí. Ông ta đưa thức ăn cho Einar rồi rót cho anh một ít rượu táo. Einar đặt ly rượu lên đầu gối trong khi đang thưởng thức món xúc xích đang bốc khói, phần da tại hai đầu xúc xích vừa chắc lại vừa giòn tan. Sau đó anh làm một hớp rượu và nhắm mắt lại. “Anh biết người ta gọi nơi là gì không?” Người bán hàng rong hỏi.
“Là gì?”
“Lầu Brủhlsche. Người ta thường gọi là lầu ngắm cảnh của châu Âu.” Ông ta nhoẻn miệng cười, để lộ ra vài chiếc răng sún. Ông đang đợi Einar uống hết để lấy lại ly rượu. Từ Lầu Brủhlsche, nhìn qua bên kia sông là thấy được tòa nhà hình cánh cung của Lâu Đài Nhật Bản, xa hơn nữa là những mái nhà hình mắt bò ở thị trấn Neustadt cùng dãy biệt thự với khu vườn rợp bóng cây xanh, rồi tận cùng là bang Saxony với đồng ruộng bạt ngàn. Nhìn từ Lầu Brủhlsche, dường như cả thế giới đều phủ phục dưới chân Einar và chờ đợi.
“Bao nhiêu tiền vậy?” Einar hỏi.
“Năm mươi xu.” Dòng sông xám xịt dập dềnh chảy, và Einar đưa cho người bán rong vài đồng xu làm bằng hợp kim đồng nhôm.
Anh dốc hết phần rượu còn lại, trả ly cho người bán hàng; ông ta kéo góc áo lau sạch ly. “Chúc anh ngày mới tốt lành”, người bán hàng nói và đẩy xe đi chỗ khác. Einar nhìn theo bóng ông ấy, phía sau là mặt tiền mấy tòa nhà xây bằng đá vàng và vài mái nhà bằng đồng màu xanh ở Dresden. Những tòa nhà cổ mang phong cách xa hoa này, như tòa nhà Albertinum, nhà thờ mái vòm Frauenkirche, bảo tàng Grunes Gewolbe cùng với khu buôn bán tao nhã trước nhà hát opera, khiến Dresden trở thành một trong những thành phố đẹp nhất mà Einar từng chiêm ngưỡng. Giờ đây, chúng tạo thành quang cảnh tuyệt đẹp hiện lên từ phía sau người đàn ông nhỏ thó và chiếc xe đẩy. Bầu trời phía trên thành phố như tấm thiếc đang bị giông bão nện vào. Einar vừa lạnh vừa mệt. Lúc đứng dậy rời khỏi Lầu Bruhlsche, anh cảm nhận loáng thoáng rằng quá khứ đã thay đổi dưới chân anh.
Hai ngày lại trôi qua, trước khi Giáo sư Bolk gửi lời đồng ý gặp Einar. Anh đã quay lại Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố vào một buổi sáng đẹp trời, mặt đường ẩm ướt và sáng lấp lánh. Vào ban ngày, phòng khám nhìn rộng rãi hơn hẳn, căn biệt thự màu kem với những cửa sổ hình vòm cung đều tăm tắp, đồng hồ được treo ngay dưới mái hiên. Tòa nhà tọa lạc giữa khu vườn nhỏ bao quanh bởi cây sồi, cây bạch dương, cây liễu và cây nhựa ruồi.
Bà Frau Krebs mời anh vào, dẫn anh đi dọc hành lang lát gỗ gụ đen được đánh bóng mờ mờ. Dọc hành lang là nhiều cánh cửa; Einar ngước mắt lên nhìn vào từng phòng, rồi lại thấy xấu hổ vì sự tò mò của mình. Phía bên kia hành lang, mỗi phòng đều được chiếu sáng bởi cửa mái kính, hai giường đơn đặt cạnh hai bên cửa sổ, nệm giường nhồi lông vịt căng phồng như những túi bột.
“Các cô gái đang ở phòng đón nắng Wintergarten đấy,” bà Frau Krebs lên tiếng. Trên cổ bà, ngay dưới chân tóc là vết bớt nhìn như vệt bẩn từ lọ mứt phúc bồn tử bị đổ.
Bà Frau Krebs vừa dẫn đường cho Einar vừa nói, phòng khám có ba mươi sáu giường. Trên lầu là khoa Ngoại, khoa Nội và khoa Sản. Phía bên kia sân, theo hướng bà chỉ tay, là một tòa nhà có biển hiệu gắn trên cửa ghi rõ khoa Bệnh Lý.
“Tòa nhà bệnh lý này mới được nâng cấp lại,” bà Frau Krebs nói với vẻ tự hào. “Đây là nơi Giáo sư Bolk nghiên cứu”. Tòa nhà hình vuông và được đắp nổi vữa trang trí màu vàng, khiến Einar nhớ đến - sau đó anh cứ thấy xấu hổ vì đã nghĩ vậy - vết sẹo thủy đậu trên mặt Greta.
Lần đầu gặp gỡ giữa Einar và giáo sư Bolk cực kỳ ngắn ngủi. “Tôi đã gặp vợ anh.” Ông bắt đầu trò chuyện.
Einar ngồi lên bàn khám bệnh, anh cảm thấy nóng nực dưới bộ comple và chiếc áo sơ mi cổ bướm hồ bột đang siết quanh cổ. Bà Frau Krebs bước vào phòng, đôi giày đen kêu lên kin kít, rồi giao cho giáo sư một tập hồ sơ. Ông đeo kính gọng vàng. Gọng kính phản chiếu ánh sáng trên trần và giấu đi màu mắt ông. Ông cao và trẻ hơn Einar tưởng tượng, hình dáng cằm tuyệt đẹp. Einar đã hiểu tại sao Greta lại thích ông ta: đôi tay ông ấy không chịu để yên, quả táo Adam trên cổ rất thanh tú, lúc ông ấy nói chuyện, Einar suýt nữa thì bị thôi miên bởi bàn tay chuyển động như cánh chim khi đang bay rồi đáp xuống góc bàn làm việc có đặt ba thùng gỗ phân loại giấy tờ, đấy là còn chưa kể đến cách quả táo Adam cứ chuyển động khi ngắt câu, giống hệt cái mỏ bền bỉ của loài chim gõ kiến.
Giáo sư Bolk yêu cầu Einar cởi quần áo và đứng trên bàn cân. Ống nghe áp lên ngực anh lạnh toát. “Tôi biết anh là một họa sĩ.” Giáo sư Bolk cất tiếng, rồi tiếp tục, “Anh Weneger, anh gầy quá.”
“Tôi không thèm ăn lắm.”
“Vì sao không?” Giáo sư Bolk kéo cây bút chì từ vành tai và ghi nhận trong hồ sơ.
“Tôi không biết.”
“Anh có cố gắng ăn uống không? Thậm khí khi anh không cảm thấy đói?”
“Thỉnh thoảng tôi lại thấy khó ăn.” Einar trả lời. Anh nghĩ đến cảm giác buồn nôn vào năm ngoái; thức giấc dưới ánh nắng trong căn hộ với dạ dày khó chịu giống như cái đêm trước khi phải chịu đựng lần chụp x-quang với bác sĩ Hexler. Anh cũng nhớ đến cái xô có quai cầm cong vẹo mà anh đã đặt ngay cạnh giường. Greta luôn dọn sạch cái xô vào sáng hôm sau mà không buông một lời than phiền hay nhăn nhó, rồi nhẹ nhàng đặt tay lên trán anh.
Nửa mặt tường phòng khám được lát gạch men màu xanh lá. Nhìn vào tấm gương gắn trên bồn rửa mặt, Einar thấy sắc xanh xao phản chiếu từ gương mặt mình, và anh đột nhiên nghĩ tới việc anh chắc là người bệnh nặng nhất tại Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố Dresden, vì hầu hết phụ nữ đến đây đều không có bệnh, chỉ là đang mang gánh nặng hậu quả sau một đêm duy nhất với anh chàng đẹp trai nào đó mà các cô không bao giờ gặp lại.
“Kể cho tôi nghe anh thường vẽ về những gì,” Giáo sư Bolk hỏi.
“Dạo này tôi chẳng còn vẽ nhiều như trước.”
“Tại sao lại thế?”
“Bởi vì Lili”, Einar mạo hiểm thú nhận. Lili bé bỏng chưa từng xuất hiện trong cuộc đối thoại, và anh tự hỏi liệu Giáo sư Bolk có biết về cô ấy hay không; ông đã nghe kể về cô gái đáng yêu với chiếc cổ cao đang cố gắng thoát khỏi thân xác bệnh hoạn, khô khan của chàng Einar cũ chưa?
“Vợ anh đã nói cho anh biết về kế hoạch của tôi chưa?” Giáo Sư Bolk hỏi tiếp. Gạch men xanh và ánh đèn chói mắt trên trần không hề hắt chút màu olive nào lên mặt Giáo sư Bolk; da ông tươi tắn như khối bột bánh nướng. Chẳng lẽ chỉ mỗi Einar là có làn da trở nên xanh xao? Einar quẹt ngón tay lên má và cảm thấy mồ hôi ướt đẫm.
“Vợ anh có nói tôi muốn tiến hành mọi việc như thế nào không?”
Einar gật đầu. “Cô ấy cho tôi biết ông có thể biến tôi thành Lili một lần cho mãi mãi.” Đó không phải là điều duy nhất Greta nói với anh. Cô còn bảo, “Hãy làm đi Einar. Đây là cơ hội duy nhất của chúng ta.”
“Anh có muốn dùng bữa tối với tôi tại nhà hàng Belvedere không?”, Giáo sư Bolk mời. “Anh biết chỗ đó mà đúng không? Ngay bên kia sông Elbe? Cạnh Lầu Brủhlsche?”
“Vâng, tôi biết nơi đó.”
Bàn tay giáo sư Bolk, lòng bàn tay ấm áp đến kỳ lạ, đặt lên vai anh khi ông khuyên nhủ, “Einar, tôi muốn anh nghe lời tôi. Tôi hiểu. Tôi hiểu anh muốn gì mà.”
Họ gặp nhau vào bữa tối tại nhà hàng Belvedere. Sảnh của nhà hàng được trang hoàng với tông màu trắng và vàng; và sau dãy cột trụ, bên ngoài nhà hàng, màn sương đêm ngưng tụ thành một mảng màu xanh đậm trải dọc sông Elbe, phủ lên những tòa tháp cao sừng sững trong thành phố Loschwitz phía xa. Những cây cọ trồng trong chậu trang trí đặt ngay chỗ mỗi người phục vụ đang đứng. Trên sân khấu, dàn nhạc giao hưởng đang trình diễn khúc mở đầu của Wagner.
Một người bồi bàn trong bộ áo đuôi tôm mang ra chai sâm banh đặt trong thùng đá màu bạc. “Đây không phải là để ăn mừng đâu,” Giáo sư Bolk đính chính khi người phục vụ mở nút chai sâm banh. Tiếng bốp vang khắp phòng ăn, và những phụ nữ ngồi bàn kế bên đều ngoái cổ, vốn đang giấu kín trong áo nhung mùa đông, nhìn lại.
“Có lẽ nên ăn mừng,” Einar nói, giọng anh hòa với tiếng lách cách phát ra từ mấy con dao lưỡi dẹp dành cho món cá mà người phục vụ vừa bày ra bàn. Einar nhớ đến Lili, người mà anh dự định gửi tới ăn tối tại nhà hàng Belvedere ngay chỗ anh đang ngồi.
Giáo sư Bolk dùng con dao ăn cá tách miếng cá hồi nước ngọt. Einar nhìn chằm chằm vào lưỡi dao, uốn cong ngay mũi, tách lớp da mỏng để lộ ra phần thịt cá màu hồng. “Nói thật nhé”, Giáo sư Bolk bảo, “Lần đầu tiên tôi gặp một người giống như anh, tôi chẳng biết nên nói gì. Ban đầu, tôi cho rằng chẳng thể làm gì được đâu.”
Einar suýt há hốc mồm. “Ý ông là ông đã gặp một người giống tôi sao?”
“Greta không kể với anh về kinh nghiệm của tôi với một người” - ông nghiêng người về phía đĩa thức ăn của mình - “từng ở trong hoàn cảnh như anh?”
“Không”, Einar đáp lại. “Cô ấy chẳng nói gì với tôi cả.”
“Có một người mà tôi muốn giúp,” Giáo sư Bolk nói. “Nhưng anh ta bỏ trốn ngay trước khi tôi bắt đầu. Quá sợ hãi để trải qua quá trình đó. Điều này thì tôi hiểu được.”
Sau đó Einar ngồi trên ghế và nghĩ, trải qua việc gì nhỉ? Einar đoán giáo sư Bolk tin rằng Einar biết nhiều hơn những gì anh thực sự nắm được. Giáo sư Bolk nói về bệnh nhân trước. Người đàn ông đã hết sức tin tưởng rằng mình là một người phụ nữ đến nỗi anh tự gọi mình là Sieglinde Tannenhaus, ngay cả khi đang ăn mặc như một người đàn ông. Anh là trưởng tàu phụ trách tuyến đường từ Wolfnitz đi Klotzsche, và cứ khăng khăng yêu cầu người ta phải gọi anh là Quý cô. Chẳng ai trong mấy người khách đi tàu hiểu anh ta muốn gì. Họ chỉ nhìn anh trân trối, xoáy vào bộ đồng phục xanh dương và cà vạt màu đen.
“Nhưng vào buổi sáng dự định tiến hành ca phẫu thuật đầu tiên, người đàn ông đó biến mất,” Giáo sư Bolk giải thích. “Anh ta lẻn ra khỏi phòng khám, không biết bằng cách nào mà qua mặt bà Frau Krebs. Rồi anh ta đi mất. Cuối cùng anh ta trở lại làm việc trên tàu điện, trong bộ đồng phục trưởng tàu kiểu nữ, một chiếc váy xanh đen kèm thắt lưng vải bạt.
Người phục vụ quay lại rót rượu. Einar có thể đoán được giáo sư đang hứa hẹn điều gì. Mũi cong của con dao ăn cá nhấp nháy cùng ánh sáng tỏa ra từ giá nến đặt trên chiếc bàn dài phía sau hai người. Einar nghĩ chắc là một kiểu hoán chuyển nào đó. Anh sẽ đổi miếng thịt mềm xốp treo lủng lẳng giữa chân mình để lấy một thứ khác.
Bên ngoài, dòng sông Elbe đen ngòm đang chảy và con thuyền mái chèo sáng rực nhờ ánh đèn luồn qua dưới vòm cầu Augustusbrủcke. Giáo sư Bolk đề nghị, “Tôi muốn bắt đầu vào tuần tới.”
“Tuần tới sao? Ông không thể nào bắt đầu sớm hơn à?”
“Phải tuần tới mới được. Tôi muốn anh chuyển đến phòng khám và tĩnh dưỡng ở đó, tăng vài cân. Tôi cần anh nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt. Chúng ta không thể mạo hiểm để bị nhiễm trùng được.”
“Nhiễm trùng gì cơ?” Einar thắc mắc, nhưng ngay lúc đó, người phục vụ tiến đến bàn của hai người, cánh tay gân guốc của anh ta dọn chén đĩa và dao ăn cá, sau đó quét sạch vụn bánh mì bằng một cái cọ nhỏ màu bạc.
Einar bắt taxi trở về lại khách sạn Horitzisch. Cô gái bán hoa phòng bên cạnh đã đi mất nên anh ngủ rất ngon, chỉ trở mình khi đoàn tàu rít lên lúc vào ga Bahnhof. Ngay lúc bình minh, anh thức dậy rồi bước vào phòng tắm nằm dưới hành lang, chính là căn phòng không hề được sưởi ấm với cánh cửa làm bằng mấy thanh gỗ. Sau đó anh khoác lên mình chiếc váy nâu, áo cổ thêu màu trắng, áo khoác ngoài bằng len thô cùng một chiếc mũ đội lệch góc. Hơi thở của anh bám lên gương, mặt anh tái nhợt. Anh đến phòng khám với tư cách là Lili, và mùa xuân tới đây, cô ấy sẽ bước ra khỏi phòng khám. Đây không phải là một quyết định nhất thời mà là tiến trình tự nhiên của nhiều sự việc. Trong phòng tắm tại khách sạn Horitzisch, tiếng xình xịch của đoàn tàu vào ga lan qua mấy thanh gỗ trên cửa, Einar Wegener nhắm mắt lại, và khi mở mắt ra, anh đã biến thành Lili.
Khi cô đến phòng khám, bà Frau Krebs đưa cô vào trong rồi yêu cầu Lili đổi trang phục thành một chiếc váy trắng của phòng khám quấn ngang eo có dây cột.
Bà Frau Krebs, với gương mặt hồng hào được điểm xuyết bằng những mạch máu rạn ra như đóa hoa, dẫn Lili đến căn phòng phía sau phòng khám. Đó là nơi cô có thể nghỉ ngơi một tuần. Phòng có một giường với thanh gác chân bằng ống thép. Bà Frau Krebs kéo rèm cửa sổ màu vàng qua một bên. Căn phòng nhìn ra một công viên nhỏ thoai thoải tiếp giáp với cánh đồng bên bờ sông Elbe. Vào mùa đông, con sông có màu xanh lạnh lẽo và Lili có thể thấy mấy người thủy thủ đứng trên boong tàu mặc áo khoác đang túm tụm lại một chỗ. “Cô sẽ thấy vui khi ở đây”, Bà Frau Krebs nói. Mây đang trôi trên bầu trời, và một đám mây tách mình ra xa khỏi mấy đám mây khác, phơi bày một lổ hổng. Một luồng sáng rọi trên dòng sông Elbe, nện thẳng vào xoáy nước trước mũi con tàu hàng lấp lánh ánh vàng như sợi dây chuyền trên cổ Lili.
Bà Krau Frebs tằng hắng. “Giáo sư Bolk nói với tôi cô sẽ tới,” bà cất tiếng. “Nhưng ông ấy từ chối tiết lộ tên của cô. Đúng là phong cách của ông ấy.”
“Tên tôi là Lili.”
“Lili gì cơ?”
Ngoài trời, một cụm mây nữa dạt qua một bên, mở ra một lỗ hổng lớn màu xanh nhạt trên bầu trời, dòng sông lại bừng sáng còn đám thủy thủ mặc áo khoác đang nhìn lên trời, Lili nghĩ, hít một hơi sâu rồi nói. “Elbe. Lili Elbe.” Chiều hôm đó, Lili bước xuống lầu để thưởng thức tiệc trà trong phòng đón nắng Wintergarten. Cô tìm thấy một chiếc ghế kim loại đang ngã sõng xoài, sau đó không lâu, cô dần cảm thấy ánh nắng xuyên qua cửa kính và hắt lên mặt mình. Ngày hôm nay thật sáng sủa, và bầu trời lúc này có màu xanh biếc. Ánh mặt trời sưởi ấm phòng đón nắng đến mức khắp không gian thoang thoảng mùi ẩm toát ra từ mấy cành dương xỉ cuốn chặt và dây thường xuân mọc đầy trên tường. Phòng đón nắng Wintergarten nhìn xuống dòng sông Elbe, cơn gió thổi qua quét sạch những đám mây và khiến con sông gợn sóng bạc đầu. Những gợn sóng làm Lili nhớ đến biển Kattegat ở Đan Mạch cùng với mấy bức tranh mà Einar đã vẽ về cảnh biển mùa đông. Nhiều năm trước, Lili thường ngồi trên ghế bện thừng tại khu nhà Widow House và nhìn vào bức vẽ của Einar; cô nhìn chúng với tâm trạng hết sức thờ ơ, như thể chúng được vẽ bởi một người tổ tiên nào đó khiến cô thấy tự hào chỉ trong phút chốc.
Suốt tuần đó, Lili ngủ nướng vào buổi sáng, cứ như càng nghỉ ngơi thì cô càng mệt thêm. Vào buổi chiều, cô đều uống trà và ăn bánh torte trong phòng đón nắng Wintergarten. Cô ngồi trên cái ghế kim loại, đặt ly trà lên đùi, gật đầu e thẹn với mấy cô gái xuống đây nói chuyện phiếm. Thỉnh thoảng, một trong những cô gái lại phá lên cười to đến mức khiến Lili phải ngoái nhìn: một nhóm mấy cô nàng, toàn những cô gái trẻ trung với mái tóc dài và chất giọng khỏe khoắn, bụng ai cũng phình to dưới chiếc áo dài có thắt lưng. Lili biết hầu hết những bệnh nhân đến phòng khám này đều vì lý do đó; và cô khẽ liếc mắt nhìn họ, không phải với thái độ khinh bỉ hay thương xót mà là sự quan tâm và thèm muốn. Mấy cô gái dường như đều biết nhau, vậy mà không người nào - giọng cười cao vút của họ vang khắp phòng đón nắng Wintergarten với một sức công phá đến mức Lili tin chắc mấy tiếng cười như chuông bạc ấy sẽ làm tường kính rạn vỡ - buồn để ý đến việc họ sẽ phải sống trong Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố Dresden suốt vài tháng tới. Phòng khám như một xã hội thu nhỏ, một xã hội chưa thể tiếp nhận Lili. Có lẽ một ngày nào đó, cô tự nhủ. Cô cảm giác được ánh nắng chiếu trên đầu gối và cổ tay mình nên úp tay lại, để phần bên dưới cũng cảm nhận được hơi ấm đang thấm vào phần còn lại trên cơ thể cô.
Cô biết giáo sư Bolk muốn mình tăng cân. Bà Frau Krebs đem cho cô món bánh pudding gạo vào buổi chiều, lại còn ý tứ giấu một hạt hạnh nhân vào đấy như cách người Đan Mạch hay làm. Ban đầu, khi Lili múc một muỗng pudding lớn cho vào miệng và cắn phải hạt hạnh nhân, cô mở mắt ra và lẩm bẩm bằng tiếng Đan Mạch như thể quên mất mình đang ở đâu, “Cảm ơn, cảm ơn nhé”.
Ngày thứ ba tại phòng khám, lúc ngồi trong phòng đón nắng Wintergarten, Lili nhìn thấy những chồi non của cây nghệ tây nhú ra bên ngoài cửa kính. Mấy chồi non sáng màu và nhọn nhọn, mọc thành cụm phất phơ trong gió. Chúng nổi bật giữa bãi cỏ nâu lởm chởm. Lili tưởng tượng bãi cỏ này sẽ đâm chồi nảy lộc, biến thành tấm thảm xanh mướt trong vài tuần tới. Hôm nay con sông vẫn có màu dầu loang, chiếc tàu chất đầy hàng hóa chầm chậm chạy trên sông, boong tàu được bọc kín bằng vải bạt màu đen cột chặt bằng dây thừng.
“Chị có nghĩ mùa xuân sẽ đến sớm hơn không?”
“Xin lỗi?” Lili hỏi.
“Em thấy chị nhìn vào mấy cây nghệ tây.” Câu nói bật ra từ một cô gái ngồi trên ghế kim loại đặt cạnh cô, nhưng được dịch qua một góc để hai người có thể nhìn nhau qua cái bàn làm bằng gang trắng.
“Với chị thì dường như hơi sớm,” Lili trả lời.
“Đây là những gì em mong đợi trong năm nay”, cô gái đáp lại, mái tóc dày màu vàng hoe phủ xuống vai, còn mũi thì hếch lên. Cô tên là Ursula, xuất thân là trẻ mồ côi đến từ Berlin, chưa tròn hai mươi tuổi nhưng lại đến Dresden vì một lỗi lầm đơn giản nhất. “Em từng nghĩ mình yêu anh ấy,” cô nói.
Sau ngày hai người gặp nhau, trời trở nên nắng gắt hơn. Lili và Ursula, quấn mình trong chiếc áo len cổ lọ, đội chiếc mũ lông có vành chụp tai mượn từ bà Frau Krebs, rồi tiến thẳng ra vườn. Họ tản bộ dọc lối đi dẫn tới bãi cỏ chỗ nghệ tây đang mọc chồi. Ngoài trời, khi đang nhìn về dòng sông Elbe, trong cơn gió tàn bạo vượt quá sự phỏng đoán của Lili lúc ngồi trong phòng đón nắng Wintergarten, Ursula hỏi, “Còn chị, Lili? Vì sao chị lại đến đây?”
Lili nghĩ về câu hỏi, cắn môi, giấu cổ tay trong ống tay áo và cuối cùng trả lời, “Chị có bệnh trong người.”
Ursula, với khuôn miệng luôn bĩu ra một cách tự nhiên, nói, “Em hiểu rồi.”
Kể từ đó, chiều nào hai cô gái cũng cùng nhau uống trà và ăn bánh. Họ thường thưởng thức sô-cô-la trong mấy hộp mà Ursula biển thủ tại công ty cũ. “Vì những hộp sô- cô-la này mà em gặp rắc rối”, Ursula càu nhàu, nhấc một miếng sô-cô-la hình vỏ sò rồi bỏ vào miệng. Ursula kể với Lili về cửa hàng sô-cô-la nằm trên đại lộ Unter den Linden nơi cô từng làm việc. Đó là nơi những người đàn ông giàu có nhất Berlin hối hả đến vào giờ nghỉ trưa hoặc năm giờ chiều, áo khoác vắt trên cánh tay, mua sô-cô-la bọc giấy vàng kim đặt trong hộp ba tầng, cả bộ được cột bằng dây ruy băng satin. “Có lẽ chị nghĩ em yêu một trong mấy người này”, Ursula tiếp tục tâm sự với Lili, đặt tách trà lại trên đĩa. “Không phải đâu chị. Mà đó là chàng trai pha trộn làm việc ở phía sau, cái người bỏ mấy túi hạt óc chó, thêm vài hũ bơ, mấy thùng sữa và bột ca cao nghiền vào mấy thùng lớn.” Thùng chứa lớn đến nỗi một cặp tình nhân có thể cuộn mình nằm trong đó. Tên anh ấy là Jochen, và trên người anh ấy từ đầu đến chân toàn là tàn nhang. Anh ấy sinh ra ở thành phố Cottbus, gần biên giới Ba Lan, đến Berlin để tìm kiếm vận may, nhưng lại bị trói buộc với thùng chứa bằng thép không gỉ và lưỡi dao nhào trộn, nó nguy hiểm đến mức chỉ cần không cẩn thận là có thể cuốn lấy cánh tay xương xẩu của anh và xoay nó vài trăm lần trong một phút. Bốn tháng trước khi Ursula và Jochen bắt đầu nói chuyện, những cô gái phục vụ phía trước mặc đồng phục hồng cài nút kín bưng bị cấm bắt chuyện với mấy chàng trai pha trộn làm việc ở phía sau, nơi không khí luôn nóng bức, bay mùi mồ hôi trộn với mùi sô-cô-la ngọt đắng, và tràn ngập những lời bàn tán về đời sống riêng tư của những cô gái đứng sau hộp kính đặt phía trước cửa hàng. Rồi một ngày nọ, Ursula phải đi ra phía sau để hỏi bao lâu thì mẻ kẹo nuga tiếp theo sẽ ra lò, và Jochen, lúc đó chỉ mới 17 tuổi, đã xoay mũ ra rồi trả lời, “Hôm nay hết kẹo nuga rồi. Nói mấy thằng cha đó về nhà và xin lỗi vợ đi.” Đó là lúc trái tim của Ursula thổn thức.
Lili có thể tưởng tượng những chuyện sau đó: nụ hôn đầu trong phòng phía sau; cú ngả lưng nhẹ nhàng vào thùng chứa thép không gỉ; những xúc cảm mãnh liệt giữa đêm khuya khi cửa hàng sô-cô-la yên tĩnh, khi những lưỡi dao nhào trộn bất động trên giá treo; tiếng thổn thức của tình yêu.
Thật buồn làm sao, Lili nghĩ, ngồi trên ghế kim loại khi nắng chiều chiếu trên sông Elbe. Năm ngày đã trôi qua, cô và Ursula đã trở thành bạn bè. Và mặc cho hoàn cảnh trắc trở của Ursula, Lili vẫn mong ước điều tương tự sẽ đến với mình. Đúng vậy, cô tự nhủ. Chắc chắn điều này sẽ đến với mình: Tình yêu chớp nhoáng; cảm xúc mãnh liệt vừa vô vọng vừa tràn đầy nuối tiếc.
Sáng hôm sau Giáo sư Bolk đến ngay trước cửa phòng của cô. “Xin đừng ăn uống bất kỳ thứ gì trong ngày hôm nay nhé,” ông căn dặn. “Kể cả thêm kem vào trà cũng không được. Không được ăn gì hết.” Sau đó ông nói thêm, “Ngày mai là ngày bắt đầu đấy.”
“Ông chắc chứ?” Lili hỏi lại. “Ông sẽ không đổi ý chứ?”
“Phòng chuyên dụng đã được sắp xếp. Ca trực của y tá đã được lên lịch. Cô đã tăng được vài cân. Và tất nhiên là tôi chắc chắn. Ngày mai là ngày thuộc về cô, Lili à.” Sau đó ông bước đi.
Cô đi đến căn phòng có cửa sổ vòng cung, sàn nhà lát gỗ thông, trên bàn bên kia là mấy đĩa thịt cuộn, nhiều giỏ bánh mì hạt carum và một bình cà phê. Lili mang một ly cà phê ra cái bàn đặt ở trong góc, và ngồi một mình. Cô luồn dao cắt bơ dưới lớp niêm phong trên phong bì mỏng màu xanh rồi mở lá thư từ Greta.
Lili thân mến,
Em tự hỏi chị thích Dresden như thế nào? Và cả Giáo sư Bolk, chắc chị đã gặp rồi nhỉ. Danh tiếng của ông rất ấn tượng. Ông gần như khá nổi tiếng, và có lẽ sau những chuyện này, ông ấy chắc chắn sẽ càng vang danh hơn nữa.
Em chẳng có tin gì mới ở Paris cả. Công việc của em dường như chậm lại từ khi chị rời đi. Chị là chủ đề tuyệt vời nhất để em vẽ, nên khi chị đi, thật khó để tìm một ai đó xinh đẹp như chị. Hôm qua Hans đã đến thăm em. Anh ấy lo lắng về thị trường hội họa. Anh ấy bảo tài chính đang cạn kiệt, không chỉ ở đây mà còn khắp cả châu Âu. Nhưng chẳng liên quan gì tới em. Em chả bao giờ quan tâm, chị biết mà. Em bảo với anh ấy như vậy, và anh ấy đáp lại rằng em nói thì dễ lắm, vì giữa Einar và em luôn có thứ gì đó đểbán. Em không chắc vì sao anh ấy lại nói thế, nhưng em đoán đây có lẽ là sự thật nếu Einar còn vẽ tranh. Lili, chị có từng nghĩ tới việc vẽ tranh không? Có lẽ chị cứ thử tự mua cho mình một hộp màu nước và tập giấy phác thảo để giết thòi gian, chắc là đang trôi qua chậm lắm. Dù cho bọn họ nói gì thì Dresden vẫn không phải là Paris, em tin chắc như thế.
Em hy vọng chị cảm thấy thoải mái. Đó là điều em lo lắng nhất hiện giờ. Em ước chị để em đi cùng vói chị, nhưng em hiểu. Có nhiều thứ chị phải tự làm một mình. Lili à, chị có bao giờ từng dừng lại và nghĩ đến mọi chuyện sẽ như thế nào nếu việc này kết thúc không? Đó là tự do!Đó là suy nghĩ của em. Đó có phải là cách nghĩ của chị không? Em mong là vậy. Em hy vọng chị nghĩ theo cách này bởi vì như vậy mới đúng là cảm giác chị nên có. Ít nhất đây là điều em nghĩ tới. Viết thư trả lời cho em ngay khi nào có thời gian nhé. Con Edvard IV và em nhớ chị nhiều lắm. Nó đang ngủ ngay giường xép của chị. Còn em, thì không tài nào chợp mắt nổi. Nếu chị cần em, hãy gửi lời nhắn em nhé. Em có thể đến đó sau một đêm.
Thương mến,
Greta
&Lili nghĩ về cuộc sống của mình ở căn hộ hạng sang: phòng làm việc trước kia thuộc về Einar, ngăn nắp và giữ nguyên hiện trạng; ánh nắng ban mai tràn ngập vào xưởng vẽ của Greta; ghế trường kỷ bọc nhung và lõm xuống do sức nặng đáng kể của Carlisle; Greta trong chiếc áo khoác với hàng tá vệt màu dính cứng ngắc; tóc cô phủ xuống lưng như nước tuyết tan; Hans thì bóp kèn từ ngoài đường cái, gọi tên Lili. Lili muốn quay lại nhưng bây giờ việc đó là không thể.
Vào buổi chiều, cô gặp lại Ursula với hai má đỏ rực đang chạy xuống cầu thang. “Có thư từ anh ấy!” Cô nói, vẫy vẫy phong bì. “Từ Jochen đó.”
“Làm sao mà cậu ta biết tìm em ở đâu?”
“Em viết thư cho ảnh. Em không kìm lòng nổi, chị Lili à. Em suy sụp và muốn viết thư cho anh ấy, muốn nói rằng em yêu anh ấy nhiều thế nào và may là chưa quá muộn.” Tóc Ursula cột đuôi ngựa, và hôm nay trông cô trẻ trung hơn hẳn mọi ngày, với đôi má phúng phính có hai lúm đồng tiền. “Chị nghĩ anh ấy muốn nói gì?”
“Mở ra là biết thôi,” Lili nói. Ursula mở phong bì và mắt cô bắt đầu lướt dọc lá thư. Nụ cười dần dần vụt tắt, và khi cô lật qua trang tiếp theo, miệng cô hơi run rẩy. Sau đó cô lấy tay chặn dưới mũi và nói rằng, “Anh ấy có thể sẽ đến thăm em. Nếu anh ấy kiếm đủ tiền và xin nghỉ phép được ở cửa hàng sô-cô-la.”
“Em có muốn cậu ta tới không?”
“Em muốn chứ.” Và sau đó, cô lại nói, “Tuy nhiên, em không nên hy vọng quá nhiều. Rất khó để xin nghỉ phép ở cửa hàng. Nhưng anh ấy nói mình sẽ đến đây nếu có thời gian.”
Cả hai đều im lặng một lúc. Sau đó Ursula tằng hắng. “Em biết sẽ có một ca phẫu thuật.”
Lili gật gù bảo đúng rồi; tay cô nắm lấy phần váy trên đùi.
“Họ sẽ làm gì chị? Chị sẽ ổn cả chứ? Chị vẫn là chị khi họ xong chứ?”
“Chị sẽ tốt hơn,” Lili đáp lại. “Giáo sư Bolk sẽ giúp chị trở nên tốt hơn.”
“Ồ, lão Bolk kinh dị. Em hy vọng ông ta không làm gì sai trái với chị. Ông Bolk Lưỡi Dao - chị biết không, đó là cách người ta gọi ông ấy. Luôn luôn hăm hở dùng dao mở toang cơ thể một cô gái.
Trong thoáng chốc, Lili cảm thấy hoảng sợ.
“Em xin lỗi,” Ursula nói. “Em không có ý gì đâu. Đó là cách bọn con gái hay nói với nhau. Họ cũng chẳng biết gì đâu.”
Sau đó, ở trong phòng, khi Lili chuẩn bị lên giường, bà Frau Krebs đưa cô một viên thuốc nhỏ màu phấn. “Giúp cô ngủ ngon hơn,” bà Frau Krebs khẽ cắn môi nói. Lili đến bên bồn rửa, dùng khăn màu hồng để tẩy trang. Lớp trang điểm - phấn màu cam nhạt, son môi màu hồng, lớp sáp màu nâu cô dùng để kẻ lông mày- theo dòng nước trôi tuột xuống bồn rửa. Khi cô dùng chì kẻ lông mày với đầu sáp, mấy ngón tay cong cong như đang vẽ, một cảm giác lạ lùng sẽ dâng lên trong ngực, như thể cô vừa được giải thoát khỏi điều gì đó. Einar là một họa sĩ, và cô tự hỏi có phải cảm giác ấy, cảm giác đập thình thịch dưới xương sườn, chính là thứ mà anh luôn trải nghiệm khi đẩy cọ trơn tru lướt trên khung vải bạt trắng trơn. Lili rùng mình, và có vị gì đó như sự nuối tiếc dâng lên trong cổ họng, làm cô phải cố gắng lắm mới nuốt được viên thuốc ngủ.
Sáng hôm sau, cô cảm thấy mơ màng và mờ mịt. Một tiếng gõ cửa vang lên. Cô y tá với mái tóc chải ngược ra sau đưa Lili ra khỏi chăn. Một chiếc cáng cứu thương, nồng nặc mùi cồn và thép, đang chờ bên cạnh để đưa cô đi. Khuôn mặt của bác sĩ Bolk thấp thoáng từ đằng xa đang hỏi, “Cô ấy ổn chứ? Phải đảm bảo cô ấy không có vấn đề gì.” Nhưng Lili không nhận biết được gì hơn. Cô biết giờ vẫn còn sớm, và cô được đẩy dọc hành lang phòng khám trước khi mặt trời trải trên cánh đồng cải dầu nằm về phía đông Dresden; cô biết cánh cửa xoay với mấy ô cửa sổ đóng lại trước mắt cô trước khi ánh bình minh chiếu đến nền móng của Lầu Brủhlsche, chính là nơi cô đã nhìn ra dòng sông Elbe, hướng đến thành phố và phóng tầm mắt ra toàn bộ châu Âu, và cũng là chỗ cô thuyết phục bản thân sẽ không bao giờ quay đầu nhìn về phía sau.
Khi tỉnh giấc, cô thấy một bức màn rũ màu vàng che kín cửa sổ. Đối diện cửa sổ là cái tủ một cửa có treo tấm gương và một chìa khóa buộc chung với chùm tua rua làm từ chỉ màu xanh dương. Ban đầu cô cứ tưởng đó là chiếc tủ quần áo màu xám tro, rồi cô nhớ lại, mặc dù đó là chuyện xảy ra với một người khác, buổi chiều khi cha Einar phát hiện anh trốn trong tủ quần áo của mẹ, có chiếc khăn choàng màu vàng quấn trên đầu anh.
Cô vẫn nằm trên giường có thanh để chân bằng ống thép; nhìn căn phòng qua thanh để chân, cảm giác giống như nhìn qua cửa sổ có chấn song. Tường phòng được dán giấy có họa tiết chùm hoa màu đỏ xen lẫn hồng. Trong góc phòng là một chiếc ghế phủ chăn. Bên cạnh giường có kê một chiếc bàn gỗ gụ được phủ ren và một bình hoa thạch thảo. Cái bàn có duy nhất một cái ngăn kéo, và cô tự hỏi có phải tư trang của cô đang nằm trong đó hay không. Trên sàn là tấm thảm màu bụi có vài chỗ bị sờn đến trơ trụi.
Lili cố gắng ngồi dậy, nhưng cơn đau nặng nhọc lan ra từ giữa người, và cô phải nằm lại trên cái gối nhồi lông vũ vừa cứng vừa có gai. Mắt cô trợn lên cho tới khi căn phòng trở nên tối om. Cô nhớ đến Greta, rồi tự hỏi liệu Greta có đang có mặt trong phòng, đứng ngay góc đối diện cửa sổ nơi cô không thể xoay đầu nhìn thẳng hay không. Lili không biết chuyện gì đã xảy ra với mình, trước khi mùi thuốc mê lởn vởn quanh mũi cô. Cô biết mình bị bệnh, và ban đầu, cô nghĩ mình là một đứa bé bị đau ruột thừa đang nằm trong bệnh viện thị xã Jutland có sàn lót cao su. Lúc đó cô mới mười tuổi, và sau đó Hans sẽ đến ngay trước cửa với một nắm hoa cà rốt dại. Nhưng điều này không hợp lý, vì Lili nhớ đến Greta, người vợ của Einar. Điều này khiến cô muốn cao giọng hỏi bản thân: Einar đâu rồi?
Cô nhớ đến mọi người: Greta, Hans rồi đến Carlisle với giọng nói trầm trầm đầy quyết đoán luôn biết cách giải quyết công việc; cô nhớ đến Einar đang sợ hãi, lạc lối trong bộ áo comple rộng thùng thình luôn tách biệt với những người còn lại, giống như xa cách - xa cách mãi mãi. Cô hé mắt. Trên trần là bóng đèn gắn trong chiếc hộp tráng bạc. Gắn với bóng đèn là một sợi dây dài, và cô thấy sợi dây rũ xuống cạnh giường, đầu dây gắn với một hạt tròn nhỏ màu nâu. Hạt tròn nằm trên cái chăn màu xanh. Suốt một lúc lâu, cô cứ nghĩ đến việc vươn tay ra khỏi chăn, kéo hạt tròn màu nâu ấy, và tắt đèn. Cô chú ý vào nó, hạt tròn màu nâu giống hệt một hạt gỗ gắn dọc đường dây của bàn tính. Cuối cùng, khi cố gắng nhấc tay, nỗ lực và cơn đau do việc di chuyển cơ thể bùng phát trong cô như vừa va chạm với luồng ánh sáng nóng bỏng. Đầu cô ngả xuống gối - lông vũ ôm quanh đầu - và cô nhắm mắt lại. Chỉ vài giờ trước đó, lúc trời còn tối đen, dưới bàn tay của Giáo sư Afred Bolk, Einar Wegener đã biến từ đàn ông sang phụ nữ, và giờ Lili Elbe chìm vào hôn mê suốt ba ngày đêm liền.