← Quay lại trang sách

Chương 8 ĐẢO CORSE

ĐÓ LÀ GIỜ ăn trưa, thời gian ông trùm Orsati ưa thích nhất trong ngày. Họ dời ra khoảng không gian bên ngoài văn phòng của hắn và ngồi vào một cái bàn đã bày biện sẵn bánh mì, phô mai, rau củ và xúc xích của đảo Corse. Mặt trời sáng chói, và xuyên qua một khe trống của hàng cây thông laricio, Gabriel có thể thoáng thấy biển đang lóe lên ánh xanh lơ hòa với xanh lục lờ mờ ở xa xa. Hương vị của macchia ở khắp mọi nơi. Nó phảng phất trong không khí mát mẻ và dậy lên từ thức ăn; ngay cả Orsati dường như cũng tỏa ra mùi hương ấy. Hắn đổ ào ào rất nhiều rượu vang màu đỏ máu vào ly của khách rồi sau đó bắt tay vào việc cắt ra thành rất nhiều khúc thứ xúc xích dồn thật chặt của đảo Corse. Gabriel không gặng hỏi về nguồn cung cấp thịt. Như Shamron ưa nói, đôi khi không hỏi thì tốt hơn.

“Rất vui vì bọn tôi đã không giết ông,” chủ nhà nâng ly, nhấp môi một ít, rồi nói.

“Tôi có thể cam đoan với ông, ông trùm Orsati à, tôi cũng có cảm tưởng tương tự như ông.”

“Thêm xúc xích nữa nhé?”

“Cho tôi xin.”

Chủ nhà đẽo thêm hai khúc xúc xích dày rồi đặt vào đĩa bàn của khách. Sau đó hắn nhanh tay đeo cặp kính đọc sách hình bán nguyệt và săm soi bức ảnh người đàn ông ở nhà hàng Les Palmiers. “Trông hắn ta có khác trong bức ảnh này” một lát sau hắn nói, “nhưng chính xác là hắn.”

“Khác điều gì?”

“Cách hắn chải tóc. Khi đến gặp tôi, tóc hắn được bôi dầu và chải sát da đầu. Nó rất mượt mà,” Orsati nói thêm, “nhưng rất có hiệu quả.”

“Hắn có xưng tên hay không?”

“Hắn tự xưng là Paul.”

“Là họ của hắn?”

“Theo chỗ tôi được biết thì đấy là họ của hắn.”

“Ông bạn Paul của chúng ta nói tiếng gì?”

“Tiếng Pháp.”

“Là tiếng địa phương này sao?”

“Không phải, hắn nói giọng lơ lớ.”

“Kiểu gì vậy?”

“Tôi không thể xác định,” tên trùm nhíu cặp lông mày rậm. “Như thể hắn học tiếng Pháp từ một cái máy thu băng. Nghe thật hoàn hảo, nhưng lại không hoàn toàn đúng.”

“Tôi đoán hắn không tìm thấy tên ông trong danh bạ điện thoại.”

“Không phải, Allon ạ, hắn đã tham chiếu.”

“Tham chiếu cách nào vậy?”

“Một cái tên.”

“Là ai đó đã thuê anh trong quá khứ.”

“Đấy là cách thông thường.”

“Kiểu gì vậy?”

“Cái kiểu có hai thằng đàn ông cùng vào một phòng, và chỉ có một người đi ra. Đừng mất công hỏi tôi tên người hắn tham khảo,” chủ nhà nói thêm thật nhanh. “Ta đang lạm bàn việc làm ăn của tôi rồi.”

Gabriel hơi cúi đầu để tỏ rõ mình không muốn theo đuổi đề tài đó nữa, ít ra là ngay lúc này. Rồi ông hỏi tên trùm gã đàn ông tới gặp hắn để làm gì.

“Tìm lời khuyên,” tên trùm đáp.

“Về chuyện gì vậy?”

“Hắn nói với tôi rằng có hàng hóa cần vận chuyển nên cần ai đấy có một chiếc thuyền chạy nhanh. Ai đấy rành đường trên biển ở khu vực này và có thể chở hàng ban đêm. Ai đấy biết giữ mồm giữ miệng.”

“Hàng hóa sao?”

“Điều này có lẽ khiến ông ngạc nhiên, nhưng hắn không nói rõ.”

“Ông đoán hắn là một tên buôn lậu,” Gabriel khẳng định, không phải câu hỏi.

“Đảo Corse là một điểm trung chuyển chính yếu để chở heroin từ Trung Đông vào châu Âu. Từ trước đến nay,” tên trùm nói thêm thật nhanh, “dòng họ Orsati chẳng hề dính líu đến ma túy, dù có lần bọn tôi đã khử một lái buôn nổi tiếng.”

“Để nhận thù lao chứ gì.”

“Dân chơi càng nặng ký, phí càng cao.”

“Ông có khả năng lo việc ấy giúp hắn không?”

“Dĩ nhiên rồi,” tên trùm hạ giọng nói tiếp, “Đôi khi chính bọn tôi cũng phải chở hàng ban đêm.”

“Những thứ như là xác chết?”

Tên trùm nhún vai. “Chúng là những phế phẩm kém may mắn trong việc làm ăn của bọn tôi,” hắn nói y hệt một triết gia. “Thông thường chúng ngã xuống ở đâu, bọn tôi cứ để chúng ở đấy. Nhưng đôi khi khách hàng trả thêm chút ít để làm cho bọn chúng mãi mãi biến mất. Phương pháp bọn tôi ưa thích nhất là bỏ chúng vào hòm bê tông rồi thả chúng xuống đáy biển. Họa chăng có trời mới biết bao nhiêu đứa đã xuống đấy.”

“Paul đã trả bao nhiêu?”

“Một trăm nghìn.”

“Ăn chia ra sao?”

“Một nửa cho tôi, một nửa cho chủ thuyền.”

“Chỉ một nửa thôi à?”

“Gã nọ gặp may vì tôi cho hắn nhiều tiền.”

“Và khi nghe tin cô gái người Anh bị mất tích, ông đã nghĩ gì?”

“Hiển nhiên, tôi đã nghi ngờ. Và khi thấy ảnh của Paul trên các báo...” Giọng tên trùm lạc hẳn đi. “Phải nói là tôi không vui. Việc tôi vừa làm để kiếm tiền khiến tôi bực tức.”

“Vì ông đã tiếp tay cho chúng bắt cóc một phụ nữ trẻ?”

“Chắc ông cũng thế thôi.”

Gabriel chẳng nói gì.

“Tôi không có ý làm mất lòng ông đâu,” tên trùm nói một cách thành thật.

“Không có gì hết, ông trùm Orsati ạ.”

Tên trùm bỏ vào đầy đĩa bàn của mình tiêu rang và cà rồi rưới dầu ô liu Orsati lên trên. Gabriel uống ít rượu vang và nói vài lời khen ngợi tên trùm, rồi hỏi tên gã có chiếc thuyền chạy nhanh và rành đường trên biển ở khu vực này. Ông nói như thể điều ấy vọng lại từ nơi xa xôi nhất trong tâm tưởng của mình.

“Ta đang đi vào một lĩnh vực nhạy cảm,” tên trùm đáp. “Tôi làm ăn lâu dài với bọn này. Nếu lúc nào đấy chúng phát hiện tôi phản bội chúng khi giúp cho một người như ông, sự việc sẽ trở nên rắc rối đấy, Allon ạ.”

“Tôi xin cam đoan với ông, ông trùm Orsati, chúng sẽ không bao giờ biết làm sao tôi có được thông tin đó.”

Orsati có vẻ không bị thuyết phục. “Vì sao cô gái này lại quan trọng đến mức ngài Gabriel Allon phải đi tìm cô ấy chứ?”

“Phải nói là cô ta có những người bạn quyền lực.”

“Bạn bè ư?” tên trùm lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi. “Nếu ông đã dính líu vào vụ này, chắc phải hơn thế chứ.”

“Ông là người rất khôn ngoan, ông trùm Orsati ạ.”

“Macchia không có mắt,” tên trùm nói một cách bí hiểm.

“Tôi cần biết tên hắn,” Gabriel nói thật nhanh. “Hắn sẽ không biết tôi nắm được điều đó từ đâu.”

Orsati cầm ly rượu vang đỏ như máu của hắn nâng lên về phía mặt trời. Một lát sau hắn nói, “Nếu tôi là ông, tôi sẽ nói chuyện với một gã đàn ông tên là Marcel Lacroix. Hắn có thể biết điều gì đấy về nơi cô gái ấy đã đi sau khi rời đảo Corse.”

“Tôi có thể tìm hắn ở đâu?”

“Marseilles,” chủ nhà đáp. “Hắn đang canh giữ con tàu của mình ở bến cảng Old Port.”

“Phía nào?”

“Phía Nam. Đối diện với phòng tranh.”

“Con thuyền đó tên gọi là gì?”

“VŨ Điệu Ánh Trăng.”

“Hay lắm,” Gabriel nói.

“Tôi có thể bảo đảm với ông gã Marcel Lacroix và bọn người hắn giúp việc chả có gì tốt lành cả. Ông cần phải cảnh giác từng bước chân ở Marseilles đấy.”

“Điều này có thể khiến ông thấy bất ngờ, ông trùm Orsati à, nhưng trước đây tôi từng làm việc này một hay hai lần rồi.”

“Đúng thế. Nhưng lẽ ra ông đã chết cách đây lâu lắm rồi.” Orsati đưa cho Gabriel cái bùa. “Đeo nó vào cổ đi. Không chỉ xua tà ma đi thôi đâu.”

“Thật tình,” Gabriel đáp, “Tôi đang tự hỏi liệu ông còn thứ gì có quyền phép mạnh hơn một chút hay không.”

“Như thứ gì?”

“Một khẩu súng.”

Trùm băng đảng mỉm cười. “Tôi có một thứ còn lợi hại hơn súng đạn nữa.”

Gabriel đi theo con đường cho tới khi nó rẽ sang đường đất, rồi theo đó đi tiếp xa hơn một chút. Con dê già đang đợi đúng chỗ Ông trùm Orsati đã nói cho biết, ngay trước chỗ rẽ ngoặt bên tay trái, dưới bóng mát của ba cây ô liu cổ thụ. Khi Gabriel tới gần, nó nhổm dậy từ chỗ nghỉ ngơi và đứng ngay chính giữa lối mòn chật hẹp, cái cằm hất lên ngang ngạnh như thể thách thức ông cứ thử vượt qua. Nó có bộ lông giống kiểu mẫu của một con ngựa palomino và một chòm râu đỏ. Cũng như Gabriel, mình nó đầy sẹo vì các trận đánh trước đây.

Gabriel nhích xe hơi tới trước, hy vọng con dê sẽ chịu rời bỏ vị trí không cần đánh nhau nữa, nhưng con vật cứ đứng ì ra đó. Ông nhìn khẩu súng chủ đồn điền đưa cho. Một khẩu Beretta 9mm đang nằm trên ghế dành cho khách ở đằng trước, đã nạp đầy đạn. Một phát bắn vào giữa cặp sửng đã bị mòn của con dê là tất cả những gì cần làm để kết thúc tình trạng ách tắc này, nhưng không thể được; con dê cũng như ba cây ô liu cổ thụ đều thuộc quyền sở hữu của Ông trùm Casabianca. Và Gabriel chỉ cần đụng tới một sợi lông trên cái đầu thảm hại của nó cũng đủ gây ra một mối thù truyền kiếp, và máu sẽ tuôn tràn.

Gabriel nhấn còi xe hai lần nhưng con dê vẫn không thèm nhúc nhích. Thở dài thườn thượt, ông leo ra khỏi xe, thử lý sự với con vật - mở đầu bằng tiếng Pháp rồi tiếng Ý, và sau đó ông bực tức tuôn ra tiếng Do Thái. Con dê phản ứng lại bằng cách hạ thấp cái đầu như một dụng cụ phá cửa nhắm vào ngay giữa bụng ông. Nhưng Gabriel vốn tin cách phòng thủ tốt nhất là tấn công thật tốt, nên đã hạ thủ trước. Ông khua tay múa chân, la hét như điên. Thật đáng ngạc nhiên, con dê rút lui ngay tức thì và biến mất qua một khoảng trống của macchia.

Gabriel lanh lẹ quay trở lại cửa xe đang mở nhưng ngừng lại khi nghe xa xa có một âm thanh như tiếng khúc khích của một con chim nhại. Xoay người lại, ông ngước nhìn về phía biệt thự màu đỏ son nương chặt vào sườn ngọn đồi kế bên. Đứng trên nền cao là một người đàn ông tóc vàng hoe mặc đồ toàn màu trắng. Và mặc dù Gabriel không thể chắc chắn, dường như y đang cười ngặt nghẽo không tài nào nín được.