Hai mươi tám
Chỉ một ngày sau khi Lili và Carlisle khởi hành đến Dresden, cơn bão mùa hè ập tới. Greta đang ở trong căn hộ, ở phòng trước, tưới nước cho chậu thường xuân đặt trên cái bàn ba chân kiểu Đế Vương. Căn phòng ảm đạm vì không có ánh mặt trời, còn con Edvard IV đang nằm ngủ ngay cạnh rương chứa đồ của cô. Gã thủy thủ dưới lầu đã ra khơi, có lẽ lúc này đang mắc kẹt giữa mưa bão, có tiếng chớp đùng đùng và sau đó là tiếng cười khúc khích của cô vợ gã ta.
Cô nghĩ đúng là khôi hài. Nhiều năm đã trôi qua, với sự lặp đi lặp lại bất tận của cảnh bình minh trên đất Đan Mạch, khắp thế giới, rồi đến hoàng hôn phủ xuống hẻm núi Arroyo Seco và dãy núi San Gabriel. Nhiều năm ở California và Copenhagen, nhiều năm ở Paris, nhiều năm kết hôn rồi lại độc thân, và giờ thì cô ở đây, trong khu nhà Widow House trống vắng, rương hòm chồng chất được khóa lại. Lili và Carlisle chắc sẽ đến Dresden ngay hôm đó, nếu mưa lớn không làm hành trình của họ chậm trễ. Ngày hôm qua cô và Lili đã chia tay nhau tại cảng tàu. Mọi người xung quanh tay xách nách mang, trong tay còn ôm mấy con chó, một nhóm người thì đưa cả xe đạp lên boong tàu. Hans cũng có mặt ở đó, cùng Carlisle, Greta, Lili và hàng trăm người khác. Tất cả đều trò chuyện rất lâu. Một nhóm học sinh được dẫn dắt bởi mấy cô giáo chủ nhiệm. Đám trai trẻ gầy gò kiếm việc làm. Còn có cả phu nhân bá tước đang trên đường đến khu tắm khoáng ở thị trấn Baden- Baden để nghỉ dưỡng suốt cả tháng. Greta và Lili đứng cạnh và nắm lấy tay nhau, quên hết mọi người xung quanh họ. Đây là lần cuối cùng Greta gạt hết tất cả mọi thứ còn lại của thế giới sang một bên. Mọi thứ cô biết và cảm nhận được giờ thu hẹp lại thành vòng tròn thân mật nơi cô và Lili đang đứng, tay cô ôm eo Lili. Hai người hứa sẽ viết thư cho nhau. Lili hứa sẽ chăm sóc bản thân mình. Lili còn thỏ thẻ đến mức chẳng nghe được gì rằng họ sẽ gặp lại nhau tại Mỹ. “Đúng vậy”, Greta đáp, nhưng lại khó lòng mường tượng ra việc đó. Nhưng cô vẫn nói tiếp, “Được, chắc chắn rồi”. Khi nghĩ đến việc này, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Greta, chính là sống lưng kiểu phương Tây của cô, bởi vì điều đó mang lại cảm giác cô đã thất bại trong chuyến khởi hành trên cảng này.
Còn lúc này, Greta đang đợi tiếng còi của Hans từ dưới phố. Ngoài trời, mái đỉnh nhọn, đầu hồi và mái ngói sẫm đen trong mưa bão, mái vòm của Nhà hát Hoàng Gia trông xỉn màu như đồ thiếc cũ. Rồi tiếng còi của Hans cũng vang lên, Greta ôm con Edvard IV trong tay và tắt điện, then cửa nặng nề xoay một phát.
Cơn bão vẫn tiếp tục và đường lái xe ra khỏi thành phố cực kỳ trơn. Những khu căn hộ chìm trong mưa bão. Những vũng nước nuốt chửng lề đường. Greta và Hans nhìn thấy một người phụ nữ tròn trĩnh ngồi trên chiếc xe đạp, cơ thể bà quấn chặt trong áo mưa, vừa va chạm với đuôi xe tải của ông thợ nề. Greta giơ tay che miệng khi nhìn thấy người phụ nữ nhắm tịt mắt lại vì hoảng sợ.
Khi hai người ra khỏi địa phận thành phố, chiếc xe Horch màu vàng, với mui trần màu trắng đã kéo kín, bắt đầu bon bon băng qua mấy cánh đồng. Cánh đồng cỏ mạch Ý, cỏ đuôi mèo, cỏ đuôi trâu và cỏ chân gà ướt sũng, oằn mình trong mưa. Cỏ ba lá trắng và đỏ, cỏ linh lăng cùng cỏ ba lá thường mọc hai bên đường nghiêng ngả xiêu vẹo và ướt đẫm. Xa xa phía cánh đồng là mấy hồ nước lòng chảo sâu thăm thẳm đang lăn tăn gợn sóng.
Chuyến phà đến thành phố Ảrhus chạy bập bềnh trên sóng, Hans và Greta ngồi ở ghế trước của chiếc xe Horch suốt lúc đi qua phà. Chiếc xe nồng nặc mùi lông con Edvard IV ướt nhẹp và xoăn tít vì mưa. Hans và Greta không nói lời nào, cô có thể cảm nhận động cơ chiếc phà đang rung lên khi cô đặt tay lên bảng đồng hồ. Hans hỏi cô có cần một ly cà phê không và cô bảo có. Anh ôm con Edvard IV theo, sau đó, khi ngồi một mình trong xe cô nghĩ tới chuyến hành trình mà Lili và Carlisle đang trải qua; chỉ vài giờ nữa thôi, hai người chắc sẽ an vị ở phòng khám, trong căn phòng hướng ra hàng cây liễu trong vườn phía sau, chỗ gần sông Elbe. Greta nhớ đến Giáo sư Bolk, cô đã vẽ lại một bức giống y hệt giáo sư nhưng chưa từng rao bán; bức tranh được cuộn lại và đặt đằng sau tủ quần áo. Greta tự nhủ vài ngày tới đây, khi quay lại Copenhagen, sau khi sắp xếp xong mớ đồ nội thất, áo quần và tranh vẽ, cô sẽ gửi bức tranh đến cho ông. Bức tranh này có thể được treo phía sau quầy tiếp tân của bà Frau Krebs, lồng trong khung gỗ màu xám. Hoặc treo trong phòng ông, ngay trên ghế sofa, nơi mà vài năm nữa thôi, những cô gái tuyệt vọng như Lili chắc chắn sẽ đổ xô đến như trẩy hội.
Khi họ đến khu đầm lầy Bluetooth thì trời đã tối khuya. Căn hộ bằng gạch tối om, phu nhân bá tước đã đi nghỉ trong phòng mình ở tầng ba. Một người quản gia với mấy cụm tóc bạc và cái mũi hếch dẫn Greta vào một căn phòng có giường phủ ren. Ông mở đèn lên, gương mặt với cái mũi hếch chồm ra phía trước khi mở cửa sổ. “Cô không sợ ếch nhái chứ?” ông hỏi. Cô vừa nghe thấy tiếng kêu ộp ộp của chúng ở trong khu đầm lầy. Khi người quản gia rời khỏi phòng, Greta mở rộng thêm mấy cửa sổ khác. Đêm trong trẻo, vầng trăng bán nguyệt treo lơ lửng trên bầu trời, và Greta có thể nhìn thấy đầm lầy xuyên qua chỗ trống giữa đám cây tần bì và cây du. Đầm lầy nhìn giống như một cánh đồng ướt nhẹp, hay bãi cỏ bạt ngàn ở Pasadena ngập nước sau trận mưa tháng giêng. Cô nghĩ về lũ giun đất đang ngoi lên từ lòng đất sau cơn mưa mùa đông như trút nước, quằn quại trên con đường lát đá để tránh bị chết đuối. Cô có đúng là kiểu trẻ con dùng dao cắt bơ trộm trong bếp của mẹ để cắt con giun ra làm đôi, rồi bỏ lên đĩa đặt dưới cái chuông bạc ấm áp, xong mang ra khoe với Carlisle không nhỉ?
Rèm cửa may bằng vải đục lỗ màu xanh, từ trên cao phủ xuống tận sàn, xòe ra như tà váy cưới. Hans gõ cửa và nói vọng qua cánh cửa, “Greta, anh xuống sảnh. Em có cần gì không?” Có gì chất chứa trong giọng nói của anh. Greta có thể cảm nhận khớp ngón tay anh chạm vào cánh cửa, còn tay kia thì đặt hờ lên nắm cửa. Cô tưởng tượng anh đứng dưới sảnh, chiếu sáng bởi bóng đèn duy nhất gắn trên tường nằm tít trên lầu cao nhất. Cô tưởng tượng trán anh ép lên cửa.
“Bây giờ thì không cần gì đâu,” cô trả lời. Và sau đó là một khoảng im lặng, chỉ có tiếng ếch nhái đang ngâm nga đoạn điệp khúc trên bãi than bùn, và tiếng cú đêm đậu trên cây du. “Được rồi,” Hans đáp, sau đó Greta không hề nghe thấy tiếng anh quay về phòng, tiếng đôi chân mang tất của anh di chuyển dọc hành lang. Cô tự nhủ thời gian của hai người sẽ đến thôi. Tất cả đều kịp lúc mà.
Ngày hôm sau Greta gặp phu nhân bá tước Axgil trong phòng ăn sáng. Căn phòng hướng ra khu đầm lầy đang lấp lánh giữa hàng cây. Xung quanh căn phòng, những nhánh dương xỉ trồng trong chậu đặt ngay ngắn trên giá sắt, còn có nguyên một bộ sưu tập đĩa sứ màu xanh pha trắng được gắn trên tường. Phu nhân bá tước Axgil trông có vẻ hốc hác, tĩnh mạch hằn lên chạy dọc đôi tay bà. Đầu bà, với kích cỡ và hình dáng đúng kiểu đầu tóc Borreby, được chống đỡ bằng cái cổ chắc nịch và gân guốc. Mái tóc bạc của bà được cột gọn gàng ra sau, phần mái lấp lửng trên mắt. Phu nhân bá tước ngồi đầu bàn, Hans ngồi đối diện bà ấy, còn Greta ngồi ở giữa. Người quản gia dọn món cá hồi xông khói, trứng luộc chín, cùng với mấy miếng bánh mì phết bơ hình tam giác. Phu nhân bá tước Axgil chỉ nói, “Mẹ e rằng mình chẳng nhớ nổi người nào tên là Einar Wegener. W-E-G, đúng không? Có rất nhiều cậu bé đến nhà chơi. Cậu ta có mái tóc màu đỏ phải không?”
“Không phải, tóc cậu ấy màu nâu,” Hans trả lời.
“Đúng vậy. Màu nâu,” phu nhân bá tước gật gù. Bà đã ôm Edvard vào lòng và đút cho chú vài miếng cá hồi. “Mẹ chắc rằng đó là một cậu bé tốt bụng. Qua đời bao lâu rồi?”
“Khoảng một năm ạ,” Greta đáp lại, cô nhìn vào đầu này của bàn ăn, rồi lại quay qua đầu kia, rồi lại nhớ tới phòng ăn sáng ở nửa kia thế giới, nơi có một người phụ nữ khác với phu nhân bá tước vẫn đang trị vì.
Đến trưa, Hans đưa cô xuống con đường chạy dọc cánh đồng rêu nước dẫn đến nông trại. Căn nhà có mái lợp bằng rơm và mái chìa bằng gỗ, còn có một luồng khói bay ra từ ống khói. Hans và Greta không tiến vào sân nhà, nơi có mấy con gà mái nhốt trong chuồng và ba đứa nhỏ đang dùng que củi nạo bùn. Một người phụ nữ tóc vàng đang đứng trước cửa, nheo mắt nhìn về phía mặt trời, trông chừng lũ trẻ, hai bé trai và một bé gái. Con ngựa nhỏ đang bị nhốt trong chuồng bỗng nhiên hắt hơi, sau đó lũ trẻ cười rộ lên, và con Edvard IV già nua cụp đuôi run rẩy dưới chân Greta. “Anh cũng không biết bọn họ là ai nữa,” Hans nói. “Họ ở đó cũng được một thời gian rồi.”
“Anh có nghĩ cô ấy sẽ cho chúng ta vào nhà nếu chúng ta xin phép không? Chỉ nhìn xung quanh một chút mà thôi?” “Đừng làm vậy,” Hans trả lời, tay anh đặt sau eo cô rồi cứ để đó suốt thời gian hai người băng qua cánh đồng. Những lá cỏ dài hình lưỡi dao sượt qua hai ống quyển của cô. Còn con Edvard IV chậm chạp lẽo đẽo phía sau.
Trong nghĩa địa, có một cây thập giá bằng gỗ đề tên WEGENER. “Cha của cậu ấy,” Hans nói. Một ngôi mộ xanh um cỏ nép mình dưới bóng cây trăn màu đỏ. Nghĩa địa nằm cạnh nhà thờ được quét vôi trắng. Mặt đất gồ ghề, lổn nhổn đá lửa, những hạt sương đọng trên bãi cỏ bốc hơi dưới ánh nắng, làm cho không khí có mùi ẩm ướt.
“Em vẫn giữ những bức tranh của anh ấy,” cô nói.
“Cứ giữ chúng,” Hans đáp lại, tay anh vẫn đặt trên eo cô.
“Hồi nhỏ anh ấy trông như thế nào?”
“Một cậu bé với một điều bí mật. Chỉ thế thôi. Chẳng có gì khác với chúng ta hết.”
Bầu trời cao không một bóng mây, và gió lùa qua tán lá cây trăn màu đỏ. Greta ép mình ngừng suy tư về quá khứ và tương lai. Mùa hè ở Jutland, chẳng khác gì với những ngày hè hồi anh còn trẻ, những ngày tháng mà Einar cảm thấy vừa hạnh phúc vừa buồn bã. Cô đã về lại quê nhà mà không có anh. Greta Waud, dong dỏng cao giữa đám cỏ, bóng cô phủ xuống những bia mộ, sẽ quay về nhà mà không có anh.
Trên đường lái xe quay về Copenhagen, Hans thắc mắc, “Còn chuyện đi California thì sao? Chúng ta vẫn đi chứ?”
Chiếc Horch với động cơ mười hai xi lanh vẫn đang chạy bon bon, cảm giác xe rung rung truyền lên da cô. Mặt trời sáng chói, mui xe đã hạ xuống, và có một tờ giấy quấn quanh mắt cá chân Greta. “Anh nói gì cơ?” cô hét lên, tay túm chặt mái tóc.
“Chúng ta sẽ đi California cùng nhau chứ?” Và ngay khi cơn gió ào ạt lùa quanh người cô, làm tóc và tà váy cùng với mảnh giấy bay phần phật, hàng loạt ý nghĩ hỗn loạn lướt qua đầu cô: căn phòng nhỏ ở Pasadena với cửa sổ vòng cung nhìn ra vườn hoa hồng, căn nhà nhỏ bên hẻm núi Arroyo Seco, đang được một gia đình cùng cậu con trai còn nhỏ tuổi thuê lại; dãy cửa sổ trống trơn tại xưởng gốm cũ kỹ của Teddy Cross trên phố Colorado, đã biến thành xưởng in báo sau vụ hỏa hoạn; những thành viên của Hiệp hội Nghệ Thuật và Thủ Công vùng Pasadena đang đội mũ nồi làm bằng vải nỉ. Làm sao Greta có thể quay về nơi đó? Nhưng trong đầu cô còn tồn tại nhiều ý nghĩa khác. Sau đó Greta nhớ đến khoảng sân nhỏ đầy rêu trong căn nhà nhỏ mà cô đã vẽ bức chân dung đầu tiên về Teddy Corss dưới ánh sáng rọi qua cây bơ; dãy nhà nhỏ mà Carlisle xây dựng trên mấy con phố nối với đại lộ California, nơi các cặp vợ chồng mới cưới từ Illinois đến định cư; và còn cả vườn cam rộng mấy mẫu. Greta nhìn lên trời, chăm chú quan sát màu xanh nhạt khiến cô nhớ đến những chiếc đĩa cổ xưa treo trên tường trong phòng ăn sáng của phu nhân bá tước. Bây giờ là tháng sáu, đám rạ ở Pasadena chắc đã cháy rụi, những nhành cọ trở nên khô giòn, và chắc hẳn các cô hầu gái đã kéo mấy chiếc giường xép ra ngoài phòng hóng mát. Sau nhà có một chỗ hóng mát với tấm chắn gắn bản lề. Hồi còn bé, Greta thường mở tấm chắn để nhìn ra ngoài, lướt mắt qua hẻm núi Arroyo Seco đến đồi Linda Vista, rồi phác họa quang cảnh Pasadena với thảm cỏ xanh khô cằn đang dập dờn. Cô tưởng tượng mình dọn đống sơn màu ra, lắp ráp giá vẽ trên phòng hóng mát và vẽ lại cảnh vật đằng xa: màu nâu xám của bóng cây bạch đàn mờ mờ, màu xanh bụi bặm của mấy nhánh cây bách, ánh hồng hắt ra từ lớp vữa trang trí trát trên ngôi nhà kiểu Ý lấp ló sau bụi trúc đào, màu xanh của lan can xi măng trải dài khắp bức tranh.
“Em sẵn sàng để rời đi,” Greta thốt lên.
“Gì vậy em?” Hans hét lên trong cơn gió.
“Anh sẽ thích cảnh quan nơi đó. California luôn khiến thế giới trở nên cách xa hơn.” Cô rướn người và vuốt ve đùi Hans. Mọi chuyện rồi cũng kết thúc như vậy: cô và Hans sẽ quay về Pasadena, rồi cô nhận ra chẳng ai ở đó có thể hiểu được chuyện gì đã xảy ra với cô. Những cô gái trong câu lạc bộ Valley Hunt, chắc chắn đều đã kết hôn, con cái chắc cũng đủ tuổi đăng ký học chơi quần vợt tại sân câu lạc bộ, nên sẽ chẳng biết gì về cô ngoài chuyện cô đã quay về cùng với một nam tước Đan Mạch. Chưa gì hết mà Greta đã nghe thấy mấy lời bàn tán: “Tội nghiệp Greta Waud thật. Lại trở thành quả phụ. Có chuyện gì đó rất bí ẩn đã xảy ra với người chồng gần đây nhất. Hình như là họa sĩ hay sao đó. Lại bí ẩn chết đi. Tôi nghĩ mình nghe được là ở Đức. Nhưng đừng lo - cô ta đã quay về, lần này còn mang theo một nam tước. Đúng vậy, cô nàng “Cấp Tiến” bé bỏng đã trở lại Pasadena và ngay khi cô ta cưới anh chàng đó, cô ta, chứ không phải ai khác, sẽ trở thành phu nhân nam tước.”
Đó là những gì đang chờ Greta ở phía trước nhưng cô vẫn giữ tâm trạng thoải mái khi nghĩ đến chuyện về quê. Tay cô đặt trên đùi Hans và anh mỉm cười với cô, bàn tay anh đặt trên vô-lăng của chiếc Horch để đưa cả hai hướng về Copenhagen.
Một bức thư từ Carlisle đang chờ cô. Sau khi đọc xong, cô nhét bức thư vào ngăn nhỏ của một trong mấy chiếc rương đang gói gém. Quá nhiều thứ cần được gửi về nhà: cọ vẽ, sơn màu, hàng tá sổ tay và tập phác thảo về Lili. Đúng là Carlisle chẳng bao giờ nói quá nhiều: ca phẫu thuật diễn ra lâu hơn dự kiến của Giáo sư Bolk, kéo dài gần một ngày. Lili đang nghỉ ngơi, đã ngủ sau khi được tiêm morphin. Carlisle còn viết rằng anh sẽ ở lại Dresden lâu hơn dự định. Thêm vài tuần nữa. Quãng thời gian hồi phục của Lili sẽ kéo dài hơn chúng ta tưởng. Cho tới giờ thì tốc độ hồi phục vẫn chậm chạp. Giáo sư đúng là tốt bụng. Ông ấy gửi lời hỏi thăm. Ông ấy nói rằng ông không hề lo lắng gì về Lili. Nếu ông không lo chút nào thì anh nghĩ chúng ta cũng chẳng cần phải lo lắng, đúng không em?
Một tuần sau đó, Greta Waud và Hans Axgil bước lên chuyến bay của hãng hàng không Deutscher Aero Lloyd để khởi hành đến Pasadena. Hai người sẽ bay đến Berlin, rồi nối chuyến đến Southampton; từ đó họ sẽ lên tàu. Chiếc máy bay đang đậu trên đường băng sân bay Amager phản chiếu một ngày hè đẹp trời. Greta đứng cạnh Hans và quan sát mấy cậu bé gầy nhom chất đống rương và thùng vào phần bụng màu bạc của chiếc máy bay. Xa xa về phía đường băng là một đám đông vây quanh bục cao, nơi một người đàn ông đội mũ chóp cao đang đứng diễn thuyết. Ông ta có râu quai nón và trên giá để bài giảng còn cắm một lá cờ Đan Mạch đang bay phất phới trong gió. Đằng sau ông là chiếc khinh khí cầu có gắn động cơ Graf Zeppelin khá dài và có màu xám giống bão tố, trông không khác gì một viên đạn khổng lồ. Đám đông bắt đầu vẫy cờ Đan Mạch. Cô đọc được trên tờ Politiken rằng chiếc khinh khí cầu GrafZepp đang chuẩn bị cất cánh đến vùng địa cực. Greta ngắm nhìn đám đông reo hò khi chiếc khinh khí cầu Zeppelin bay lơ lửng trên đường băng. “Anh có nghĩ họ sẽ thành công không?” cô hỏi Hans.
Anh đang với tay lấy cái vali da bê. Chiếc máy bay đã sẵn sàng. “Sao lại không?”
Người đàn ông đang diễn thuyết là một chính trị gia mà cô không thể nhận ra. Chắc là đang chạy đua vào nghị viện quốc hội. Và đứng đằng sau ông là thuyền trưởng của chiếc khinh khí cầu GrafZepp, ông Franz Josef Land đang đội mũ lông hải cẩu. Ông chẳng hề nở nụ cười nào. Hàng lông mày trên đôi kính như nhíu lại, và ông có vẻ lo lắng.
“Đến giờ rồi,” Hans nhắc.
Tay cô vòng qua khuỷu tay anh, rồi họ tìm thấy ghế ngồi trên máy bay. Cô có thể nhìn thấy chiếc khinh khí cầu qua ô cửa sổ, còn đám đông đang tản ra xa khỏi chiếc khinh khí cầu. Mấy người đàn ông mặc áo sơ mi tay dài và dây đeo quần bắt đầu tháo dây buộc. Thuyền trưởng đứng trong buồng lái vẫy tay chào tạm biệt.
“Ông ta trông như thể đang băn khoăn liệu mình có trở về được hay không,” Greta nói, khi bánh xe khẽ xoay để khóa cửa máy bay.
Cuộc hành trình trên tàu Empress of Britannia hết sức thuận lợi, rất đông hành khách ngồi trên ghế dựa kẻ sọc đặt trên boong tàu gỗ tếch, và Greta nhớ lại cảnh mình trồng cây chuối khi mới mười tuổi. Cô ráp giá vẽ lại, bẻ then chốt hình bươm bướm vào ngay mấy cái lỗ đục trên chân giá vẽ. Cô lôi một mảnh vải bạt trắng tinh ra khỏi rương, đóng đinh cố định vải bạt trên khung. Và trên boong tàu, cô bắt đầu vẽ lại cảnh vật trong ký ức: những ngọn đồi ở Pasadena nhú lên từ hẻm núi Arroyo Seco vốn khô cằn và cháy nắng từ khi trời mới vào hạ, hàng phượng tím với đám hoa rụng lả tả, và đám hoa kim châm nở muộn oằn mình trong cái nóng. Chỉ cần nhắm mắt lại là cô đã hình dung được tất cả.
Vào buổi sáng, Hans nhốt mình trong phòng riêng để giải quyết mớ giấy tờ và chuẩn bị cho chuyến đi tới California, nơi mà hai người sẽ tổ chức đám cưới trong khu vườn của nhà họ Waud. Chiều đến, anh kéo ghế bố lại gần cô. “Cuối cùng chúng ta cũng rời đi”, anh reo lên.
“Quay về nhà thôi,” cô đáp lại. “Em chưa từng nghĩ mình sẽ muốn về nhà thế này.”
Rốt cuộc cũng đi đến bước này, Greta đã nghĩ đi nghĩ lại, nhúng đầu cọ vẽ âm ẩm vào sơn màu. Quá khứ đã trôi qua và tương lai trải dài trước mắt; cô đã suy tính tất cả mọi việc một cách nhanh chóng và cẩn trọng, rồi rốt cuộc cũng đi đến bước này. Hans quả là đẹp trai khi duỗi chân trên ghế dài. Nửa người anh đang tắm nắng, nửa còn lại thì không, và con Edvard IV đang nằm trên chân anh. Động cơ tàu thủy cứ rung lên bần bật. Mũi tàu rẽ mặt biển ra làm hai, chia đôi dòng nước nhấp nhô, cắt ngang những thứ tưởng chừng như vô tận thành hai nửa. Greta và Hans tiếp tục hí hoáy làm việc dưới ánh nắng xiên xiên, trong không khí nặng mùi muối biển, suốt từ lúc hoàng hôn đỏ rực buông xuống mặt biển phẳng lặng đang thụt lùi, cho tới khi mặt trăng ló dạng và dãy đèn trắng treo dọc lan can con tàu bật sáng, rồi làn gió lạnh về đêm khiến hai người quay về phòng ngủ, nơi họ rốt cuộc sẽ được ở bên nhau.