Chương 5 -KHÁCH SẠN KING DAVID, JERUSALEM--
ĐOẠN PHIM DÀI bảy phút mười hai giây. Suốt từ đầu đến cuối Madeline vẫn cứ đăm đăm nhìn một điểm cố định hơi chếch về bên trái máy quay, như thể đang trả lời những câu hỏi do một người phỏng vấn của đài truyền hình đặt ra. Cô có vẻ khiếp sợ và mệt mỏi khi miễn cưỡng tả lại mình đã gặp Thủ tướng như thế nào trong một lần ông viếng thăm trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank, ông ta đã tỏ lòng ngưỡng mộ công việc của cô và có hai lần mời cô tới Phố Downing để hỏi thăm vắn tắt về chuyện riêng tư. Chính vào cuối cuộc gặp lần thứ hai, ông thừa nhận mình quan tâm đến cô không chỉ vì nghề nghiệp. Lần quan hệ tình dục đầu tiên của họ chỉ là vội vàng ân ái trong một căn phòng khách sạn ở Manchester. Sau đó Madeline được một người bạn lâu năm của Thủ tướng nhanh chóng thuyên chuyển vào Phủ Thủ tướng, hầu như ngay lúc Diana Lancaster vừa rời khỏi London.
“Và giờ đây,” Seymour rầu rĩ nói khi màn hình máy vi tính đã tối đen, “Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã bị trừng phạt vì tội lỗi của mình với một vụ cố ý tống tiền thô bạo.”
“Vụ này đâu có gì thô bạo, Graham. Bất cứ ai đứng sau vụ này đều biết Thủ tướng có dính líu vào một vụ ngoại tình. Rồi sau đó chúng đã làm cho tình nhân của ông ta biến mất chẳng để lại dấu vết nào trên đảo Corse. Hiển nhiên, mưu mô của chúng vô cùng tinh vi.”
Seymour lấy cái đĩa ra khỏi máy vi tính nhưng chẳng nói gì cả.
“Còn ai biết nữa không?”
Seymour giải thích ba món đó - tấm hình, lá thư ngắn và đĩa DVD - sáng hôm trước đó đã được bỏ lại trên bậc thềm trước cửa nhà Simon Hewitt như thế nào. Và ông này đã chuyển chúng tới Phủ Thủ tướng, ở đó ông ta đã đưa cho Jeremy Fallon xem như thế nào. Rồi cả hai sau đó đã diện kiến Thủ tướng trong văn phòng của ông ấy ở Số Mười như thế nào. Gabriel gần đây cư trú ở Vương quốc Anh nên biết rõ vai trò của các nhân vật đó. Hewitt, Fallon, Lancaster: bộ ba thần thánh của nền chính trị Vương quốc Anh. Hewitt là bác sĩ trị bệnh ngoài da, Fallon là quân sư và nhà chiến lược, còn Lancaster là một tài năng chính trị chưa có kinh nghiệm.
“Tại sao Lancaster lại chọn ông?” Gabriel hỏi.
“Bố chúng tôi cùng làm việc trong ngành tình báo.”
“Chắc chắn có những lý do còn hơn như vậy nữa.”
“Có đấy,” Seymour thừa nhận. “Tên hắn là Siddiq Hussein.”
“Tôi e rằng cái tên này khá lạ lẫm.”
“Chẳng đáng ngạc nhiên gì,” ông bạn người Anh nói. “Bởi vì nhờ tôi mà Siddiq đã biến mất dưới một cái hố đen cách đây rất nhiều năm và chả bao giờ còn thấy hay nghe nhắc đến hắn nữa.”
“Hắn là ai?”
“Là một người gốc Pakistan cư trú tại Tower Hamlets phía Đông London. Hắn xuất hiện trên màn hình ra đa của chúng tôi sau vụ đánh bom năm 2007 khi chúng tôi cuối cùng đã định vị lại và bắt đầu lôi những người theo chủ nghĩa Hồi giáo cấp tiến ra khỏi các đường phố. Anh còn nhớ những ngày ấy mà,” Seymour nói một cách cay đắng. “Những tháng ngày mà cánh tả và giới truyền thông khăng khăng đòi làm gì đấy với bọn khủng bố đang nằm vùng ở đất nước tôi.”
“Nói tiếp đi, Graham.”
“Siddiq thường xuyên lui tới với bọn được cho là cực đoan ở Thánh đường Hồi giáo khu Đông London, và số điện thoại di động của hắn cứ xuất hiện ở toàn những nơi sai lệch. Tôi đã cho Scotland Yard (tức Sở Cảnh sát Thủ đô London) một bản sao hồ sơ của hắn nhưng Bộ chỉ huy Chống khủng bố lại bảo không có đủ chứng cứ để hành động chống lại hắn. Sau đấy hắn đã thực hiện một việc để cho tôi có cơ hội tự mình giải quyết vấn đề.”
“Là việc gì vậy?”
“Hắn đã đặt mua một vé máy bay đi Pakistan.”
“Đúng là sai lầm lớn.”
“Sai lầm tai hại, thật thế,” Seymour nói một cách cay cú.
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Chúng tôi theo hắn đến sân bay Heathrow và kiểm tra chắc chắn hắn đã lên máy bay đi Karachi. Sau đó tôi lẳng lặng gọi cho một người bạn cũ ở Langley, bang Virginia. Tôi tin chắc anh biết rõ ông ấy.”
“Là Adrian Carter.”
Seymour gật đầu. Adrian Carter là Giám đốc Sở Mật vụ Quốc gia của CIA [1] Ông ta giám sát cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của cơ quan tình báo, bao gồm chương trình trước đây từng là bí mật để ngăn cản và thẩm vấn các đặc vụ giá trị cao.
Seymour nói tiếp: “Nhóm điệp viên của Carter đã theo dõi Siddiq ở Karachi trong ba ngày. Sau đấy họ trùm một cái bao lên đầu hắn rồi đưa hắn lên chuyến bay bí mật đầu tiên rời khỏi đất nước ấy.”
“Họ đưa hắn đi đâu?”
“Kabul.”
“Tới Salt Pit?”
Seymour chậm rãi gật đầu.
“Hắn sống được bao lâu?”
“Còn tùy anh hỏi ai. Theo tính toán của CIA về vụ này, họ thấy hắn đã chết trong xà lim mười ngày sau khi đến Kabul. Gia đình hắn lại khẳng định trong một vụ kiện cáo rằng hắn đã chết trong khi bị tra tấn.”
“Vậy thì có liên quan gì tới Thủ tướng?”
“Khi các luật sư đại diện cho gia đình Siddiq yêu cầu xem tất cả tài liệu của MI5 liên quan đến vụ án này, chính phủ của Lancaster đã từ chối không đưa ra, viện cớ sẽ gây nguy hại cho nền an ninh của Vương quốc Anh. Ông ấy đã cứu vớt sự nghiệp của tôi.”
“Và bây giờ anh định trả lại món nợ đó bằng cách giúp ông ta thoát chết?” Vì ông bạn không đáp lại nên Gabriel nói tiếp, “Chuyện này sẽ kết thúc thật tệ hại, Graham à. Và khi đó, một điều không thể tránh khỏi là tên của ông sẽ được đặc biệt chú ý trong cuộc điều tra chính thức.”
“Tôi đã nói rõ, nếu điều ấy xảy đến tôi sẽ lôi mọi người xuống theo, kể cả Thủ tướng.”
“Tôi chưa bao giờ hình dung ông là hạng người ngây thơ, Graham à.”
“Tôi là hạng người nào đấy chứ chẳng phải ngây thơ đâu.”
“Vậy ông rời khỏi đây đi. Hãy trở về London và bảo Thủ tướng của ông tới trước ống kính truyền hình cùng với vợ ông ta bên cạnh, và công khai kêu gọi bọn bắt cóc thả cô gái.”
“Chuyện ấy đã quá muộn rồi. Vả lại,” Seymour nói thêm, “có lẽ tôi hơi cổ hủ một chút, nhưng tôi chẳng ưa chuyện người ta cố tống tiền lãnh đạo của nước mình.”
“Liệu lãnh đạo có biết ông đang ở Jerusalem hay không?”
“Chắc hẳn anh chỉ nói đùa.”
“Tại sao lại là tôi chứ?”
“Bởi vì nếu MI5 hay cơ quan tình báo cố tìm cho ra cô ấy, họ sẽ tiết lộ theo kiểu cách Siddiq Hussein đã làm. Anh tìm kiếm món đồ này vật dụng nọ cũng cực kỳ tài giỏi,” Seymour khẽ nói tiếp. “Những chiếc cột cổ xưa, những bức tranh của Rembrandt bị đánh cắp, những cơ sở làm giàu nhiên liệu hạt nhân bí mật của Iran.”
“Xin lỗi Graham, nhưng mà...”
“Và bởi vì anh cũng chịu ơn Lancaster đấy,” Seymour ngắt lời ông.
“Tôi sao?”
“Anh nghĩ ai đã cho anh nương náu ở Cornwall dưới một cái tên giả khi mà không có nước nào khác chịu nhận? Và anh nghĩ ai đã để cho mình tuyển mộ một nhà báo Anh khi cần xâm nhập vào dây chuyền cung cấp nhiên liệu hạt nhân của Iran?”
“Tôi đã không nhận thấy chúng ta vẫn còn đang mắc nợ, Graham à.”
“Chẳng phải thế đâu,” Seymour nói. “Nhưng giá như thế thật, chắc chắn anh sẽ cứ thua kém mãi trong trận đấu.”
Hai người đàn ông im bặt đi trong một bầu không khí không thoải mái, như thể ngượng ngùng vì giọng điệu của cuộc đấu khẩu. Seymour nhìn lên trần nhà, còn Gabriel thì ngó tờ giấy.
Chúng mày có bảy ngày, hay con này phải chết...
“Khá mơ hồ, ông không nghĩ vậy sao?”
“Nhưng mà hiệu quả rất cao,” Seymour nói. “Chắc chắn đã làm cho Lancaster phải chú ý.”
“Không có đòi hỏi gì sao?”
Seymour lắc đầu. “Hiển nhiên chúng muốn nêu cái giá vào phút chót. Và chúng còn muốn Lancaster tuyệt vọng đến mức không màng sinh mệnh chính trị của mình, ông ta sẽ đồng ý trả tiền.”
“Dạo này Thủ tướng của ông đáng giá bao nhiêu?”
“Lần cuối tôi lén xem tài khoản ngân hàng của ông ấy,” Seymour nói một cách hài hước, “ông ấy có trên một trăm triệu.”
“Bảng Anh?”
Seymour gật đầu. “Jonathan Lancaster làm ra hàng triệu ở Khu Trung tâm London, thừa kế hàng triệu từ gia đình mình, và cưới được hàng triệu dưới hình dạng của quý cô danh giá Diana Baldwin. Ông là một mục tiêu hoàn hảo, một người có nhiều tiền hơn mức nhu cầu có được, và lẽ dĩ nhiên có không ít tiền hơn mức có thể mất đi. Bà Diana và các con của họ được bảo hộ an ninh nghiêm ngặt tại nhà số Mười. Điều này có nghĩa là hầu như bọn bắt cóc sẽ không thể nào đụng đến họ. Nhưng tình nhân của Lancaster...” Giọng Seymour lạc hẳn đi. Rồi ông nói tiếp, “Tình nhân lại là một vấn đề hoàn toàn khác.”
“Tôi không nghĩ ông ta đã đề cập tới bất cứ điều gì về vụ này với vợ của mình, đúng không?”
Seymour ra dấu hiệu bằng tay ngụ ý không rõ nội tình cuộc hôn nhân của họ.
“Ông có bao giờ điều tra một vụ bắt cóc hay chưa, Graham?”
“Chưa bao giờ từ lúc ở Bắc Ireland. Và các vụ bắt cóc ở đấy đều liên quan đến IRA [2].”
“Bắt cóc chính trị khác với bắt cóc hình sự,” Gabriel nhận xét. “Kẻ bắt cóc chính trị thường là một gã có lý trí. Hắn muốn đồng bọn được thả ra khỏi nhà tù, hoặc muốn có một thay đổi chính sách, vì vậy hắn chộp một chính khách quan trọng hay bắt cả một xe buýt chở học sinh và giữ họ làm con tin cho tới khi các yêu sách của hắn được đáp ứng. Nhưng một tên tội phạm hình sự chỉ muốn có tiền, và nếu ông trả tiền sẽ làm cho hắn muốn có thêm nhiều tiền. Vậy thế là hắn cứ đòi cho tới khi nghĩ ông không còn tiền nữa.”
“Bởi thế tôi cho rằng chúng ta chỉ còn lại một lựa chọn mà thôi.”
“Đó là gì?”
“Tìm thấy cô gái.”
Gabriel bước tới cửa sổ, đăm đăm nhìn qua thung lũng về phía Núi Đền thờ; và trong phút chốc ông trở lại trong một cái hang bí mật cách mặt đất 51 mét, đang ôm lấy Eli Lavon trong lúc máu của ông ta thấm vào lòng núi thiêng. Suốt một đêm dài đằng đẵng, Gabriel đã túc trực bên giường của nhà khảo cổ trong bệnh viện, và ông ấy đã thể sẽ không bao giờ đặt chân tới chiến trường bí mật nữa. Nhưng giờ đây, một người bạn cũ đã làm sống lại cả một miền ký ức đầy hoảng loạn để yêu cầu một ân huệ. Lại một lần nữa, Gabriel cố hết sức tìm lời lẽ để khiến ông ta trở về tay không. Là con trai duy nhất của hai người sống sót sau Cuộc Đại Thảm sát Holocaust [3], bản tính của Gabriel không muốn làm người khác phải thất vọng, ông cố tìm cách giúp họ chứ hiếm khi từ chối.
“Dù cho tôi có thể tìm thấy cô ta,” một lát sau ông nói, “bọn bắt cóc vẫn còn đoạn phim ghi lại hình ảnh cô ta thú nhận đã có quan hệ yêu đương với ông Thủ tướng.”
“Nhưng đoạn phim ấy sẽ có tác động khá khác biệt nếu đóa hoa hồng nước Anh lại an toàn trở về trên đất Anh.”
“Trừ khi hoa hồng nước Anh quyết định nói sự thật.”
“Cô ấy là một người trung thành, chẳng dám đâu.”
“Ông đâu biết chúng đã làm gì cô ta,” Gabriel phản ứng lại. “Có thể giờ đây cô ta đã trở thành một con người hoàn toàn khác rồi.”
“Đúng,” Seymour nói. “Nhưng chúng ta quá lo xa rồi đấy. Cuộc trò chuyện này vô nghĩa nếu như anh và cục tình báo của anh không cam kết sẽ mở một điệp vụ truy tìm Madeline Hart nhân danh cá nhân tôi.”
“Tôi không có quyền hạn sắp đặt mọi chuyện ở cơ quan tình báo theo ý muốn của ông, Graham à. chính Uzi mới có quyền quyết định, không phải tôi.”
“Uzi đã đồng ý rồi,” Seymour nói một cách thẳng thừng. “Shamron cũng thế.”
Gabriel nhìn Seymour trừng trừng có vẻ không bằng lòng nhưng chẳng nói gì.
“Anh thực sự nghĩ Ari Shamron đồng ý để tôi tiếp cận anh khi ông ấy chưa làm rõ câu chuyện vì sao tôi đến thành phố này sao?” Seymour hỏi. “Ông ấy luôn bảo vệ anh thật cẩn mật.”
“Ông ta có một cách biểu lộ điều đó thật kỳ cục. Nhưng tôi e rằng có một người ở Israel còn có nhiều quyền hạn hơn Shamron, ít ra là khi có chuyện xảy tới với tôi.”
“Vợ anh à?”
Gabriel gật đầu.
“Chúng ta có bảy ngày, hoặc là cô gái phải chết.”
“Sáu ngày,” Gabriel nói. “Cô gái có thể ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và chỉ một manh mối thôi chúng ta cũng không có.”
“Không hoàn toàn đúng như thế.”
Seymour thò tay vào trong cặp đựng giấy tờ của mình, đưa ra hai tấm hình của Interpol [4] chụp người đàn ông đã cùng ăn trưa với cô gái vào buổi chiều cô ta mất tích. Người đàn ông mang đôi giày không để lại vết tích. Người đàn ông bị lãng quên.
“Hắn là ai?” Gabriel hỏi.
“Câu hỏi hay đấy,” Seymour đáp. “Nhưng nếu tìm ra hắn, biết đâu chừng anh sẽ tìm thấy Madeline Hart.
Chú thích:
[1] Viết tắt của “International Criminal Police Organisation”: Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế, trụ sở ở Paris, Pháp.
[2] Viết tắt của “Irish Republican Army”: quân đội Cộng hòa Ireland, một tổ chức chủ trương đấu tranh vũ trang để sáp nhập Bắc Ireland hiện thuộc Vương quốc Anh vào Cộng hòa Ireland.
[3] Holocaust: cuộc diệt chủng của Đức Quốc xã và phe Trục, đã tàn sát hàng triệu người Do Thái (cũng như người Rumani, Slav, giới trí thức, bất đồng chính kiến và người đồng tính) ở châu Âu trong Thế Chiến thứ Hai.
[4] Nguyên bản “National Clandestine Service” - một bộ phận của CIA (Central Intelligence Agency - cơ quan tình báo Trung ương của Hoa Kỳ).