← Quay lại trang sách

Chương 4 KHÁCH SẠN KING DAVID, JERUSALEM--

CHIỀU NGÀY 22 tháng Bảy năm 1946, nhóm phục quốc Do Thái cực đoan được biết dưới cái tên Irgun đã cho nổ một quả bom có tầm sát thương rộng lớn ở Khách sạn King David, tổng hành dinh của tất cả các lực lượng quân sự và dân sự Anh ở Palestine. Cuộc tấn công nhằm trả thù cho hàng trăm chiến binh Do Thái bị bắt giữ, đã giết chết chín mươi mốt người, gồm cả hai mươi tám thần dân Vương quốc Anh đã phớt lờ cú điện thoại cảnh báo phải sơ tán khỏi khách sạn. Mặc dù bị lên án khắp thế giới, vụ đánh bom này nhanh chóng tỏ ra là một trong những hành động bạo lực chính trị hữu hiệu nhất từng được tiến hành. Trong vòng hai năm, người Anh đã rút quân khỏi Palestine, và Nhà nước Israel hiện đại từng là một giấc mơ không tưởng nay đã thành hiện thực.

Trong số những người may mắn thoát chết trong vụ đánh bom ấy có một sĩ quan tình báo Anh trẻ tuổi tên là Arthur Seymour, một cựu chiến binh từng tham gia chương trình Song Thập (Double Cross - mật danh của một điệp vụ trong Thế chiến thứ Hai) vừa mới được thuyên chuyển tới Palestine để theo dõi hoạt động bí mật của người Do Thái. Đúng ra Seymour đã có mặt ở văn phòng lúc xảy ra cuộc tấn công, nhưng ông đã chạy đi vài phút sau khi gặp một mật báo viên ở Thành Cổ (Old City). Ông nghe tiếng bom nổ khi đang đi ngang qua cổng Jaffa và kinh hoàng khi trông thấy một phần của khách sạn đang sụp đổ. Cảnh tượng ấy cứ ám ảnh Seymour mãi suốt quãng đời còn lại và định hướng cả quá trình công tác của ông. Cay cú chống Israel và nói tiếng Ả Rập lưu loát, ông phát triển những mối liên kết mật thiết nhưng không được thoải mái với nhiều kẻ thù của Israel. Ông là một vị khách thường xuyên của Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser và là người sớm ngưỡng mộ một nhà cách mạng trẻ tuổi người Palestine tên là Yasir Arafat[1]

Mặc dù ông có cảm tình với người Ả Rập, Văn phòng vẫn xem Arthur Seymour là một trong những sĩ quan có năng lực nhất của cơ quan Tình báo mật (MI6) [2]ở Trung Đông. Và vì thế một vấn đề đã xảy đến như chuyện đáng ngạc nhiên khi con trai duy nhất của ông là Graham đã chọn hành nghề ở MI5 chứ không phải MI6 oai phong hơn. Được biết khi mới vào nghề, Seymour thời còn trẻ đã phục vụ trước tiên trong ngành phản gián, làm công tác chống KGB [3] ở London. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ và phái Hồi giáo cuồng tín trỗi dậy, ông được thăng chức làm Trưởng ban chống khủng bố. Giờ đây, với chức vụ Phó Giám đốc MI5, ông buộc phải dựa vào kinh nghiệm tinh thông của mình về cả hai chuyên ngành. Dạo này có nhiều gián điệp Nga tung hoành khắp London hơn cả thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Và do những sai lầm liên tiếp của chính phủ, Vương quốc Anh giờ đây là nhà của hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đến từ thế giới Ả Rập và châu Á. Seymour từng gọi London là “Kandahar [4] trên bờ sông Thames.” Theo quan điểm cá nhân, ông lo đất nước mình đang trượt tới gần hơn bờ vực thẳm của nền văn minh.

Tuy Graham Seymour đã được thừa hưởng từ cha mình niềm đam mê với công tác điệp báo thuần túy, nhưng ông không hề chia sẻ thái độ khinh miệt của ông cụ đối với Nhà nước Israel. Thật vậy, dưới sự chỉ đạo của ông, MI5 đã rèn đúc nên những mối liên kết mật thiết với Văn phòng, đặc biệt với Gabriel Allon. Hai người đàn ông xem nhau như là hội viên của một hội huynh đệ bí mật chuyên chạy những việc vặt vãnh chẳng vui vẻ gì mà người khác chả ai chịu làm, và luôn lo lắng vì những hậu quả về sau. Họ chiến đấu vì nhau, đổ máu vì nhau và trong một số trường hợp giết người vì nhau. Họ thân với nhau như hai điệp viên của hai cơ quan tình báo đối nghịch có thể thân thiết, điều đó có nghĩa là họ chỉ dành cho nhau một chút sự nghi ngờ cần thiết.

“Liệu có ai trong khách sạn này không biết anh là ai hay không?” Seymour hỏi, lắc bàn tay Gabriel giơ ra như thể đây là lần đầu tiên hai người gặp nhau.

“Cô gái ở quầy tiếp tân hỏi có phải tôi tới đây để học giáo luật Do Thái Greenberg hay không.”

Seymour mỉm cười dè dặt. Với những lọn tóc màu thiếc và hàm răng cứng chắc, trông ông như nguyên mẫu của một Nam tước ở thuộc địa của Vương quốc Anh, một người quyết định những vấn đề quan trọng và không bao giờ tự rót trà cho mình.

“Bên trong hay ra ngoài?” Gabriel hỏi.

“Ra ngoài,” Seymour đáp.

Họ ngồi ở một cái bàn bên ngoài trên nền cao, Gabriel đối diện với khách sạn, Seymour đối diện với bức tường của Thành Cổ. Quá mười một giờ khoảng vài phút, thời gian êm đềm thư thái giữa bữa điểm tâm và bữa ăn trưa. Gabriel chỉ uống cà phê, nhưng Seymour lại gọi quá nhiều món. Vợ ông là một bà bếp nhiệt tình nhưng nấu ăn rất dở. Đối với ông, thức ăn trên máy bay là một bữa tiệc được chiêu đãi, còn bữa lỡ buổi sáng ở khách sạn, ngay cả từ nhà bếp của Khách sạn King David, lại là một dịp để ông được thưởng thức. Và còn được ngắm quang cảnh Thành Cổ nữa, dường như là thế.

“Có thể anh thấy chuyện này khó tin,” ông nói giữa hai lần nhai món trứng rán, “nhưng đây là lần đầu tiên tôi từng đặt chân lên đất nước của anh.”

“Tôi biết,” Gabriel đáp lại. “Tất cả đều ở trong hồ sơ của ông.”

“Đọc thấy thú vị chứ?”

“Tôi chắc chắn nó không là gì hết so với những gì mà cơ quan của ông đã nắm được về tôi.”

“Sao có thể như thế chứ? Tôi chỉ là một nhân viên tầm thường của Cơ quan An ninh phụng sự Nữ hoàng Bệ hạ. Còn anh lại là một huyền thoại. Rốt cuộc,” Seymour hạ giọng nói thêm, “có bao nhiêu sĩ quan tình báo có thể nói mình đã cứu thế giới thoát khỏi họa diệt vong chứ?”

Gabriel ngoái đầu đăm đăm liếc nhìn cái vòm thếp vàng của Đền thờ Mái vòm Vàng (Dome of the Rock), nơi thờ Thánh cốt thiêng liêng thứ ba của đạo Hồi, lấp lánh dưới ánh nắng trong như pha lê của Jerusalem. Năm tháng trước, trong một gian phòng bí mật cách 51 mét dưới mặt đất ở Núi Đền thờ, ông đã phát hiện một quả bom khủng, nếu bị kích nổ hẳn đã phá sập toàn bộ vùng cao nguyên, ông còn phát hiện hai mươi hai cây cột ở Đền thờ Solomon của Jerusalem, như thế đã chứng minh rất rõ, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, thánh địa của đạo Do Thái thời xưa được mô tả trong sách Các Vua và Biên niên sử (Kings and Chronicles) thực sự đã tồn tại. Mặc dù tên của Gabriel không hề xuất hiện khi báo chí đưa tin về phát hiện quan trọng đó, nhưng sự liên can của ông với vụ việc được biết rõ trong một số nhóm của cộng đồng tình báo phương Tây. Còn được biết người bạn thân thiết nhất của ông là nhà khảo cổ thời Kinh Thánh cựu ước có danh tiếng, đồng thời là đặc vụ của Văn phòng tên là Eli Lavon, người suýt chút nữa đã bỏ mạng khi cố cứu mấy cây cột khỏi bị hủy hoại.

“Anh cực kỳ may mắn vì quả bom đã không phát nổ,” Seymour nói. “Nếu nó nổ, hẳn hàng triệu tín đồ Hồi giáo đã bao vây anh trong vòng vài giờ. Sau đấy...” giọng ông ta lạc hẳn đi.

“Hẳn đó sẽ là ánh sáng soi đường cho cái dự án mang tên Nhà nước Israel,” Gabriel ngắt luôn dòng suy tưởng của Seymour về mình. “Đúng là điều mà Iran và đồng minh trong nhóm Hezbollah muốn xảy ra.”

“Tôi không hình dung ra anh đã phải như thế nào khi lần đầu tiên trông thấy những cột trụ ấy.”

“Thành thật mà nói, Graham à, tôi không có thời gian để tận hưởng những giây phút đó. Tôi quá bận rộn vì phải cố duy trì sự sống cho Eli.”

“Ông ấy thế nào rồi?”

“Ông ta đã nằm viện hai tháng, nhưng trông vẫn khỏe mạnh gần như bình thường. Hiện giờ đã đi làm lại rồi.”

“Làm cho Văn phòng?”

Gabriel lắc đầu. “Ông ta lại đang đào bới dưới Đường hầm Bức tường phía Tây. Tôi có thể sắp xếp một chuyến đi bí mật nếu ông thích. Thật vậy, nếu ông thấy thích thú, tôi sẽ hướng dẫn ông tham quan lối đi bí mật trực tiếp dẫn vào Núi Đền thờ.”

“Tôi không chắc chắn chính phủ của tôi có chấp thuận hay không nữa.” Seymour im bặt khi một tiếp viên lại rót đầy hai tách cà phê. Sau đó, khi chỉ còn lại hai người, ông nói: “Tin đồn rốt cuộc đúng sự thật rồi.”

“Tin đồn gì vậy?”

“Là tin thằng con hoang đàng cuối cùng đã trở về nhà. Thật buồn cười,” ông nói thêm, vừa mỉm cười buồn bã, “nhưng tôi cho rằng anh sẽ dành cả quãng đời còn lại để dạo bước trên những mỏm đá ở Cornwall.”

“Ở đó đẹp lắm, Graham à. Nhưng nước Anh là quê nhà của ông chứ không phải của tôi.”

“Đôi khi ngay chính tôi cũng chẳng còn có cảm giác đang ở quê nhà của mình nữa,” Seymour nói. “Bà Helen và tôi vừa mới tậu được một biệt thự ở Bồ Đào Nha. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ sống tha hương như cậu trước đây.”

“Chẳng bao lâu nữa là thế nào?”

“Chẳng có chuyện gì sắp xảy đến đâu,” Seymour đáp. “Nhưng cuối cùng rồi mọi chuyện tốt lành phải kết thúc thôi.”

“Ông đã có một sự nghiệp vĩ đại, Graham à.”

“Thế sao? Thật khó đo lường thành quả trong công tác tình báo, phải không nào? Chúng ta bị phán xét vì những chuyện không hề xảy ra: các bí mật không hề bị đánh cắp, các cao ốc không hề nổ tung. Đấy có thể là một cách kiếm sống hoàn toàn không thỏa mãn.”

“Ông định làm gì ở Bồ Đào Nha?”

“Bà Helen sẽ cố đầu độc tôi với cái tài nấu ăn kỳ khôi của bà ấy, còn tôi thì sẽ vẽ những bức tranh phong cảnh bằng màu nước tồi tệ của mình.”

“Tôi chưa từng biết ông vẽ tranh.”

“Vì lý do tốt đẹp,” Seymour nhăn mặt nhíu mày với cảnh vật xung quanh như thể còn lâu mới đạt yêu cầu để ông cầm cọ vẽ và bảng màu. “Bố tôi hẳn đang xoay trở không yên dưới mồ nếu như ông biết tôi... ở đây.”

“Vậy ông tới đây để làm gì?”

“Tôi đang tự hỏi liệu anh có thể sẵn lòng tìm giúp một thứ gì đấy cho một người bạn của tôi hay không.”

“Người bạn đó có tên không?”

Seymour không đáp lại. Thay vào đó, ông mở cái cặp giấy tờ và lôi ra một tấm hình khổ chừng 20x25cm rồi trao cho Gabriel. Đó là ảnh chụp một phụ nữ trẻ hấp dẫn đang đăm đăm nhìn thẳng vào máy ảnh, tay cầm một ấn bản ba ngày trước của tờ International Herald Tribune.

“Madeline Hart?”

Ông Phó Giám đốc người Anh gật đầu. Sau đó ông đưa cho Gabriel một tờ giấy khổ A4. Trên đó chỉ có một câu soạn bằng kiểu chữ đơn giản không có nét hoa mỹ:

Chúng mày có bảy ngày, hay con này phải chết.

“Khốn kiếp,” Gabriel nói thật nhẹ nhàng.

“Tôi e rằng... sẽ tốt hơn.

Thật trùng hợp, ban quản trị Khách sạn King David đã đặt Graham Seymour, con trai độc nhất của Arthur Seymour, ở cùng một cánh của khách sạn đã bị phá hủy vào năm 1946. Thật vậy, phòng của ông ở gần cuối cái sảnh mà ở đầu là phòng bố ông đã dùng làm văn phòng suốt những ngày tháng suy tàn của chế độ ủy trị của Vương quốc Anh ở Palestine (British Mandate). Khi tới đó hai người bạn thấy bảng XIN ĐỪNG QUẤY RẦY vẫn còn treo nơi chốt cửa cùng với một cái bao đựng tờ Jerusalem Post và tờ Haaretz. Seymour dẫn Gabriel vào bên trong. Hài lòng vì không có ai vào phòng khi mình vắng mặt, ông đưa một đĩa DVD vào máy tính xách tay của ông rồi nhấp vào biểu tượng PHÁT. Vài giây sau Madeline Hart, thần dân Vương quốc Anh và công chức thuộc đảng cầm quyền đã mất tích, xuất hiện trên màn hình.

“Tôi đã làm tình với Thủ Tướng Jonathan Lancaster lần đầu tiên tại Hội nghị ở Manchester vào tháng Mười năm 2012...”

Chú thích:

[1]Yasir Arafat (1929 - 2004): chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) từ năm 1969, và chủ tịch cơ quan Quyền lực Quốc gia Palestine (PNA) từ năm 1996.

[2] Secret Intelligence Service-SIS, thường được biết với tên gọi MI6 - viết tắt “Military Intelligence Section 6”, là tên cũ sau này vẫn quen dùng.

[3]Viết tắt của “Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti” (tiếng Nga đã chuyển sang mẫu tự La tinh): ủy ban An ninh Quốc gia, nhiệm vụ như Cơ quan Tình báo mật của Liên Xô trước đây.

[4] Thành phố ở miền Nam Afghanistan, trung tâm thương mại chính của nước này.