Chương 9 ĐẢO CORSE
NGƯỜI ĐÀN ÔNG chờ đợi Gabriel ở ngôi biệt thự không phải là dân đảo Corse: ít ra y không phải sinh ra ở đó. Tên thật của y là Christopher Keller, đã được nuôi nấng trong một gia đình thượng trung lưu ở quận Kensington sang trọng của London. Tuy vậy trên đảo Corse chỉ có ông trùm Orsati và một toán thuộc hạ của hắn biết đến chuyện này. Với những người còn lại trên đảo, Keller đơn giản chỉ được biết đến là ông người Anh.
Câu chuyện Christopher Keller đi từ Kensington tới đảo Corse là một trong những chuyện khá lý thú mà Gabriel chưa từng nghe, được kể rằng y là con trai độc nhất của hai y sĩ ở Phố Harley, ngay từ khi còn nhỏ Keller đã nói rõ mình không có ý định nối nghiệp cha mẹ. Bị lịch sử ám ảnh, nhất là lịch sử quân sự, y muốn trở thành một người lính. Cha mẹ cấm y theo nghiệp quân sự, và trong một thời gian y đồng ý làm theo mong ước của họ. Y ghi danh vào Đại học Cambridge rồi bắt đầu đọc sách về lịch sử và các ngôn ngữ phương Đông. Y là một sinh viên ưu tú, nhưng vào năm thứ hai y trở nên bồn chồn đứng ngồi không yên và một đêm đã biến mất tăm. Vài hôm sau y lại xuất hiện ở nhà cha mẹ mình tại Kensington, tóc cắt sát da đầu, mặc một bộ quân phục màu ô liu. Y đã đăng ký gia nhập Quân đội Vương quốc Anh.
Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện căn bản, Keller gia nhập một đơn vị bộ binh, nhưng với trí tuệ, thể chất đặc biệt cường tráng và dáng vẻ như một con sói đơn độc của y đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của Đặc nhiệm Không quân (Special Air Service - ‘SAS’). Trong những ngày mới đến Sở chỉ huy Trung đoàn ở Hereford, rõ ràng y đã tìm đúng ngành nghề. Các điểm số của y ở “nhà sát thương,” một cơ sở huấn luyện khét tiếng, nơi các tân binh thực hành cận chiến và giải cứu con tin, là thành tích cao nhất từ trước đến nay, trong khi các huấn luyện viên của khóa học về chiến đấu không khí giới lại ghi nhận họ chưa từng thấy ai có một sở trường bẩm sinh đặc sắc trong việc tước đoạt sinh mạng của con người như thế. Chương trình huấn luyện lên đến đỉnh điểm với một cuộc hành quân bốn mươi dặm, băng qua vùng đất hoang lộng gió mang tên Brecon Beacons, một cuộc khảo nghiệm về sức chịu đựng từng làm chết người. Đeo một chiếc ba lô nặng hai mươi lăm kilogram và vác một khẩu súng trường tấn công nặng gần năm kilogram, Keller đã phá kỷ lục của khóa học với ba mươi phút, một điểm số ngày nay vẫn cao nhất.
Mới đầu, y được phân công về một đội Kỵ binh chuyên tiến hành chiến tranh lưu động trong sa mạc, nhưng sự nghiệp của y sớm rẽ sang một bước ngoặt khác khi một người từ Cục tình báo quân đội tới tuyển mộ. Người này đang tìm kiếm một kiểu chiến sĩ đặc biệt độc đáo có khả năng thi hành việc bí mật theo dõi và các nhiệm vụ đặc biệt khác ở Bắc Ireland. Ông ta nói có ấn tượng tốt về kỹ năng ngôn ngữ của Keller cùng với khả năng ứng biến và khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng của y. Quan trọng là Keller có thích hay không? Ngay đêm hôm ấy y gói ghém hành trang và di chuyển từ Hereford tới một căn cứ bí mật trên Cao nguyên Scotland.
Suốt khóa huấn luyện y còn bộc lộ một tài năng xuất chúng khác. Trong nhiều năm, các lực lượng tình báo và an ninh Anh đã đấu tranh với vô số giọng điệu đối lập ở Bắc Ireland, ở Ulster [1], cộng đồng đối lập có thể nhận diện nhau qua âm thanh của giọng nói, và cái cách một người thốt ra vài cụm từ đơn giản, nghĩa là anh ta đang ở ranh giới giữa sự sống và một cái chết kinh hoàng. Keller đã phát triển khả năng bắt chước giọng điệu một cách hoàn hảo. Thậm chí, y còn có thể đổi giọng ngay tức khắc: lúc này là một người Công giáo từ Armagh, kế tiếp là một người Tin lành từ Phố Shankill ở Belfast, sau đó là một người Công giáo từ khu dân cư Ballymurphy. Y làm đặc vụ ở Belfast hơn một năm, theo dõi những kẻ được biết là thành viên của đội quân IRA, thu thập những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách vặt vãnh hữu ích từ cộng đồng xung quanh mình. Tính chất của công việc cho phép y đôi khi đi đây đi đó rất nhiều tuần mà không cần liên lạc với sĩ quan chỉ huy của mình.
Việc y được phân công tới Bắc Ireland đi đến một kết thúc đột ngột khi y bị bắt cóc ở khu Tây Belfast và dẫn giải tới một ngôi nhà trong trang trại xa xôi hẻo lánh ở hạt Armagh, ở đó y bị buộc tội làm gián điệp cho Vương quốc Anh. Keller biết tình thế là vô vọng, nên quyết định phải chiến đấu để tìm cách thoát thân. Lúc y rời khỏi trang trại, bốn tên khủng bố ác ôn của Quân đội Lâm thời Cộng hòa Ireland đã chết. Hai tên thực sự đã bị băm vằm thành muôn mảnh.
Keller trở về Hereford, cứ tưởng mình sẽ được nghỉ ngơi lâu dài và chỉ làm phần nào công việc của một huấn luyện viên. Nhưng y chỉ lưu lại đó tới tháng Tám năm 1990, khi Saddam Hussein xâm chiếm Kuwait. Keller nhanh chóng gia nhập lại đơn vị Kỵ binh của mình trước đây, và vào tháng Giêng năm 1991, y đã tới sa mạc ở miền Tây Iraq, săn tìm bọn phóng tên lửa Scud từng gieo rắc kinh hoàng ở Tel Aviv. Đêm 28 tháng Giêng, y và toán lính của mình định vị một bệ phóng tên lửa cách Baghdad chừng một trăm dặm về phía Bắc và đã truyền tín hiệu tọa độ ấy cho chỉ huy của mình ở Ả Rập Saudi. Chín mươi phút sau, một đội hình các máy bay chiến đấu kiêm đánh bom của Liên quân đã nhanh như chớp lao xuống sa mạc. Nhưng vì một sự nhầm lẫn thảm khốc, phi đội ấy đã tấn công đội kỵ binh của SAS thay vì địa điểm có tên lửa. Giới chức Anh kết luận toàn đơn vị đã mất tích, kể cả Keller. Trong điếu văn không hề đề cập đến công tác tình báo của y ở Bắc Ireland, cũng như bốn chiến binh IRA mà y đã làm thịt ở trang trại tại hạt Armagh.
Tuy vậy, điều mà giới chức quân sự Anh không hề hay biết, đó là Keller vẫn sống sót qua sự cố, và chẳng bị một vết trầy xước nào. Đáng lý theo bản năng, trước tiên y phải truyền tin về căn cứ của mình và yêu cầu thu quân. Thay vào đó, điên tiết vì trình độ kém cỏi của cấp trên, y bắt đầu dấn bước. Che kín dưới lớp áo và đầu tóc của một người Ả Rập vùng sa mạc, đã được huấn luyện rất kỹ về nghệ thuật bí mật di chuyển, Keller tìm đường đi qua các lực lượng của Liên quân, lanh lẹ lẻn sang Syria không hề bị phát hiện. Từ đó, y lặn lội đường xa đi về hướng Tây băng qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và Ý rồi sau cùng trôi dạt lên bờ đảo Corse, nơi y rơi vào vòng tay đang trông đợi của Ông trùm Orsati. Tên trùm cấp cho y một biệt thự và một người đàn bà để giúp chữa lành những vết thương của y. Và khi Keller đã nghỉ ngơi đầy đủ, tên trùm cho y việc làm. Nhờ dáng vẻ của người Bắc Âu và được huấn luyện ở SAS, y có thể hoàn thành các hợp đồng vượt ra xa ngoài khả năng của bọn taddunaghiu sinh trưởng trên đảo Corse trong băng đảng Orsati. Một trong những hợp đồng như thế từng ghi tên Anna Rolfe và Gabriel Allon. Vì lương tâm không cho phép, Keller đã không thể thi hành việc đó, nhưng niềm kiêu hãnh nghề nghiệp đã thúc đẩy y bỏ lại sau lưng cái bùa: chính là cái bùa bây giờ Gabriel đang nắm trong lòng bàn tay.
Thật đáng chú ý, hai người đàn ông đã từng gặp nhau một lần trước đó, nhiều năm về trước, khi Keller và rất nhiều sĩ quan SAS khác đã đến Israel để huấn luyện kỹ thuật chống khủng bố. Vào ngày lưu trú cuối cùng của họ, Gabriel đã miễn cưỡng đồng ý diễn giảng một bài được xem là tài liệu mật về một trong những điệp vụ táo bạo nhất của ông: vụ ám sát lãnh đạo thứ nhì của PLO là Abu JThad tại biệt thự của ông ta ở Tunis vào năm 1988. Keller đã ngồi ở hàng ghế đầu, say sưa lắng nghe từng lời nói của diễn giả; và sau đó, khi chụp hình lưu niệm theo từng nhóm, y đã tự xếp chỗ bên cạnh Gabriel. Gabriel đã đeo kính mát và đội một cái mũ để che giấu lai lịch của mình, nhưng Keller lại đăm đăm nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh. Đó là một trong những tấm hình cuối cùng y từng được chụp.
Giờ đây, khi Gabriel bước xuống chiếc xe hơi được thuê, gã đàn ông từng một lần tha mạng cho ông đang đứng trên ngưỡng cửa mở rộng của nơi y ẩn náu trên đảo Corse. Y cao hơn Gabriel một cái đầu, vòng ngực và vai dày dạn hơn nhiều. Hai mươi năm dưới ánh nắng của đảo Corse đã làm y thay hình đổi dạng nhiều. Da y giờ đây có màu da yên ngựa, còn mái tóc cắt ngắn thì bạc trắng vì biển cả. Dường như chỉ có đôi mắt xanh vẫn không hề thay đổi. Cũng là đôi mắt từng theo dõi Gabriel hết sức chăm chú khi ông thuật lại thật tỉ mỉ cái chết của Abu JThad. Và cũng chính đôi mắt ấy đã từng ban cho ông sự khoan dung vào một đêm mưa ở Venice, trong một quãng đời khác.
“Tôi định mời ông ăn trưa,” Keller nói theo giọng điệu nuốt âm của tiếng Anh, “nhưng nghe nói ông đã dùng bữa tại nhà Orsati rồi.”
Khi Keller đưa tay về phía Gabriel, các bắp thịt săn chắc trên cánh tay của y cuồn cuộn dưới lớp áo len tròng đầu màu trắng. Gabriel chần chừ một lát và cuối cùng cũng nắm chặt bàn tay ấy. Mọi thứ về Christopher Keller, từ hai bàn tay giống như hai lưỡi rìu nhỏ đến đôi chân mạnh khỏe như có gắn lò xo, dường như đều được cố ý thiết kế vì mục đích giết người.
“Ông trùm đã nói với anh bao nhiêu rồi?” Gabriel hỏi.
“Đủ để biết ông không thể tiếp cận một gã như Marcel Lacroix nếu không được hỗ trợ.”
“Tôi đoán anh quen biết hắn ta?”
“Hắn có chở tôi một lần.”
“Trước đây hay sau này?”
“Cả hai,” Keller đáp. “Lacroix đã phạm một tội ác trong quân đội Pháp. Hắn cũng từng trải qua một số nhà tù khắc nghiệt nhất ở nước này.”
“Chắc tôi sẽ có ấn tượng với hắn, phải không?”
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng đấy.”
“Là lời Tôn Tử,” Gabriel nói.
“Thì ông đã trích dẫn đoạn ấy khi diễn giảng ở Tel Aviv mà.”
“Vậy là rốt cuộc, anh đã lắng nghe đầy đủ.”
Gabriel đi lướt nhanh ngang qua Keller, bước vào gian phòng rộng mênh mông của biệt thự. Đồ đạc bày biện kiểu thôn quê, cũng phủ vải trắng như chủ nhà. Hàng đống sách chất đầy khắp các mặt bằng phẳng, và trên tường treo rất nhiều bức tranh có giá trị, và cũng gồm cả các tác phẩm kém nổi tiếng hơn của Cezanne, Matisse và Monet.
“Không có hệ thống bảo mật à?” Gabriel đảo mắt nhìn quanh phòng rồi hỏi.
“Chẳng cần đâu.”
Gabriel bước tới chỗ bức tranh của Cezanne vẽ một phong cảnh vùng đồi gần Aix-en-Provence, và lướt nhẹ đầu ngón tay trên bề mặt.
“Anh chăm sóc bản thân tốt lắm, Keller à.”
“Phải mất nhiều tiền đấy.”
Gabriel chẳng nói gì.
“Ông không đồng tình với cách tôi kiếm sống ư?”
“Anh giết người vì tiền.”
“Thì ông cũng thế thôi.”
“Tôi giết vì đất nước của mình,” Gabriel đáp. “Và chỉ như một giải pháp cuối cùng mà thôi.”
“Có phải vì thế mà ông đã bắn cho não của Ivan Kharkov văng tung tóe khắp mặt đường ở Saint-Tropez hay không? Vì đất nước của ông ư?”
Gabriel xoay người khỏi bức tranh của Cezanne và chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Keller. Bất cứ ai khác hẳn đã yếu lòng chột dạ vì ánh nhìn quá ghê gớm của Gabriel, nhưng Keller thì không. Bất chợt hai cánh tay mạnh khỏe của y khoanh lại trước ngực, và một bên mép nhếch lên cười nửa miệng.
“Dù sao đây có lẽ không phải là ý kiến hay ho gì,” Gabriel nói.
“Tôi biết bọn dân chơi và rành rẽ địa bàn. Ông thật ngốc khi không dùng tôi.”
Gabriel không đáp lại. Keller nói đúng. Y là hướng dẫn viên hoàn hảo để tìm gặp bọn tội phạm hoạt động ngầm ở Pháp. Thể chất và kỹ năng vạch kế sách của y chắc chắn sẽ tỏ ra có giá trị trước khi vụ việc này kết thúc.
“Tôi không thể trả tiền cho anh,” Gabriel nói.
“Tôi chẳng cần tiền,” Keller vừa đáp vừa nhìn quanh ngôi biệt thự xinh đẹp. “Nhưng tôi cần ông trả lời vài câu hỏi trước khi chúng ta rời đi.”
“Chúng tôi có năm ngày để tìm ra cô gái, bằng không cô ta sẽ chết.”
“Năm ngày dài vô tận với những người như chúng ta.”
“Tôi đang nghe đây”
“Ông đang làm việc cho ai thế?”
“Cho Thủ tướng Anh.”
“Tôi đã không nhận ra hai người có thể trò chuyện với nhau đấy.”
“Một người bên trong tình báo Anh đã thuê tôi.”
“Nhân danh Thủ tướng ư?”
Gabriel gật đầu.
“Thủ tướng có quan hệ gì với cô gái này?”
“Anh cứ dùng trí tưởng tượng của mình đi.”
“Lạy Chúa tôi.”
“Chúa có rất ít liên can tới chuyện này.”
“Bạn của Thủ tướng bên trong tình báo Anh là ai thế?”
Gabriel do dự, rồi cũng thành thật trả lời câu hỏi ấy. Keller mỉm cười.
“Anh cũng biết ông ta à?” Gabriel hỏi.
“Tôi đã làm việc với Graham ở Bắc Ireland. Ông ấy chuyên nghiệp nhất trong đám chuyên nghiệp. Nhưng cũng như những người khác ở nước Anh,” y nói thêm rất nhanh, “Graham Seymour tưởng tôi đã chết. Nghĩa là ông ấy chẳng bao giờ biết được tôi đang làm việc với ông “
“Anh có lời nói của tôi bảo đảm mà.”
“Tôi còn muốn một thứ nữa.”
Y thò tay tới. Gabriel để cho y lấy đi cái bùa.
“Tôi ngạc nhiên vì ông vẫn còn giữ nó đấy,” Keller nói.
“Nó có một giá trị tình cảm.”
Keller nhanh tay đeo cái bùa quanh cổ. “Ta đi nào,” y mỉm cười nói. “Tôi biết chỗ có thể lấy cho ông một cái khác.”
Mụ signadora sống trong một căn nhà xiêu vẹo ở trung tâm của ngôi làng, cách không xa nhà thờ. Keller tới không hẹn trước nhưng mụ ta không có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy y. Mụ mặc một váy áo dài màu đen và quấn khăn đen quanh mái tóc khô y như bùi nhùi. Với một nụ cười lo âu, mụ dịu dàng sờ má Keller. Rồi mấy ngón tay đặt lên thánh giá nặng đeo quanh cổ, mụ quay sang nhìn chằm chằm Gabriel. Mụ có nhiệm vụ săn sóc những kẻ đau khổ vì tà thuật. Hiển nhiên mụ ta sợ Keller mang tới nhà mình hiện thân của quỷ.
“Người đàn ông này là ai?” mụ hỏi.
“Một người bạn,” Keller đáp.
“Ông ta có phải là tín đồ không?”
“Không như chúng ta đâu.”
“Nói cho tôi biết tên ông ta đi, Christopher... tên thật của ông ta!”
“Tên ông ấy là Gabriel.”
“Giống tên tổng lãnh thiên thần [2] nhỉ?”
“Phải đấy,” Keller đáp.
Mụ ngó mặt Gabriel thật kỹ. “Anh ta là người Israel, đúng không?”
Khi Keller gật đầu, mụ hơi nhíu mày tỏ vẻ không hài lòng. Theo giáo lý mụ xem người Do Thái là tà giáo nhưng cá nhân mụ chưa hề cãi cọ với họ. Mụ cởi nút áo sơ mi và sờ cái bùa đeo quanh cổ Keller.
“Đây không phải là cái bùa anh đã để mất cách đây rất nhiều năm rồi hay sao?”
“Phải đấy.”
“Anh đã tìm thấy nó ở đâu?”
“Ở dưới đáy cái hộc tủ để quá nhiều đồ.”
Mụ signadora lắc đầu trách móc. “Anh nói dối tôi, Christopher. Khi nào anh mới chịu hiểu là tôi có thể biết khi nào anh nói dối vậy?”
Keller mỉm cười nhưng chẳng nói gì. Mụ signadora buông cái bùa ra và lại sờ má y.
“Anh sắp rời đảo à Christopher?”
“Đêm nay.”
Mụ không hỏi tại sao; mụ đã biết rõ là y làm gì để kiếm sống. Thật vậy, dạo nọ mụ đã thuê một taddunaghiu trẻ tên Anton Orsati để báo thù cho chồng mụ bị sát hại.
Mụ khoát tay mời hai người đàn ông ngồi vào một cái bàn gỗ nhỏ trong chỗ mụ tiếp khách. Trước mặt họ mụ đặt một đĩa đựng đầy nước và một chậu dầu ô liu. Keller nhúng ngón tay trỏ vào dầu rồi để nó phía trên cái đĩa cho ba giọt nhỏ xuống mặt nước. Theo các định luật vật lý, đáng lẽ dầu phải gom lại thành một mảng duy nhất. Thay vì vậy, nó lại tan tác thành hàng ngàn giọt nhỏ và chẳng bao lâu không có một dấu vết nào.
“Tà khí đã quay trở lại rồi, Christopher à.”
“Tôi e rằng đây là một chuyện ngẫu nhiên thỉnh thoảng vẫn xảy ra.”
“Đừng có nói đùa, cưng ơi! chuyện nguy hiểm là có thật.”
“Bà thấy cái gì thế?”
Mụ ta chằm chặp ngó vào chất lỏng như thể đang mê đắm xuất thần. Một lát sau mụ khẽ hỏi, “Có phải các anh đang đi tìm cô gái người Anh hay không?”
Keller gật đầu, rồi hỏi lại, “Cô ấy còn sống không?”
“Còn,” mụ trả lời. “Cô ấy còn sống.”
“Cô ấy đang ở đâu thế?”
“Tôi không đủ quyền phép để cho anh biết chuyện đó.”
“Chúng tôi sẽ tìm ra cô ấy chứ?”
“Khi cô ấy đã chết,” mụ phán. “Lúc đó các anh mới biết được sự thật.”
“Bà thấy được gì thế?”
Mụ nhắm mắt lại. “Nước... núi non... một kẻ thù cũ...”
“Của tôi?”
“Không phải,” mụ mở mắt ra và nhìn thẳng vào mặt Gabriel. “Của anh ta.”
Chẳng nói thêm một lời nào nữa, mụ nắm lấy bàn tay gã người Anh và cầu nguyện. Một lúc sau mụ bắt đầu tuôn trào nước mắt, một dấu hiệu chứng tỏ tà khí đã từ cơ thể y chuyển sang cơ thể mụ. Sau đó mụ nhắm mắt và có vẻ như đang ngủ. Khi thức giấc mụ chỉ dẫn cho y lặp lại thử nghiệm của dầu và nước. Lần này dầu hợp lại thành một giọt duy nhất.
“Tà khí đã ra khỏi linh hồn anh rồi, Christopher.” Rồi quay sang Gabriel mụ nói, “Bây giờ tới lượt anh ta.”
“Tôi không phải là tín đồ,” Gabriel nói.
“Làm ơn đi,” mụ nói. “Không phải vì anh đâu, mà vì Christopher.”
Gabriel miễn cưỡng nhúng ngón trỏ vào dầu rồi để cho ba giọt nhỏ xuống mặt nước. Khi dầu tan tác thành muôn mảnh, mụ nhắm mắt lại và bắt đầu run rẩy.
“Bà thấy gì thế?” Keller hỏi.
“Lửa,” mụ dịu dàng đáp. “Tôi thấy lửa.”
Có một chuyến phà lúc 5 giờ từ thị trấn Ajaccio. Gabriel lái chiếc Peugeot nhẹ nhàng vào boong dành cho xe hơi lúc bốn giờ rưỡi, rồi mười phút sau đó quan sát khi Keller lên phà đằng sau tay lái của một chiếc xe hatchback hiệu Renault đã tàn tạ. Hai gian của họ cùng ở trên một boong, trực tiếp đối diện ngang qua hành lang. Gian của Gabriel có kích thước của một xà lim nhà tù và cũng mời mọc hấp dẫn y như thế. Ông để lại túi của mình trên chiếc giường nhỏ hẹp rồi leo cầu thang lên quán rượu. Lúc ông tới nơi, Keller đang yên vị ở một cái bàn cạnh cửa sổ, một ly bia đang nâng lên môi, một điếu thuốc đang âm ỉ cháy trong gạt tàn. Gabriel lắc đầu chầm chậm. Bốn mươi tám giờ trước ông vẫn còn đứng trước một bức tranh sơn dầu ở Jerusalem. Bây giờ ông đang sục sạo tìm một phụ nữ mình không hề quen biết, cùng đi với một gã đàn ông từng nhận một hợp đồng giết chết mình.
Ông gặp chủ quán, gọi cà phê đen rồi bước ra ngoài boong ở cuối phà. Chiếc phà đang ở phần ngoài cùng của bến tàu, và khí trời buổi tối đột nhiên lạnh giá. Gabriel lật cổ áo khoác lên rồi bao phủ bàn tay quanh cái tách cà phê bằng giấy bìa cứng cho ấm. Những vì sao đằng đông sáng rực trên bầu trời không có mây, và biển trước đó một lúc còn màu lam ngọc, đã đổi thành màu đen như mực tàu. Ông nghĩ mình có thể ngửi thấy mùi của macchia trong gió. Rồi một lát sau ông nghe thấy giọng nói của mụ signadora. Khi cô ấy đã chết, mụ già vẫn đang nói. Lúc đó các anh mới biết được sự thật.
Chú thích:
[1] Một tỉnh của miền Bắc đảo Ireland trong lịch sử gồm 9 hạt, trong đó 6 hạt hiện nay thuộc Vương quốc Anh, và Ulster là tên gọi không chính thức của Bắc Ireland thuộc Vương quốc Anh.
[2] Gabriel trong truyền thống Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo đều là sử giả của Thượng Đế; chính là vị thiên sứ đã báo mộng cho Đức Mẹ Maria về Đấng Cứu Thế, và Hồi giáo cũng tin thiên sứ này đã truyền đạt Kinh Koran cho Đấng Tiên tri Muhammad.