Hai mươi hai
Greta không thể chịu được nữa. Cô cài nút áo khoác lên tận cổ, kẹp tóc ra sau bằng chiếc lược đồi mồi, trộn màu vẽ trong mấy cái bát Knabstrup, đứng trước bức tranh Lili mới vẽ được một nửa, và không biết làm sao để hoàn thành nó. Bức tranh - nửa người trên của Lili đã hoàn tất còn nửa người dưới chỉ mới được phác thảo bằng bút chì - khiến Greta tưởng rằng đây là tác phẩm của người khác. Cô nhìn chằm chằm lên khung vải bạt, bốn cạnh được kéo căng nhờ vào mấy cây đinh cô tự đóng, và thấy không tài nào tập trung nổi. Bất cứ thứ gì cũng có thể làm cô phân tâm. Chẳng hạn như lời mời chào đăng ký sử dụng thư viện ngay tận nhà. Con Edvard IV cẩu thả liếm nước trong cái tô của nó. Cánh cửa phòng làm việc của Einar mở rộng, phơi bày cái giường ngăn nắp được lót một tấm vải kiểu Thổ Nhĩ Kỳ màu hồng pha đỏ, cùng với sự gọn gàng đến trống vắng của căn phòng không người ở. Bàn trang điểm với mấy ngăn kéo trống trơn, tủ quần áo chẳng có gì ngoài một chiếc mắc áo treo trên đường ống bằng chì. Cô cảm thấy ngực mình đau nhói, và điều
duy nhất cô nghĩ đến là cảnh Einar hoảng hốt ngồi trên toa tàu đi dọc châu Âu để đến Dresden trong đêm, sương khuya lạnh giá khiến tóc anh ướt đẫm, siết chặt trong tay anh là địa chỉ phòng khám.
Có một buổi triển lãm tranh khác của cô tại phòng trưng bày của Hans, và đây là lần đầu tiên cô không buồn đến dự lễ khai mạc. Có điều gì đó khiến cô thấy chán nản với mọi thứ, mặc dù cô đã cẩn thận tránh thể hiện những cảm xúc đó trước mặt Hans. Làm sao cô có thể tỏ ra vô ơn như thế. Làm sao cô có thể ngang ngược như thế. Mới năm năm trước, Greta vốn chẳng có tiếng tăm gì nhưng ngay sáng nay lại được phỏng vấn bởi một tay nhà báo đẹp trai với đôi mắt xếch đến từ Nice. Tay nhà báo đã ngắt ngang lời cô và thắc mắc, “Lần đầu tiên cô biết mình tuyệt vời là khi nào?” Đúng vậy, tất cả những thứ đó, và còn nhiều việc chưa kể đến, chỉ trong vòng năm năm; nhưng chính Greta cũng ngồi xuống và suy tư. Đúng vậy, mình đã làm được gì đó cho chính bản thân - nhưng chuyện này thì có gì là quan trọng? Cô vẫn cô độc, còn chồng cô và Lili đều ở Dresden, một thân một mình.
Hơn một tuần sau khi Einar rời nhà đến Dresden, vào một ngày trời mưa trơn trượt, giữa tiếng rít lên từ bánh xe ôtô, Greta gặp Hans tại phòng trưng bày của anh. Anh đang ngồi trong phòng làm việc phía sau, và viên thư ký đang hí hoáy ghi chép vào sổ kế toán. “Tranh không bán hết”, Hans nói về những bức tranh trong buổi triển lãm. Một trong mấy bức tranh của Greta - Nàng Lili đứng trong túp lều dưới chân cầu Solferino - đang được đặt trên sàn, tựa vào bàn làm việc nơi viên thư ký đang dùng bút chì viết lên tập giấy kẻ ngang. “Anh ước em đến dự lễ khai mạc,”
Hans càu nhàu, “Có chuyện gì xảy ra sao?”. Và sau đó anh tiếp tục, “Em đã gặp thư ký mới của anh chưa? Tên anh ta là Le Gal.”
Người thư ký có khuôn mặt cực nhỏ, và đôi mắt nâu mềm mại của anh ta toát lên vẻ gì đó khiến Greta nhớ đến Einar. Cô nghĩ đến anh ấy - Einar thận trọng bước lên toa tàu tại Dresden, mắt anh cụp xuống, tay anh đặt trên đùi, nắm chặt một cách e thẹn - sau đó thấy rùng mình. Cô nghĩ đến bản thân mình, mặc dù không nhiều lắm, nhưng cô đã làm gì với chồng mình thế này?
“Anh giúp được gì cho em không?” Hans hỏi. Anh bước lại gần Greta. Người thư ký vẫn khư khư nắm lấy bút chì và dán mắt vào công việc. Và Hans đến bên cạnh Greta. Hai người không chạm vào nhau, nhưng Greta có thể cảm nhận anh đang đứng đó, rồi Greta nhìn xuống bức tranh: Nụ cười trên mặt Lili dường như kéo dài hơn nhờ vào chiếc mũ tắm trên đầu; đôi mắt đen láy và đầy sức sống - sâu đến vô tận. Greta cảm thấy có gì đó trên tay mình nhưng khi nhìn thì lại chẳng có gì cả, Hans đang đứng cạnh bàn làm việc của anh thư ký, hai tay đút vào túi. Chẳng phải anh muốn nói gì với cô sao?
Carlisle đã bắt gặp cảnh hai người ôm nhau, vào buổi chiều mưa lạnh buốt ấy, khi cổ Hans còn đang ửng hồng sau cắt tóc. Cô không nghe tiếng sột soạt mở khóa cho tới khi quá muộn, và cô cảm thấy lúng túng một hồi lâu khi Greta và Carlisle đều đứng hình - Cô tựa đầu vào ngực Hans, còn Carlisle với khăn choàng quấn quanh cổ, bàn tay đang giơ ra sau tay nắm cửa. “Anh không biết ai đó đang...” anh cất tiếng. Cô rời khỏi vòng tay Hans, người đã
giơ tay lên và giải thích, “Không phải như em nghĩ đâu...”. “Em có thể quay lại sau,” Carlisle đáp lại. “Em sẽ trở lại trong ít phút nữa.” Carlisle chạy biến đi trước khi Greta kịp nói lời nào.
Khuya hôm đó, cô ngồi xuống cuối giường anh và xoa xoa chân anh qua tấm chăn, rồi giải thích, “Thỉnh thoảng em xem Hans là người bạn duy nhất.” Và Carlisle, với cổ áo ngủ đang mở toang, bảo, “Anh hiểu mà.” Anh còn nói thêm, “Greta à, chẳng ai trách móc em vì điều đó đâu, nếu như đây là điều em đang nghĩ tới.”
Còn lúc này, trong văn phòng của Hans, bên cạnh viên thư ký đang bận rộn với cây bút chì và thước kẻ, Greta than thở, “Chẳng có tin gì từ Einar cả.”
“Em lo lắng à?”
“Lẽ ra thì không, nhưng em rất lo lắng.”
“Thế sao em không đi cùng cậu ấy?”
“Anh ấy không muốn em đi cùng.”
Hans im bặt, Greta thấy môi anh mím lại; chẳng nhẽ anh cảm thấy có lỗi với cô? Cô mới căm ghét chuyện này làm sao nếu như mọi việc đúng như vậy.
“Em không tức giận vì chuyện đó,” cô giải thích. “Không phải là em không hiểu được nguyên nhân tại sao anh ấy lại đi một mình.”
“Greta,” Hans gọi.
“Vâng?”
“Vì sao em không đến thăm cậu ấy?”
“Anh ấy không muốn em có mặt ở đó.”
“Cậu ấy chắc là xấu hổ nên không nhờ em giúp đỡ thôi.”
“Không, Einar không phải thế. Anh ấy không cư xử như vậy đâu. Hơn nữa, vì sao anh ấy lại xấu hổ? Sau tất cả những chuyện này, tại sao giờ lại ngại ngùng chứ?”
“Hãy nghĩ đến những thứ cậu ấy sắp trải qua. Những thứ chưa hề có tiền lệ.”
“Nhưng vậy sao lại không cho em đi cùng? Anh ấy đã không muốn em có mặt ở đó. Anh ấy tuyên bố rất rõ ràng.” “Cậu ấy có lẽ quá sợ hãi mà thôi.”
Cô dừng lại. “Anh nghĩ vậy sao?”
Viên thư ký đốt một điếu thuốc, que diêm trượt trên tờ giấy nhám dán dọc cái hộp. Một lần nữa cô muốn Hans ôm cô, nhưng lại không cho phép mình tiến về phía vòng tay anh. Cô đứng thẳng lưng và miết tay lên nếp li trên váy. Cô biết thế là cổ hủ, nhưng Greta không đủ can đảm nép vào vòng tay của Hans khi vẫn còn là vợ của Einar.
“Em nên đến thăm cậu ấy,” Hans khuyên nhủ. “Nếu em muốn, anh sẽ đi cùng em. Anh sẽ rất vui nếu được đi cùng em.”
“Em không thể đi được.”
“Chắc chắn là em có thể.”
“Còn công việc của em thì sao?”
“Công việc có thể để sau. Hoặc tốt hơn hết là mang theo giá vẽ. Cầm theo hộp màu nữa.”
“Anh nghĩ em nên đi thật sao?”
“Anh sẽ đi cùng em,” anh nhấn mạnh lần nữa.
“Không được,” cô nói. “Chuyện này không hay đâu.” “Tại sao không?”
Trên bàn làm việc của viên thư ký là bản sao của tờ báo LEcho de Paris, được mở ra ngay trang nhận xét buổi triển lãm mới đây của cô. Cô còn chưa đọc qua, và có một đoạn đập vào mắt cô giống như được gạch chân: “Qua nhiều bức hình cùng một chủ đề - người phụ nữ kỳ lạ mang tên Lili - Greta Wegener đã trở nên nhạt nhẽo. Tôi ước cô ấy có thể khai thác chủ đề mới và cách phối màu mới. Vì sao cô chưa từng dõi mắt chú ý đến sắc vàng và sắc xanh trên quê hương California của mình? Hãy vẽ cho tôi một bức tranh về Thái Bình Dương và những hẻm núi đi.”
“Nếu đi thì em sẽ đi một mình,” Greta cương quyết. “Giờ thì giọng em giống hệt Einar rồi đấy.”
“Vốn dĩ em giống anh ấy mà,” cô trả lời.
Họ im lặng suốt vài phút, ngắm nghía bức tranh và lắng nghe tiếng mưa rơi hòa quyện với tiếng xe cộ. Paris rất lạnh, sáng nào mưa cũng thấm sâu vào da thịt, và Greta tưởng tượng chỉ có Dresden mới là nơi ẩm ướt hơn, ảm đạm hơn nơi này. Đến đó chắc cũng giống như trượt sâu vào hang động mùa đông.
Một lần nữa, Hans nhấn mạnh, “Nếu anh có thể làm gì được...”
Thêm một lần nữa anh đến bên cô, và cảm giác trên tay Greta giống như một chiếc lông vũ cọ lên làn da. Cô cảm nhận được anh đang đứng đó, qua bộ comple bằng vải dệt kiểu xương cá trích - hơi ấm dịu dàng toát ra từ anh. “Greta,” anh gọi khẽ.
“Em phải đi thôi.”
“Em có nghĩ giờ là lúc...”
“Em thực sự phải đi rồi,” Greta ngắt lời anh.
“Thôi được rồi,” Hans trả lời. Anh giúp cô mặc áo mưa, kéo mạnh tay áo. “Anh xin lỗi.”
Viên thư ký cất tiếng, giọng khàn khàn. “Cô có dự định gửi đến bức tranh mới nào không, cô Wegener? Tôi có nên chờ thêm bức nào trong thời gian tới không?”
“Trong thời gian tới thì không,” cô đáp lại. Khi bước xuống phố, với những chiếc ô tô phóng vèo trên nền tuyết và mấy chiếc ô tấp nập trên lề đường, cô biết mình phải gấp lại giá vẽ, đóng gói màu sơn rồi đặt một chỗ trên chuyến tàu tiếp theo tới Dresden.
Điều khiến Greta cảm thấy ngạc nhiên về Dresden là việc người ta đi trên đường mà chẳng bao giờ ngẩng đầu lên khỏi chân mình. Cô không quen với chuyện này, những đôi mắt không thèm ngước lên, quét qua cơ thể to cao của cô và lên tiếng chào hỏi. Ngày đầu tiên ở đây, cô thấy như mình đã biến mất - nép mình giữa đồi núi châu Âu, bị che giấu khỏi toàn bộ thế giới. Điều này khiến cô hơi hoảng loạn mỗi khi cảm nhận tiếng sỏi lộc cộc dưới chân mình trong lúc rảo bước về phía cửa chính của Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố Dresden; hoảng loạn vì cô đột nhiên sợ rằng, nếu không ai nhìn thấy cô, thì cô cũng có thể không tìm được Einar.
Lúc đầu có một sự nhầm lẫn xảy ra. “Tôi đang tìm cô Wegener,” Greta hỏi thăm tại quầy lễ tân, ngay chỗ bà Frau Krebs đang hút một điếu Hacifa.
Tên Wegener chẳng gợi ra chút gì cho bà Frau Krebs. Bà mím môi rồi lắc đầu, mái tóc cắt ngắn ngang cằm. Greta thử hỏi lần nữa. “Cô ấy hơi mảnh khảnh, mắt sẫm màu. Hết sức nhút nhát. Một cô gái Đan Mạch bé nhỏ?”
“Ý cô là Lili Elbe?”
Greta, bất chợt tưởng tượng ra gương mặt Einar đang ngước lên dưới ánh mặt trời khi chuyến tàu của anh băng qua dòng sông Elbe trên cầu Marienstrasse, đáp lại, “Đúng vậy. Cô ấy có đây không?”
Trong phòng Lili, bếp lò xách tay vẫn bập bùng cháy. Rèm cửa màu vàng được khép lại, ánh lửa xanh xao trong bếp lò như đang đổ bóng uốn éo trên giường. Greta nắm lấy ống thép gác ngang chỗ gác chân. Lili đang nằm trong chăn, tay cô đặt xuôi theo hai bên. Cô đang ngủ, cánh mũi phập phồng theo từng hơi thở. “Xin đừng quấy rầy cô ấy,” bà Frau Krebs thì thầm trước cửa. “Ca phẫu thuật rất mất sức.”
“Ca phẫu thuật xảy ra khi nào thế?”
“Ba ngày trước.”
“Sức khỏe cô ấy thế nào rồi?”
“Thật khó nói,” bà Frau khoanh tay trước ngực và trả lời. Căn phòng ấm cúng tràn ngập mùi mộng mị, và sự tĩnh lặng khiến Greta cảm thấy khác thường. Cô ngồi trên chiếc ghế kê trong góc, kéo chăn lên bụng. Cô cảm thấy lạnh, mệt mỏi sau chuyến tàu và bà Frau Krebs để cô ở lại một mình với Lili.
Họ đều ngủ say, cả Greta và Lili. Vài giờ sau đó, khi Greta thức giấc, ban đầu cô tưởng mình vừa thức dậy sau khi chợp mắt dưới mái hiên ở thành phố Pasadena. Rồi cô nhìn thấy Lili đang cựa đầu trên gối. Mí mắt mỏng tang bắt đầu mấp máy.
“Xin đừng lo lắng cho chị,” Lili thều thào.
Rốt cuộc, Greta cũng thấy đôi mắt của Lili, mi mắt nặng nhọc hấp háy như xua đi giấc ngủ mơ màng. vẫn màu nâu và ướt át như mưa rào. Điều duy nhất còn sót lại của chồng cô chính là đôi mắt, mỗi khi nhìn vào đó, Greta có thể nhớ lại toàn bộ cuộc đời anh.
Cô đến bên giường và bắt đầu vuốt ve chân Lili qua cái mền lông ngựa thô ráp. Có gì đó về bắp chân khiến Greta thấy mềm mại hơn; hay có lẽ chỉ do cô tưởng tượng ra - giống như lối suy nghĩ khiến cô tưởng tượng bầu ngực căng phồng bên dưới tấm chăn.
“Em biết họ đã làm gì chị không?” Lili hỏi. Khuôn mặt cô đầy đặn hơn, nhất là đôi má và cổ, tròn trịa đến mức vết cắt bỏ quả táo Adam đã biến mất, chỉ để lại một vết sẹo bé xíu trên da. Chẳng nhẽ đây cũng là do Greta tưởng tượng sao? “Chẳng gì hơn những thứ chúng ta đã thảo luận.”
“Bây giờ chị là Lili đúng không? Chị đã trở thành Lili Elbe chưa?”
“Chị vẫn luôn luôn là Lili.”
“Đúng vậy nhưng nếu nhìn xuống dưới, chị sẽ thấy gì?” “Đừng nghĩ như vậy,” Greta trả lời. “Đó chẳng phải là thứ duy nhất giúp chị biến thành Lili.”
“Cuộc phẫu thuật thành công chứ?”
“Có, bà Frau Krebs bảo thế.”
“Trông chị thế nào? Nói cho chị biết đi, Greta - trông chị ra sao?”
“Rất xinh xắn.”
“Chị bây giờ thực sự là phụ nữ sao?”
Một phần nào đó trong Greta vẫn còn chết lặng vì sốc. Chồng cô giờ đã không còn tồn tại nữa rồi. Cảm giác choáng váng râm ran giống như linh hồn anh vừa xuyên qua cơ thể cô. Một lần nữa, Greta Waud lại trở thành góa phụ, và cô nhớ đến quan tài của Teddy với hình ảnh vài con chim thiên đường khắc trên nắp nay đã chìm sâu dưới lòng đất. Nhưng cô không cần chôn cất Einar. Cô đẩy anh vào trong khoang tàu gắn rèm nỉ trên đường đến Đức. Và bây giờ anh đã ra đi - như thể đoàn tàu chỉ biết đâm đầu vào màn sương mù lạnh giá của tháng giêng rồi biến mất mãi mãi. Cô tưởng tượng nếu mình cất tiếng gọi tên anh, âm thanh sẽ vọng lại, rồi vọng lại, và vọng lại đến tận cuối đời.
Cô tiến lại gần Lili thêm một chút. Một lần nữa, Greta cảm thấy cần ôm lấy cô ấy, nên đôi tay cô ôm lấy đầu Lili. Mạch đập trên thái dương khẽ giật lên, và Greta ngồi bên mép giường bệnh với gương mặt ướt đẫm của Lili giữa lòng bàn tay. Greta nhìn xuyên qua chỗ trống trên tấm rèm và thấy bãi cỏ như bừng tỉnh khi mùa xuân đến bên dòng sông Elbe. Dòng sông chảy lững lờ như mây trôi trên bầu trời. Bên kia bờ sông, hai cậu bé mặc áo ấm đang cho hạ thủy một chiếc ca-nô.
“Ồ, xin chào,” một giọng nói phát ra từ cửa phòng. Đó là một cô gái trẻ với chiếc mũi hếch lên. “Chị có lẽ là Greta.”
Greta gật đầu, và cô gái nhẹ nhàng bước vào trong. Cô đang khoác trên mình chiếc áo dài và váy của phòng khám, chân mang dép lê. Lili lại ngủ thiếp đi và căn phòng trở nên ảm đạm. Trong góc phòng, lò sưởi đang kêu lách tách. “Em là Ursula,” cô gái tự giới thiệu. “Chúng em là bạn của nhau.” Cô hất cằm về phía Lili. “Chị ấy không sao chứ?”
“Chị nghĩ vậy. Nhưng bà Frau Krebs đã nói rằng ca phẫu thuật làm chị ấy mất rất nhiều sức.”
“Chị ấy hầu như ngủ cả ngày, nhưng khi tỉnh giấc, em thấy chị ấy có vẻ rất vui vẻ,” Ursula kể.
“Trước khi phẫu thuật, tình trạng chị ấy ra sao? Chị ấy có sợ hãi không?”
“Không hề. Chị ấy rất quý Giáo sư Bolk. Chị ấy sẵn lòng làm theo những gì ông ấy yêu cầu.”
“Ông ấy là một bác sĩ giỏi,” Greta tự nhủ với mình. Ursula mang đến một chiếc hộp nhỏ gói giấy bạc có in dòng chữ UNTER DEN LINDEN uốn lượn rất hoa mỹ. Cô đưa nó cho Greta và bảo, “Chị giúp em đưa cái hộp này cho Lili khi chị ấy thức dậy được không?”
Greta cảm ơn Ursula, chú ý đến cái bụng khá to của cô ấy. Nó căng phồng một cách kỳ lạ, bụng nhô cao, nhưng lại mấp mô như có nhiều khối u. “Em khỏe chứ?” Greta hỏi thăm.
“Ồ, em à? Em vẫn khỏe,” Ursula trả lời. “Càng ngày càng thấy mệt nhọc. Nhưng em mong đợi gì nữa?”
“Mọi người ở đây đối xử tốt với em chứ?”
“Bà Frau Krebs thì rất tốt. Lúc đầu thì có vẻ khó tính nhưng bà ấy cực kỳ tốt bụng. Và mấy cô gái khác cũng vậy. Nhưng Lili là người em thích nhất. Chị ấy thật ngọt ngào. Quan tâm tới tất cả mọi người, trừ bản thân mình.” Rồi cô nói tiếp, “Chị ấy kể với em về chị. Chị ấy rất nhớ chị.” Trong vài giây Greta tự hỏi ý của Ursula là gì, nhưng rồi lại phớt lờ. Chuyện đó chẳng hề quan trọng.
“Chị sẽ bảo em đã ghé qua chứ?” Ursula hỏi. “Chị sẽ đưa chị ấy những thỏi sô-cô-la chứ?”
Greta thuê một phòng ở khách sạn Bellevue. Ban đêm, sau khi để Lili ở lại Phòng khám Phụ Nữ Thành Phố Dresden, cô sẽ cố gắng vẽ tranh. Ánh sáng từ xà lan chở than đá hắt lên cửa sổ phòng cô. Thỉnh thoảng Greta mở toang cửa sổ, nên cô nghe được tiếng bình bịch và sột soạt của guồng đạp nước trên tàu du lịch, tiếng rít ken két của chiếc xà lan và tiếng leng keng của tàu điện phía ngoài trạm Theater-Platz.
Cô bắt đầu vẽ tranh giáo sư Bolk; bức tranh được thực hiện trên khung vải cỡ lớn mà cô mua được từ cửa hàng trên phố Alunstrasse. Cô ôm khung vải đã được cuộn chặt dưới tay mình rồi trở về khách sạn Bellevue, băng qua cầu Augustusbrủcke. Từ trên cầu với mấy ban công ngắm cảnh hình bán nguyệt, cô có thể thấy gần hết toàn cảnh thành phố Dresden: Lầu Brủhlsche với băng ghế mới sơn màu xanh, mái vòm hình củ hành bằng sa thạch của nhà thờ Frauenkirche ám đầy bồ hóng từ khói thải xe cộ, và những nhà máy luyện kim nằm trong thung lũng Plauenscher Grund; hàng cửa sổ lấp lánh ánh bạc của Cung Điện Zwinger. Một cơn gió từ bên kia sông thổi tốc vào cuộn vải bạt kẹp dưới tay Greta, và cô chụp được nó ngay trước khi nó kịp bung ra như cánh buồm gần phía cây cầu. Tấm vải bạt bay phần phật phủ lên bức tường đá sần sùi thấp lè tè. Trong lúc Greta đang cố gắng cuộn nó lại thì một bàn tay vỗ vào vai cô, và một giọng nói quen thuộc vang lên, “Để tôi giúp cô một tay nhé?”
“Tôi đang trên đường trở về khách sạn,” Greta nói khi Giáo sư Bolk đang nắm đầu tranh bên kia và cuộn lại như cuộn mành sáo bên cửa sổ.
“Chắc cô dự định vẽ một bức tranh lớn lắm nhỉ,” ông xuýt xoa.
Nhưng thật ra không phải vậy. Lúc đó, Greta còn chẳng biết mình muốn vẽ gì tiếp theo; bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để vẽ Lili.
“Ông đưa tôi về khách sạn được không?” Greta đề nghị, chỉ vào khu vườn trồng đầy cây dẻ trước cửa khách sạn Bellevue, trông như một anh bảo vệ hình dáng vuông vức ngồi trên ghế cao và vênh váo quan sát bãi cát bên sông Elbe.
“Tôi muốn nghe ông kể về ca phẫu thuật,” cô nói, “Về triển vọng của Lili.” Vài ngày vừa qua, cô cảm thấy Giáo sư Bolk như đang tránh mặt cô; cô đã có mặt ở Dresden hai ngày rồi mà ông ấy chưa hề hồi âm lời nhắn cô để lại trên quầy tiếp tân của bà Frau Krebs. Cô thậm chí còn đề cập với Ursula rằng cô muốn nói chuyện với giáo sư Bolk qua điện thoại. Nhưng ông chưa hề tới gặp cô. Giờ thì cô đưa ông về phòng mình trong khách sạn Bellevue. Họ ngồi trên ghế cạnh cửa sổ, uống cà phê được mang đến bởi cô hầu gái có dải ruy băng cột trên tóc.
“Cuộc phẫu thuật đầu tiên đã thành công”, Giáo sư Bolk bắt đầu. “Tương đối đơn giản. Những vết mổ hồi phục như dự kiến.” Ông kể cho Greta về ca phẫu thuật trong phòng chuyên dụng, chính là nơi Einar trở thành Lili trước bình minh của ngày hôm đó. Ông giải thích những kiểm tra định kỳ - xét nghiệm công thức máu, phân tích nước tiểu và theo dõi nhiệt độ cơ thể của Lili theo từng giờ - tất cả đều cho thấy dấu hiệu phục hồi tốt. Thuốc sát khuẩn Listerian đang bảo vệ Lili khỏi nguy cơ nhiễm trùng. “Giờ vấn đề đáng lo nhất vẫn là những cơn đau,” Giáo sư Bolk bày tỏ.
“Ông xử lý như thế nào?”
“Tiêm morphin hằng ngày.”
“Có rủi ro gì không?”
“Rất ít rủi ro,” ông trả lời. “Chúng tôi sẽ dừng việc tiêm thuốc cho cô ấy sau vài tuần tới. Nhưng bây giờ cô ấy cần nó.”
“Tôi hiểu rồi.” Nhờ có giáo sư Bolk bên cạnh, lo lắng của cô đã vơi đi phần nào. Ông chẳng khác gì những nhân vật quan trọng và bận rộn: rất khó để gặp được ông, nhưng một khi gặp được thì ông sẽ dành tất cả sự quan tâm cho bạn.
“Tôi còn lo về tình trạng chảy máu của cô ấy,” Giáo sư Bolk tiếp tục. “Cô ấy lẽ ra không nên xuất huyết như thế. Chuyện này khiến tôi lo rằng có gì đó bất thường trong mấy cơ quan nội tạng của cô ấy.”
“Chẳng hạn như?”
“Tôi không biết. Dập lá lách. Một lỗ thủng trên thành ruột. Khả năng nào cũng có thể xảy ra.” Ông bắt chéo chân. Greta có thể cảm nhận tim mình đập nhanh hơn vì sợ hãi thay cho Lili.
“Chị ấy sẽ ổn, đúng không? Tôi không nên lo lắng cho chị ấy, phải không nào?”
“Tôi đã phẫu thuật cô ấy,” Giáo sư Bolk tiếp lời.
“Ý ông là?”
“Tôi đã mở ổ bụng của cô ấy. Tôi biết có gì đó bất thường. Tôi đã thọc tay vào ổ bụng nhiều đủ để biết có gì đó bất thường.”
Trong phút chốc, Greta nhắm mắt lại và trong đầu cô hiện lên hình ảnh con dao mổ đang rạch một đường máu lên bụng Lili. Cô ép mình không tưởng tượng tới bàn tay của Giáo sư Bolk, với sự giúp đỡ của bà Frau Krebs, đang tách vết mổ ra.
“Sự thật thì Einar đúng là phụ nữ. Hoặc ít nhất một phần là phụ nữ.”
“Tôi biết mà,” Greta nói.
“Không. Tôi không nghĩ cô hiểu rõ.” Ông nhón lấy một chiếc bánh đường hình ngôi sao trên khay do người phục vụ mang tới. “Đó là một thứ khác. Một thứ rất đáng ngạc nhiên.” Mắt ông sáng lên vì thích thú, và Greta biết ngay ông ấy chính là loại bác sĩ muốn thứ gì đó - một căn bệnh, một quy trình phẫu thuật - được đặt theo tên mình.
“Trong bụng anh ta,” Giáo sư tiếp tục, “khuất dưới mớ ruột lộn xộn, tôi đã tìm thấy một thứ.” Giáo sư Bolk chắp tay lại rồi bẻ các khớp tay. “Tôi tìm thấy một cặp buồng trứng. Tất nhiên là không phát triển hoàn toàn. Nhưng buồng trứng có ở đó.”
Ngay lúc đó, Greta quyết định sẽ vẽ giáo sư Bolk: vai ngang, cánh tay dài ngoằng, cái cổ cao như mọc ra từ cổ áo hồ tinh bột, nếp nhăn mềm mại quanh mắt. Cô dựa ra sau lưng ghế. Một ca sĩ opera ở phòng bên cạnh, và Greta có thể nghe cô đang hát lời của nhân vật Erda trong vở Siegfried: khoảng âm giữa vang rền; giọng hát lao qua không khí như chim diều hâu. Giọng hát nghe giống hệt Anna, nhưng chuyện này là không thể nào vì Anna đang ở Copenhagen, biểu diễn tại Nhà hát Hoàng Gia lần đầu tiên sau mấy năm trời vắng bóng. Greta nghĩ, khi Lili cảm thấy khỏe hơn, cô sẽ dẫn chị ấy tới nhà hát opera, và cô tưởng tượng hai người nắm tay nhau trong bóng tối của nhà hát Semperoper, trong khi Siegfried đang tiến thẳng lên đỉnh núi bị lửa vây quanh của công chúa Brunnhilde.
“Chuyện này có ý nghĩa như thế nào với cô ấy?”, rốt cuộc cô cũng thắc mắc. “Hai buồng trứng này là thật hả?”
“Điều đó có nghĩa tôi chắc chắn chuyện này sẽ thành công.” Và ông còn thêm vào, “Chúng ta đang làm điều đúng đắn.”
“Vậy là ông cho rằng chuyện này giải thích hiện tượng xuất huyết sao?”
“Có lẽ thế,” ông nói, cao giọng hơn một chút. “Điều này giải thích gần như toàn bộ mọi thứ.”
Không, Greta nghĩ; cô biết hai buồng trứng này không thể giải thích tất cả mọi vấn đề.
“Có một tiến trình cấy ghép tôi muốn thử,” Giáo sư Bolk tiếp tục giảng giải. “Từ một cặp buồng trứng khỏe mạnh. Thủ thuật này đã từng được thử nghiệm với tinh hoàn nhưng chưa từng tiến hành trên cơ quan sinh dục nữ. Nhưng đã có vài kết quả.”
“Tôi muốn thu thập vài mẫu mô từ một cặp buồng trứng khỏe mạnh và ghép vào buồng trứng của Lili,” ông đề nghị. “Chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Để tìm ra buồng trứng thích hợp đấy.”
“Việc này tốn mất bao lâu?” Và cô hỏi tiếp, “Ông chắc chắn mình sẽ làm được chứ?”
“Không lâu lắm. Tôi đã cân nhắc đến một cô gái.”
“Từ phòng khám?”
“Có một cô gái trẻ đến từ Berlin. Chúng tôi cứ nghĩ là cô ấy có thai khi cô đến phòng khám. Nhưng hóa ra có một
khối u chiếm hết dạ dày của cô ấy.” Ông đứng dậy để rời đi. “Tất nhiên là cô ấy không biết gì cả. Có nói cho cô ấy biết bây giờ thì cũng chẳng có ích lợi gì. Nhưng có lẽ cô ấy là người thích hợp. Chỉ mất khoảng chừng một tháng nữa thôi.” Ông bắt tay Greta. Khi ông đã đi khỏi, Greta mở cái hộp sơn màu hai nắp đậy và bắt đầu lôi đống chai lọ ra ngoài, trải tấm vải tarpaulin, vọng lại từ bên kia tường là tiếng hát của cô ca sĩ opera, trầm thấp, chậm rãi rồi ngân cao theo từng nốt nhạc.
Vài tuần sau đó, Greta và Lili ngồi trong khu vườn của phòng khám. Hàng cây bạch dương và hàng liễu đang đâm chồi non mơn mởn. Hàng rào cây xanh vẫn còn lởm chởm nhưng hoa bồ công anh đã mọc khắp con đường lát gạch. Hai người làm vườn đang đào hố trồng thêm một hàng cây anh đào, rễ cây còn bọc trong bao. Mấy cành lý gai cũng bắt đầu trổ lá.
Một nhóm các cô gái mang thai đang ngồi thành vòng tròn trên bãi cỏ, trên tấm chăn họa tiết vuông và miệt mài đan cỏ. Họ mặc váy của phòng khám, vai áo rộng thùng thình đang phần phật trong gió. Đồng hồ treo dưới mái hiên đang điểm đúng giữa trưa.
Một đám mây trôi đến, khiến bãi cỏ tối đi trông thấy. Mấy cây anh đào đung đưa, và một hình bóng xuất hiện trước cửa phòng khám. Greta không nhận ra đó là ai. Ông mặc áo choàng thí nghiệm màu trắng, tà áo tung bay phấp phới như lá cờ hiệu treo dọc thân tàu du lịch đang chạy trên sông Elbe.
“Nhìn kìa,” Lili reo lên. “Đó là ngài giáo sư”
Ông tiến về phía hai người, và đám mây lại xê dịch, khuôn mặt giáo sư Bolk sáng lên, mặt trời phản chiếu lên cặp mắt kính của ông. Ông đi tới chỗ họ và cúi xuống thông báo, “Ngày mai nhé.”
“Chuyện gì cơ?” Lili thắc mắc.
“Ca phẫu thuật tiếp theo của cô.”
“Nhưng sao đột ngột quá vậy giáo sư?” Lili tò mò.
“Bởi vì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc cấy ghép mô. Chúng ta nên tiến hành phẫu thuật vào ngày mai.” Greta đã kể với Lili về tiến trình tiếp theo, về mô buồng trứng mà giáo sư Bolk sẽ cấy vào bụng cô.
“Tôi hy vọng mọi chuyện sẽ diễn ra đúng như kế hoạch,” Giáo sư Bolk đáp lời. Dưới ánh mặt trời, mặt ông trông thanh tú, đường gân xanh hiện rõ. Greta ước giá mà Hans đến Dresden cùng mình. Cô muốn bàn bạc với anh, muốn hỏi ý kiến anh - theo cách anh hay lấy tay che miệng khi đang suy nghĩ về một việc gì đó. Greta bỗng nhiên cảm thấy mệt nhoài.
“Nếu mọi chuyện không diễn ra đúng như kế hoạch thì sao?”, cô hỏi.
“Chúng ta sẽ đợi mà xem. Tôi muốn thử với mô của một cô gái trẻ.”
“Tất cả điều này thật khó tin,” Lili lẩm bẩm. Cô không nhìn vào Greta hay giáo sư Bolk. Mặt cô hướng về những cô gái đang nằm thành vòng tròn bên cạnh họ.
Khi giáo sư Bolk đi khỏi, Lili lắc đầu. “Chị vẫn không thể tin được,” cô nói, mắt vẫn dán lên những cô gái đó. “Ông ấy sẽ làm điều này, Greta à. Đúng như lời em nói. Ông ấy sẽ biến chị thành một cô gái bé bỏng.” Mặt Lili vẫn điềm tĩnh, chóp mũi cô đỏ ửng. Cô tiếp tục thì thào. “Chị nghĩ ông ấy có khả năng tạo ra điều kỳ diệu.”
Một cơn gió lạnh thổi tung tóc Greta qua vai, và cô nhìn về phía dãy cửa sổ mở hất dọc phòng thí nghiệm của Giáo sư Bolk - mấy bức tường trát vữa trang trí, hành lang lắp kính nối liền với phần còn lại của phòng khám. Nơi này nằm ngoài giới hạn đi lại của cô, nhưng Greta tưởng tượng được phòng phẫu thuật chia thành nhiều khoang và cáng cứu thương lạnh buốt, một kệ thuốc chất đầy các lọ maldehyde. Một trong mấy cánh cửa sổ được kéo lên, và trong một phút Greta có thể thấy được hình bóng mờ mờ của ai đó đang làm việc trong phòng thí nghiệm, đầu cúi xuống tập trung vào công việc; tiếp đó là người thứ hai - tất cả đều là những bóng đen - lại kéo cánh cửa sổ đóng lại; tòa nhà trát vữa trang trí toát ra màu vàng dưới ánh nắng và vẫn thiếu sinh khí như trước kia.
“Vậy là,” Greta kêu lên, “ngày mai nhỉ,” và cô đỡ Lili gối đầu lên đùi mình. Hai người nhắm mắt lại để cảm nhận hơi ấm yếu ớt từ mặt trời. Họ nghe tiếng kêu ré từ mấy cô gái trên bãi cỏ, và tiếng nước văng tung tóe từ guồng đạp nước trên sông Elbe. Greta nhớ về Teddy Cross, người cô đã từng cho rằng có thể mang lại phép màu. Đó là chuyện xảy ra với cái chân của Carlisle. Greta và Teddy mới cưới nhau được vài tháng, hai người sống cùng nhau trong ngôi nhà Tây Ban Nha ở Bakersfield. Lúc đó, mấy luồng gió nóng bức đầu tiên cũng bắt đầu thổi qua vườn cây bạch đàn.
Greta lúc đó đang thai bé Carlisle và phải nằm bẹp trên ghế sofa đặt mua từ cửa hiệu Gump. Một ngày nọ, Carlisle lái xe dọc tuyến đường Ridge Route trên chiếc Detroiter lắp chắn bùn màu vàng đến thăm họ và xem xét vài mỏ dầu tiềm năng.
Mùa xuân năm ấy, cánh đồng dâu tây trông như một tấm thảm xanh mướt, bao quanh ruộng là những bông hoa anh túc màu vàng bơ mọc đầy dưới chân đồi. Nhiều người đến từ Los Angeles và San Francisco đã đổ xô xuống vùng Baskersfield ngay khi có tin đồn rằng mỏ dầu nằm dưới lòng đất. Người nông dân sống ở phía Nam gia đình Teddy Cross đã dùng cuốc đào một cái giếng và tìm thấy mỏ dầu. Teddy tin chắc rằng cha mẹ anh cũng có thể kiếm được mỏ dầu, và Greta thầm hỏi liệu Teddy có cảm thấy cần phải trở nên giàu có để xứng với cô hay không. Suốt mấy buổi chiều tà, sau khi chăm sóc Greta xong xuôi, anh sẽ lái xe dọc đường mòn vào khu đất nhà họ Cross và khoan dưới cái bóng đổ dài của cây sồi già. Anh sử dụng một dụng cụ có lưỡi xoay tròn có thể kéo dài kèm với phụ tùng; khi mặt trời làm mặt lá phía dưới ánh bạc sáng lấp lánh, anh bắt đầu dí mũi khoan xuống lớp đất mùn.
Sau đó một thời gian, Carlisle lái xe đến Bakersfielf. Anh vẫn đi khập khiễng, hai tay chống trên cặp nạng làm thủ công gắn với khuỷu tay, phần tay cầm có đường rãnh được khắc từ ngà voi. Anh còn có một cặp nạng thủ công làm từ bạc cao cấp chuyên dùng cho những dịp đặc biệt mỗi khi bà Waud yêu cầu. Đêm đầu tiên trong căn nhà Tây Ban Nha, khi Greta đang ngủ, sau này cô mới biết, Teddy chở Carlisle tới mảnh đất nhà họ Cross và chỉ cho anh cái giếng. “Em lo rằng sẽ làm họ thất vọng,” Teddy nói về ba mẹ anh, hai người đang quây quần trong căn nhà nhỏ, bức tường ván gỗ có những kẽ hở đủ rộng cho gió luồn qua. Cái hố trên mặt đất rộng bằng bắp đùi và được che đậy bởi một tấm ván gỗ. Teddy kéo lên một mẫu đất từ cái ly cột trên dây thừng. Họ quan sát mẫu đất, miệng hai chàng trai trẻ đều há hốc. Teddy nhìn sang Carlisle, mong đợi anh ấy, chỉ vì anh đang học tại Stanford, sẽ biết cách nhận ra thứ gì đó từ cái ly chứa toàn đất đen. “Anh nghĩ sẽ có dầu dưới đấy chứ?” Teddy hỏi.
Nhìn lên cây sồi nhiều mắt mọc cạnh cánh đồng dâu tây, rồi lại ngước lên bầu trời tim tím, Carlisle trả lời, “Anh không biết nữa.”
Họ ở đó nửa giờ, đứng dưới hoàng hôn, trong khi gió cuốn tung rồi tấp bụi mù vào mắt cá chân. Vòm trời trở nên tối dần và những ngôi sao bắt đầu sáng lấp lánh. “Đi thôi,” Teddy nói, và Carlisle, người chưa bao giờ đổ lỗi cho Teddy Cross vì tất cả mọi chuyện xảy đến với Greta dù chỉ một lần, đáp lại, “Được thôi.”
Teddy đi tới chỗ xe tải, còn Carlisle bước theo sau, nhưng phần đầu cái nạng lại kẹt giữa hai tấm ván trên sàn, và điều tiếp theo anh biết là chân anh, chính là cái chân què, trượt xuống giếng như một con rắn. Anh đáng lẽ đã phá lên cười khi biết mình ngã sóng soài trên nền đất, nhưng lại cảm nhận được cái chân đau điếng. Teddy nghe thấy tiếng kêu của Carlisle nên chạy lại chỗ cái giếng khô rồi hét lên, “Anh không sao chứ? Anh tự đứng dậy được không?”
Carlisle không tự đứng dậy được, chân anh bị mắc vào cái hố. Teddy bắt đầu dùng xà beng phá từng miếng ván, những tấm gỗ bung ra kèm với tiếng kẽo kẹt vang khắp cánh đồng. Chó sói ở chân đồi cũng bắt đầu tru lên và màn đêm yên tĩnh ở Bakersfield lập tức bị khuấy động bởi tiếng rên của Carlisle. Một giờ trôi qua cho đến khi chân anh được kéo ra, để lộ ống quyển bị gãy. Không chảy máu nhưng màu da tím thẫm còn hơn màu mận chín. Teddy đỡ Carlisle vào xe tải rồi lái xe về phía tây ngay trong đêm, băng qua chiều dài của thung lũng, cánh đồng thay đổi từ dâu tây đến rau diếp đỏ, tiếp đó là vườn nho, cuối cùng là vườn hồ đào, rồi lại xuyên qua mấy ngọn núi để tiến vào quận Santa Barbara. Đến nửa đêm, bác sĩ đeo kính một mắt nắn lại chân cho Carlisle trong khi cô y tá trực đêm với mái tóc ngắn đỏ quạch nhúng mấy miếng gạc vào chậu thạch cao. Rồi phải rất lâu sau đó, gần lúc bình minh, Teddy và Carlisle mới chạy vào con đường rợp bóng tre hướng vào căn nhà Tây Ban Nha. Họ mệt lử nhưng cuối cùng cũng về tới nhà.
Greta vẫn còn đang ngủ say sưa. “Cô chủ vẫn ngủ say từ khi cậu rời khỏi nhà,” Akiko nói, quầng mắt thâm đen như vết bầm trên cẳng chân Carlisle. Khi tỉnh giấc, Greta buồn ngủ và choáng váng đến mức chẳng phát hiện ra lớp thạch cao bó trên chân Carlisle. Lớp thạch cao giống phấn đến nổi khi Carlisle lê chân đến đâu là để lại ít bụi trắng đến đấy. Greta có chú ý đến lớp bụi, nhưng thờ ơ - vì cô vẫn luôn tỏ ra như thế với việc nhà - tự hỏi rốt cuộc nó từ đâu ra, rồi quét nó xuống cái đệm đặt trên trường kỷ. Cô biết Carlisle bị thương nhưng chuyện này chẳng hề để lại dấu ấn gì trong đầu cô. “Ồ, anh khỏe,” Carlisle nói thế, và Greta cũng cho qua chuyện đó bởi vì chỉ có một cách để định nghĩa tình trạng của cô lúc này là giống như bị đầu độc. Cô nhìn vào lớp thạch cao rồi cụp mắt lại. Khi mùa hè trôi qua, thủy ngân trong nhiệt kế vượt hơn 470C, rốt cuộc Greta cũng hạ sinh đứa bé, và lớp thạch cao cũng được tháo ra khỏi chân Carlisle. Đứa trẻ chết non còn chân Carlisle thì khỏe hơn bao giờ hết, tính từ lúc cô và Carlisle sáu tuổi. Chân vẫn còn hơi khập khiễng, nhưng Carlisle không cần phải chống nạng nữa, và anh có thể bước xuống phòng khách trong căn nhà Tây Ban Nha mà không cần phải bám vào tay vịn.
“Đó là điều tốt đẹp duy nhất xuất hiện ở Bakersfield.” Greta thỉnh thoảng lại nói.
Sau đó, trong quãng thời gian còn lại của cuộc hôn nhân, Greta đã nghĩ Teddy Cross là người có thể mang lại điều thần kỳ - đối với Greta, một khi thấy anh ấy bặm môi tập trung thì chuyện gì cũng giải quyết được. Nhưng khi Lili dùng cụm từ này để nói về Giáo sư Bolk, Greta nhìn xuống dòng sông Elbe, đếm từng con tàu rồi đếm từng cô gái trên bãi cỏ và cất tiếng, “Chúng ta sẽ chờ xem sao.”