Chương 6 VIỆN BẢO TÀNG ISRAEL, JERUSALEM
GABRIEL CHỈ LẤY duy nhất một món Graham Seymour đưa, tấm hình chụp cô gái bị bắt giữ Madeline Hart, mang nó theo khi ông đi về hướng Tây, băng qua Jerusalem và tới tận Viện Bảo tàng Israel. Sau khi bỏ lại chiếc xe hơi của mình ở bãi đậu xe dành cho nhân viên, một đặc quyền mới vừa được trao gần đây; Gabriel đi qua tiền sảnh có vách kính rất cao dẫn tới căn phòng cất giữ bộ sưu tập mỹ thuật châu Âu. Ở một góc phòng có treo chín bức tranh thuộc trường phái Ấn tượng trước đây từng thuộc sở hữu của một chủ ngân hàng Thụy Sĩ tên là Augustus Rolfe. Một tấm áp phích mô tả hành trình dài của các bức tranh từ Paris tới nơi này - chúng đã bị Đức Quốc xã cướp bóc vào năm 1940 như thế nào, và về sau đã được chuyển tới cho chủ ngân hàng để đổi lại việc ông ta phục vụ cho tình báo Đức. Tấm áp phích chẳng hề đề cập đến sự kiện Gabriel và con gái của Rolfe, một nhạc sĩ vĩ cầm lừng danh - Anna Rolfe, đã phát hiện các bức tranh này trong nhà kho bí mật của một ngân hàng ở Zurich - hay chuyện tập đoàn thuộc sở hữu của một doanh nhân Thụy Sĩ đã thuê sát thủ chuyên nghiệp từ đảo Corse tới để giết cả hai người.
Trong phòng trưng bày tranh liền kề có treo tác phẩm của các họa sĩ Israel. Có ba bức tranh sơn dầu do mẹ Gabriel vẽ, trong đó có một bức miêu tả khung cảnh ảm đạm của cuộc dẫn giải tử thần từ trại Auschwitz vào tháng Giêng năm 1945, được bà vẽ bằng màu của ký ức xa xôi. Ông chiêm ngưỡng một lúc khá lâu tài nghệ và nét cọ của bà trước khi đi ra ngoài và vào trong khu vườn trưng bày các tác phẩm điêu khắc. Xa xa, ở cuối vườn, đứng sừng sững Điện thờ Thánh thư có hình dáng của một tổ ong, là nơi cất giữ Các Cuộn sách Biển Chết [1]. Kế đó là công trình kiến trúc mới nhất của viện bảo tàng, một tòa nhà hiện đại bằng kính và thép, có chiều dài sáu mươi cupit [2] rộng hai mươi cupit và cao ba mươi cupit. Hiện giờ nó được phủ kín dưới lớp vải dầu xây dựng mờ đục, khiến hai mươi hai cây cột của Đền thờ Solomon ở bên trong mà thế giới bên ngoài không thể nào trông thấy.
Những nhân viên an ninh trang bị vũ khí đầy đủ đứng dọc theo cả hai bên tòa nhà và lối ra vào ở hướng Đông, cùng một hướng với Đền thờ Solomon nguyên gốc. Đó chỉ là một bộ phận của cuộc triển lãm gây tranh cãi nhiều chưa từng thấy trên thế giới do Ban Giám đốc viện bảo tàng tổ chức. Nhóm haredim (một nhóm trong Do Thái giáo) chính thống cực đoan của Israel đã tố cáo cuộc triển lãm là hành vi báng bổ Thượng Đế và sẽ dẫn đến kết quả là một nhà nước Do Thái diệt vong, trong khi ở Đông Jerusalem của người Ả Rập, những người giữ Đền thờ Mái vòm Vàng lại xem những cây cột như một trò lừa bịp tinh vi. “Chưa bao giờ từng có một đền thờ thực sự trên Núi Đền thờ,” đại giáo sĩ Hồi giáo của Jerusalem đã viết trong một mục op-ed [3] đăng trên tờ New York Times, “và chẳng cuộc triển lãm của viện bảo tàng nào từng làm thay đổi sự kiện ấy.”
Mặc cho những trận chiến chính trị và tôn giáo khốc liệt nổi lên quanh cuộc triển lãm, sức ảnh hưởng của nó lan tỏa với một tốc độ đáng kể. Trong vòng vài tuần lễ từ khi Gabriel phát hiện mấy cây cột, các kế hoạch kiến trúc đã được chấp thuận, các ngân quỹ được thiết lập và mặt đất được đào đắp. Nhiều khoản tín dụng thuộc về giám đốc kiêm thiết kế trưởng của dự án là người gốc Ý. Với công chúng, người ta quen nhắc đến nàng với cái tên thời thiếu nữ là Chiara Zolli. Nhưng tất cả những người cộng tác trong dự án đó đều biết tên nàng là Chiara Allon.
Những cây cột được sắp xếp cùng một cách thức như khi Gabriel tìm thấy chúng, thành hai dãy thẳng hàng cách nhau chừng hơn 6 mét. Một cây cao nhất nhuốm đen vì khói lửa - người Babylon đã phóng hỏa vào cái đêm họ triệt hạ ngôi đền mà người Do Thái cổ đại xem là nơi trú ngụ của Thượng Đế trên cõi trần gian. Đó là cây cột mà Eli Lavon đã đeo bám khi ông gần chết, và cũng là nơi giờ đây Gabriel tìm thấy Chiara. Một tay nàng đang cầm tập ghi chép, còn tay kia thì đang vung lên ra hiệu về phía trần nhà bằng kính. Nàng mặc quần jean bạc phếch, mang một đôi giày xăng đan đế bằng và tròng một chiếc áo len chui đầu sát nách màu trắng bó chặt những đường cong trên thân thể. Hai cánh tay trần của nàng sạm đen nhiều vì ánh nắng của Jerusalem; mái tóc dài phong trần đầy những vệt sáng lóng lánh ánh vàng. Trông nàng đẹp lạ lùng, Gabriel nghĩ bụng, và còn quá trẻ để làm vợ một kẻ bị vùi dập trải đời như ông.
Phía trên cao, hai kỹ thuật viên đang điều chỉnh hệ thống chiếu sáng khu triển lãm, còn nàng thì giám sát từ bên dưới. Nàng nói với họ bằng thứ tiếng Do Thái lơ lớ giọng Ý rất rõ rệt. Là con gái giáo trưởng đạo Do Thái tại Venice, nàng đã sống quãng đời thơ ấu trong thế giới cô lập ở một khu ổ chuột của người Do Thái có từ xa xưa, chỉ rời xa đủ lâu để hoàn thành cho được tấm bằng thạc sĩ về lịch sử La Mã tại Đại học Padua. Chiara trở về Venice sau khi tốt nghiệp, có được một công việc tại một viện bảo tàng Do Thái nhỏ ở Campo del Ghetto Nuovo, nơi mà đáng ra nàng vẫn còn ở lại mãi mãi nếu như một người chuyên phát hiện tài năng của Văn phòng không để ý đến nàng trong một chuyến về thăm Israel. Người phát hiện tài năng đó tự giới thiệu về bản thân trong một quán cà phê ở Tel Aviv, rồi hỏi nàng có quan tâm đến việc phục vụ dân Do Thái được nhiều hơn, hay vẫn thích thú với công việc trong một viện bảo tàng ở một khu ổ chuột đang suy tàn.
Sau khi trải qua một năm theo chương trình huấn luyện mật vụ của Văn phòng, Chiara trở về Venice, lần này làm một điệp viên nằm vùng của tình báo Israel. Trong những nhiệm vụ nàng được phân công đầu tiên, có việc ngấm ngầm canh chừng sau lưng một sát thủ tính khí thất thường của Văn phòng tên là Gabriel Allon, đã tới Venice để phục chế bức tranh trang trí bàn thờ San Zaccaria của Bellini. Nàng tự bộc lộ thân phận với ông một thời gian ngắn sau đó ở Rome, sau khi xảy ra sự cố liên quan đến việc sử dụng súng và cảnh sát Ý. Bị mắc kẹt một mình với Chiara trong một nhà an toàn, Gabriel đã muốn vuốt ve nàng trong vô vọng, ông đã đợi đến khi vụ án được giải quyết và họ đã trở về Venice. Tại nơi đó, trong một căn nhà trên kênh đào ở Cannaregio, họ ân ái lần đầu tiên trên một cái giường trải vải lanh mới toanh. Khung cảnh này hệt như cảnh ân ái với một dáng hình do bàn tay họa sĩ Veronese [3] vẽ nên.
Giờ đây dáng hình ấy đang quay đầu lại và lần đầu tiên chú ý đến sự hiện diện của Gabriel, nàng mỉm cười. Đôi mắt to với dáng vẻ của người phương Đông có màu nâu nhạt và lóng lánh ánh vàng, một phối hợp màu sắc mà Gabriel chưa bao giờ có khả năng tái tạo một cách chính xác trên khung vải. Đã nhiều tháng trời từ khi nàng chịu ngồi cho ông vẽ; cuộc triển lãm chỉ cho nàng ít thời gian để làm bất cứ điều gì khác. Đó là một thay đổi rõ rệt trong kiểu mẫu hôn nhân của họ. Thông thường, chính Gabriel là người bị hao mòn vì một dự án, dù đó là một bức tranh hay một điệp vụ, nhưng bây giờ vai trò đã đảo ngược. Chiara vốn có tài tổ chức bẩm sinh, làm việc gì cũng rất chi ly tỉ mỉ, đã thành thạo công việc dưới áp lực dữ dội của cuộc triển lãm. Nhưng trong thâm tâm Gabriel vẫn đang trông mong cái ngày ông có thể khiến nàng trở lại như xưa.
Nàng bước tới chiếc cột kế tiếp và xem xét cách ánh sáng rọi xuống ngang qua nó. “Cách đây vài phút em có gọi về căn hộ, nhưng không có ai trả lời hết.”
“Anh đang ăn bữa lỡ buổi sáng với Graham Seymour ở Khách sạn King David.”
“Thật vui thích quá,” nàng nói mỉa. Rồi vẫn nghiên cứu chiếc cột, nàng hỏi, “Cái gì trong bì thư vậy anh?”
“Một lời mời làm việc.”
“Họa sĩ là ai vậy anh?”
“Không biết.”
“Và đề tài gì?”
“Một cô gái tên là Madeline Hart.
Gabriel quay trở lại khu vườn điêu khắc và ngồi trên băng ghế nhìn xuống ngọn đồi màu nâu vàng của miền Tây Jerusalem, vài phút sau, Chiara đến với ông. Cơn gió mùa thu nhè nhẹ len vào mái tóc nàng. Nàng quệt một sợi tóc xoăn lạc lõng ra khỏi khuôn mặt, rồi bắt chéo chân khiến một chiếc xăng đan đeo lủng lẳng trên mấy ngón chân rám nắng. Đột nhiên, việc cuối cùng Gabriel muốn làm là rời khỏi Jerusalem để đi tìm một cô gái ông không hề quen biết.
“Bọn mình thử xem lại lần nữa đi,” sau cùng nàng cất tiếng. “Cái gì ở trong bì thư vậy?”
“Một tấm hình.”
“Thứ hình ảnh gì vậy?”
“Bằng chứng của sự sống.”
Chiara chìa tay ra. Gabriel lưỡng lự.
“Em có chắc chắn không?”
Khi Chiara gật đầu, Gabriel mới chịu đưa phong bì cho nàng, theo dõi cách nàng mở nắp bì thư và lôi tấm hình ra. Trong khi săm soi ảnh chụp, nét mặt nàng sa sầm vì một bóng hình. Đó là bóng ma của một gã buôn vũ khí người Nga tên là Ivan Kharkov. Gabriel đã lấy đi mọi thứ của hắn: việc kinh doanh, tiền bạc và vợ con hắn. Sau đó hắn đã trả thù bằng cách bắt Chiara đi. Điệp vụ giải cứu nàng là điệp vụ đẫm máu nhất trong cả sự nghiệp lâu dài của Gabriel. Sau đó, ông đã giết mười một đặc vụ của hắn để trả đũa. Rồi trên một đường phố vắng lặng của Saint-Tropez, ông còn giết cả Ivan. Mặc dù đã chết, hắn vẫn là một phần của cuộc đời họ. Người của hắn đã chích ketamine cho Chiara khiến nàng bị sẩy mất cái thai đang mang trong bụng. Không được điều trị, vụ sẩy thai đã hủy hoại khả năng thụ thai của nàng. Và tự mình, nàng đành phải mãi mãi từ bỏ hy vọng làm mẹ thêm bất kỳ một lần nào nữa.
Chiara bỏ tấm hình trở vào phong bì rồi trả lại cho Gabriel. Sau đó nàng chăm chú nghe Gabriel diễn tả lại vụ việc cuối cùng đã vào tay Graham Seymour rồi vào tay ông như thế nào.
“Như vậy Thủ tướng Anh đang bắt ông Graham Seymour phải làm việc bẩn thỉu thay cho ông ta,” Chiara nói khi Gabriel đã kết thúc, “và Graham cũng làm y như vậy với anh.”
“Ông ta từng là bạn tốt mà em.”
Mặt Chiara không để lộ cảm xúc. Đôi mắt thường là cửa sổ hé lộ suy nghĩ chân thật nhất của nàng, giờ đây đang bị che giấu đằng sau cặp kính mát.
“Anh nghĩ bọn nó muốn điều gì?” một lát sau nàng hỏi.
“Tiền,” Gabriel đáp. “Lúc nào chúng cũng đòi tiền.”
“Gần như lúc nào cũng vậy,” nàng phản ứng lại. “Nhưng đôi khi bọn nó lại đòi những thứ không thể nào nhân nhượng.”
Nàng gỡ cặp kính mát, móc vào đằng trước ngực áo sơ mi rồi hỏi. “Anh còn bao lâu nữa trước khi bọn nó giết cô ta?” Khi Gabriel trả lời, nàng khẽ lắc đầu. “Không làm nổi đâu. Anh không thể nào tìm ra cô ta chỉ trong chừng đó thời gian.”
“Em nhìn tòa nhà sau lưng em đi, rồi cho anh biết có còn cảm nghĩ y hệt như vậy hay không.”
Chiara chẳng nhìn gì khác ngoài gương mặt của Gabriel. “Cảnh sát Pháp tìm kiếm Madeline Hart đã hơn một tháng rồi. Điều gì làm cho anh nghĩ mình sẽ tìm ra cô ta?
“Có lẽ họ đã tìm không đúng chỗ... hoặc hỏi không đúng người.”
“Anh định bắt đầu từ đâu?”
“Anh vẫn luôn tin nơi tốt nhất để bắt đầu điều tra chính là hiện trường tội ác.”
Chiara gỡ cặp kính mát trước ngực áo ra, lơ đãng chà tròng kính lên quần jean của mình. Gabriel biết là chuyện chẳng lành. Nàng vẫn luôn chùi đồ này vật nọ khi bực bội.
“Em sẽ làm trầy kính nếu không dừng lại,” ông nói.
“Nó bẩn quá,” nàng đáp thật rõ ràng rành mạch.
“Có lẽ em nên bỏ nó vào một cái hộp thay vì nhét đại vào cái ví của em.”
Nàng chẳng có phản ứng gì.
“Em làm anh ngạc nhiên đó, Chiara à.”
“Tại sao?”
“Vì em biết rõ hơn ai hết Madeline Hart đang ở dưới địa ngục, và cô ta sẽ ở mãi dưới địa ngục cho tới khi có ai đó đưa cô ta ra ngoài.”
“Em chỉ mong có thể là người nào khác.”
“Chẳng có ai khác cả.”
“Không ai giống như anh hết.” Nàng xem xét hai tròng kính mát rồi nhăn mặt.
“Có gì không ổn hay sao?”
“Nó bị trầy rồi.”
“Thì anh đã nói em sẽ làm trầy nó rồi mà.”
“Anh lúc nào cũng đúng, anh yêu.”
Nàng đeo vội cặp kính và nhìn ngang qua thành phố. “Em đoán Shamron và Uzi đã ban phước lành rồi, phải không?”
“Graham đã tới chỗ họ trước khi gặp anh.”
“Ông ta khôn quá.” Nàng gỡ hai chân bắt chéo rồi đứng dậy. “Em phải quay trở lại thôi. Bọn em không còn nhiều thời gian trước khi khai mạc.”
“Em đã làm một việc thật tuyệt vời, Chiara à.”
“Nịnh bợ không ích lợi gì đâu anh.”
“Thì cứ thử một lần cũng đáng mà.”
“Bao giờ em sẽ gặp lại anh?”
“Anh chỉ có bảy ngày để tìm ra cô ta.”
“Sáu ngày,” nàng chỉnh Gabriel. “Sáu ngày, hoặc là cô gái phải chết.”
Nàng cúi xuống hôn nhẹ lên môi Gabriel. Rồi nàng xoay người bước đi ngang qua khu vườn rực sáng lên dưới ánh nắng, hai bên hông nhẹ nhàng lắc qua lắc lại như thể theo tiếng nhạc mà chỉ một mình nàng nghe được. Gabriel dõi mắt nhìn theo cho tới khi nàng đi vào tòa nhà phủ vải dầu rồi mất dạng. Đột nhiên việc cuối cùng ông muốn làm là rời khỏi Jerusalem để đi tìm một cô gái ông không hề quen biết.
Gabriel quay trở lại Khách sạn King David để lấy phần còn lại của hồ sơ từ Graham Seymour: lá thư ngắn để đòi hỏi lại không có đòi hỏi nào, cái đĩa DVD ghi lời thú tội của Madeline và hai tấm hình của người đàn ông từ nhà hàng Les Palmiers ở thị trấn Calvi. Thêm vào đó, ông còn yêu cầu bản sao hồ sơ chính trị của cô ta, và cẩn thận hỏi một địa chỉ ở Nice.
“Chuyện với Chiara thế nào rồi?” Seymour hỏi.
“Thời điểm này, hôn nhân của tôi có lẽ còn tệ hơn Lancaster nữa.”
“Có chuyện gì tôi có thể làm hay không?”
“Hãy rời khỏi thành phố càng nhanh càng tốt. Và đừng nhắc đến tên tôi với Thủ tướng của ông hay bất cứ ai khác ở Phố Downing “
“Liên lạc với anh thế nào?”
“Tôi sẽ bắn pháo sáng báo hiệu khi có tin tức. Từ đây tới đó coi như tôi không tồn tại.”
Nói hết lời, Gabriel rời đi. Trở về Phố Narkiss, ông thấy trên cái bàn cà phê ở chỗ dễ nhìn thấy, một dây thắt lưng có ví tiền đựng hai trăm ngàn đô la. Cạnh đó là vé máy bay đi Paris lúc 4:00 chiều. Nó được đăng ký dưới cái tên Johannes Klemp, một trong những bí danh được ưa thích nhất của ông. Đi vào phòng ngủ, Gabriel xếp vào một cái túi ngủ nhỏ bộ quần áo hợp mốt nhất ở Đức của nhãn hàng Herr Klemp, kế bên là một bộ com lê đen và một cái áo len chui đầu màu đen để mặc trên máy bay. Sau đó, đứng trước tấm gương trong phòng tắm, ông làm vài việc để thay hình đổi dạng một cách tinh vi: làm tóc bạc đi một chút, đeo một cặp mắt kính không vành của Đức, gắn một cặp kính sát tròng màu nâu để che giấu đôi mắt màu xanh lục riêng biệt của mình. Trong vòng vài phút, chính ông cũng không nhận ra chính mình. Ông ấy không còn là Gabriel Allon, thiên thần báo thù của Israel nữa. Ông ấy là Johannes Klemp của thành phố Munich, một người đàn ông rất dễ mích lòng, một con người nhỏ mọn thất thường, rất dễ nổi nóng vì những chuyện không đâu.
Sau khi khoác lên mình bộ com lê đen của Herr Klemp và đắm mình trong mùi nước hoa nồng nàn của Herr Klemp, ông ngồi vào bàn trang điểm của vợ, mở hộp nữ trang của nàng ra. Thật kỳ lạ, có một món đồ dường như đã đặt nhầm chỗ. Đó là một sợi dây da đeo một miếng san hô màu đỏ tạo hình y hệt một bàn tay. Ông lấy nó ra và nhét vào túi. Sau đó cũng chẳng hiểu vì sao, ông lại tròng nó lên cổ rồi giấu kín dưới cái áo len của Herr Klemp.
Dưới lầu một chiếc xe sedan của Văn phòng đang để máy chạy không trên đường phố. Gabriel quăng cái túi lên băng ghế đằng sau rồi leo lên theo nó. Sau đó, ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay, không phải xem giờ mà là ngày tháng. Đó là ngày 27 tháng chín. Từng là ngày ông ưa thích nhất trong năm.
“Cậu tên gì vậy?” ông hỏi thăm tài xế.
“Dạ, Lior ạ.”
“Cậu từ đâu tới, Lior?”
“Dạ, từ Beersheba.”
“Lúc còn nhỏ ở đó có thích không?”
“Có những nơi còn tồi tệ hơn mà ông.”
“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Dạ, tôi hai mươi lăm.”
Hai mươi lăm, ông suy nghĩ. Sao lại phải là hai mươi lăm? Ông lại nhìn đồng hồ đeo tay. Không phải xem giờ mà là ngày tháng.
“Cậu đã nhận được chỉ thị gì?” ông hỏi thăm tài xế chỉ tình cờ hai mươi lăm tuổi.
“Họ đề nghị tôi chở ông tới Sân bay Ben Gurion.”
“Còn gì nữa không?”
“Họ nói có thể ông muốn dừng lại ở dọc đường.”
“Ai nói vậy? Có phải Uzi không?”
“Dạ không phải,” tài xế lắc đầu đáp lại. “Là Ông Già.”
À ra là vậy, ông nghĩ. Ông ta còn nhớ. Gabriel lại liếc đồng hồ đeo tay. Ngày tháng...
“Sao hả ông?” tài xế hỏi.
“Đưa tôi tới sân bay đi,” Gabriel đáp lại.
“Không dừng lại ạ?”
“Một lần thôi.”
Tài xế nhanh tay sang số rồi từ từ rời khỏi lề đường như thể đang đi đưa một đám tang. Cậu ta chẳng buồn hỏi đi về đâu. Đó là ngày 27 tháng Chín và Shamron còn nhớ.
Họ đi xe tới vườn Gethsemane và sau đó theo lối mòn ngoằn ngoèo chật hẹp leo lên sườn dốc của Núi Ô Liu (Mount of Olives). Gabriel vào nghĩa trang một mình và đi qua cả một biển đầy bia đá tới tận phần mộ của Daniel Allon, sinh ngày 27 tháng chín năm 1988, mất ngày 13 tháng Giêng năm 1991. Đã chết vào một đêm có tuyết rơi ở quận Nhất của thành phố Vienna, trong một chiếc xe hơi hiệu Mercedes màu xanh lơ bị nổ tung thành muôn mảnh nhỏ bởi một quả bom. Quả bom đó do một trùm khủng bố người Palestine cài đặt; hắn tên là Tariq al-Hourani, làm theo mệnh lệnh trực tiếp của Yasir Arafat. Gabriel không phải là mục tiêu tấn công; như thế hẳn đã quá nhân từ. Tariq và Arafat đã muốn trừng phạt ông bằng cách buộc ông phải chứng kiến cái chết của vợ và con, để ông sống cả quãng đời còn lại trong đau buồn như người Palestine. Chỉ một phần của âm mưu đã thất bại. Leah vẫn sống sót thoát khỏi cái nơi ghê rợn đó. Hiện giờ, bà sống trong một bệnh viện tâm thần trên đỉnh núi Herzl, bị mắc kẹt trong sự dằn vặt của những hồi ức xưa cũ và một thân thể bị lửa tàn phá. Rơi vào trạng thái phiền muộn do sự kết hợp của hội chứng stress sau chấn thương và chứng suy nhược thần kinh, bà luôn tưởng mình vẫn còn trong lúc đánh bom. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bà cũng thoáng chốc tỉnh táo. Trong một khoảnh khắc giữa chừng như thế, bà đã đồng thuận cho chồng mình cưới Chiara. Hãy nhìn em đi, Gabriel. Em có còn gì nữa đâu. Chẳng có gì ngoài hồi ức. Gabriel lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Không phải xem ngày tháng, mà là giờ giấc. Còn thời gian để nói một lời tạm biệt cuối cùng. Dòng nước mắt cuối cùng tuôn trào như thác đổ. Lời xin lỗi cuối cùng vì đã thất bại với việc tìm thấy quả bom trong xe hơi trước khi để cho Leah khởi động máy. Sau đó, ông loạng choạng bước ra khỏi khu vườn đầy đá, vào cái ngày mà trước đây vẫn thường là ngày ông yêu thích nhất, rồi trèo lên đằng sau chiếc xe sedan của Văn phòng do một cậu trai hai mươi lăm tuổi lái.
Cậu này rất biết điều, chẳng nói chẳng rằng suốt hành trình tới sân bay. Gabriel vào ga hàng không như một du khách bình thường, nhưng sau đó vào một phòng dành cho nhân viên của Văn phòng, nơi ông đợi người ta gọi chuyến bay của mình. Khi đã yên vị trong ghế ngồi hạng nhất, dẫu biết điều này rất không thích hợp với nghề nghiệp của mình, nhưng ông cảm thấy một sự thúc giục thiêng liêng phải gọi điện cho Chiara. Thay vì làm như vậy, sử dụng kỹ thuật mà Shamron đã dạy cho ông hồi còn trẻ, ông gạt bỏ nàng ấy ra khỏi tâm tưởng của mình. Bây giờ, nơi đây chẳng có Chiara. Cũng chẳng có bé Daniel. Leah cũng không, chỉ có Madeline Hart, nhân tình bị bắt cóc của Thủ tướng vương quốc Anh - Jonathan Lancaster. Khi máy bay cất cánh lên bầu trời đang sập tối, dường như với ông ấy, cô ta đang ở trên một bức tranh sơn dầu, như nàng Susanna đang tắm trong vườn nhà. Và đang lén nhìn cô qua bức tường là một gã đàn ông có gương mặt gầy gò và cái miệng nhỏ tàn bạo. Người đàn ông không tên, cũng chẳng biết từ xứ nào tới. Người đàn ông bị lãng quên.
Chú thích:
[1] Nguyên bản “Dead Sea Scrolls”: bản viết tay Kinh Thánh cựu ước của người Do Thái tìm thấy trong một hang động gần Biển Chết trong khoảng thời gian từ năm 1947 đến 1956, và có lẽ đã được viết từ năm 100 trước Công nguyên đến 68 Công nguyên.
[2] Đơn vị đo chiều dài cổ: khoảng một cẳng tay.
[3] Paolo Veronese (1528 -1588): họa sĩ Ý thời Phục Hưng, một trong những bậc thầy của trường phái Venice.
[4] Viết tắt của “opposite editorial”, có nghĩa là “mặt sau trang xã luận”.
Mục này dành để đăng các bài viết phản hồi ý kiến công luận; của một chuyên gia hay ký giả có tiếng nhưng không thuộc ban biên tập (nghĩa là quan điểm của người này không đại diện cho quan điểm của tờ báo); có thể tạm hiểu là “bình luận viên độc lập”.