← Quay lại trang sách

Chương 10 CẢNG MARSEILLES

KHI GABRIEL VÀ Keller tới cảng Marseilles sáng sớm hôm sau, con thuyền Vũ Điệu Ánh Trăng dài gần 13,5 mét có động cơ đủ mạnh để buôn lậu đường biển, đã neo chặt trong bến đậu thường lệ của nó ở cảng Old Port. Tuy nhiên, chẳng thấy chủ của nó đâu cả. Keller đóng một chốt quan sát cố định ở phía Bắc, còn Gabriel thì ở phía Đông, bên ngoài một quán pizza không hiểu sao lại trùng tên với một quán Manhattan thời thượng ở gần đó. Họ di chuyển đến vị trí mới vào đầu và cuối mỗi giờ đồng hồ, nhưng đến xế chiều vẫn chẳng thấy bóng dáng Lacroix. Sau cùng, sốt ruột vì viễn cảnh một ngày sắp mất công toi, Gabriel rảo bước quanh chu vi bến tàu, ngang qua những người bán cá ở những cái bàn kim loại của họ, rồi gặp lại Keller đang ngồi trong chiếc Renault. Thời tiết đang xấu đi: mưa nặng hạt, một cơn gió mistral lạnh buốt đang gào hú khi rời khỏi vùng đồi núi. Keller cứ vài giây lại cho quay hai cái cần quạt nước để giữ cho kính chắn gió luôn trong suốt. Cái máy làm tan sương yếu ớt phả làn hơi đứt quãng lên mặt kính đẫm sương mù.

“Anh chắc chắn hắn không thuê một căn hộ trong thành phố chứ?” Gabriel hỏi.

“Hắn sống trên thuyền.”

“Còn đàn bà thì sao?”

“Hắn có rất nhiều, nhưng chẳng ai chịu đựng được lâu khi có mặt hắn.” Keller lấy mu bàn tay chùi cái kính chắn gió. “Có lẽ chúng ta nên thuê một phòng ở khách sạn?

“Việc đó hơi sớm một chút, anh không nghĩ vậy sao? Dù sao chúng ta chỉ mới gặp nhau thôi mà.”

“Ông vẫn luôn nói lời châm biếm vớ vẩn trong các điệp vụ à?”

“Đó là một nỗi khổ về văn hóa.”

“Những lời châm biếm vớ vẩn hay là các điệp vụ?”

“Cả hai.”

Keller moi một cái tã giấy từ trong hộp đựng găng tay và làm hết sức để sửa sai vì y đã tạo lắm vết bẩn trên mặt kính. “Bà ngoại tôi là người Do Thái,” y nói một cách vô tình ngẫu hứng như thể thừa nhận bà mình rất ham thích đánh bài vậy.

“Xin chúc mừng.”

“Lại châm biếm vớ vẩn nữa à?”

“Vậy tôi phải nói sao đây?”

“Ông không thấy thú vị khi tổ tiên tôi là người Do Thái à?”

“Theo kinh nghiệm của tôi, hầu hết người châu Âu đều có họ hàng là người Do Thái giấu kín ở nơi nào đó trong đống củi.”

“Họ hàng của tôi lại bị giấu ở nơi nhìn thấy rõ ràng.”

“Bà cụ sinh ở đâu?”

“Nước Đức.”

“Bà đã tới Đảo quốc Anh trong khi có chiến tranh à?”

“Ngay trước đấy,” Keller đáp. “Bà đã được một ông chú họ xa không còn xem mình là người Do Thái đưa vào. Ông ấy cho bà một cái tên Thánh thích hợp và gửi bà đến nhà thờ. Mẹ tôi không biết mình có một quá khứ Do Thái cho đến khi bà ngoài ba mươi tuổi.”

“Tôi ghét làm người đưa tin xấu,” Gabriel nói, “nhưng trong sổ của tôi, anh là người Do Thái.”

“Thành thật mà nói với ông, tôi vẫn luôn cảm thấy mình có một chút là người Do Thái.”

“Anh có ác cảm với các món nghêu sò ốc hến, tôm cua và nhạc kịch Đức?”

“Tôi chỉ nói với ý nghĩa tinh thần thôi.”

“Anh là một sát thủ chuyên nghiệp, Keller à.”

“Điều ấy không có nghĩa tôi không tin Chúa,” Keller phản đối. “Quả thật tôi ngờ rằng mình còn hiểu lịch sử và Kinh Thánh của ông còn hơn cả chính ông.”

“Vậy thì tại sao anh lại thường lui tới với con người thần bí điên khùng đó?”

“Bà ấy chẳng phải điên đâu.”

“Đừng nói với tôi anh tin hết thảy mấy chuyện vớ vẩn đó đấy.”

“Làm thế nào bà ấy biết chúng ta đang tìm cô gái chứ?”

“Tôi cho là tên trùm chắc hẳn đã nói cho bà ta biết.”

“Không phải,” Keller lắc đầu. “Bà ấy đã thấy đấy. Bà ấy thấy mọi chuyện.”

“Như nước và núi non à?”

“Đúng vậy.”

“Chúng ta đang ở miền Nam nước Pháp, Keller à. Tôi cũng thấy nước và núi non. Thật tình gần như nhìn đâu tôi cũng thấy chúng.”

“Bà ấy hiển nhiên đã làm cho ông bồn chồn lo lắng khi nói về một kẻ thù cũ.”

“Tôi có bồn chồn lo lắng gì đâu,” Gabriel nói. “Còn kẻ thù cũ thì dường như tôi không thể nào bước ra khỏi cửa trước nhà mình mà không đâm sầm vào một đứa.”

“Thế thì có lẽ ông nên dời cửa trước của chúng ta đi.”

“Có phải đó là một câu tục ngữ của đảo Corse không?” “Chỉ là một lời khuyên của bạn bè thôi.”

“Chúng ta vẫn chưa phải là bạn bè đích thực mà.”

Keller nhún hai vai vuông vức của y để truyền đạt sự thờ ơ, lời chửi rủa hay điều gì đó giữa thờ ơ và chửi rủa. “Ông đã làm gì với cái bùa bà ấy cho?” y hỏi sau một lúc im lặng vì giận dỗi.

Gabriel vỗ nhẹ trước ngực áo để chỉ rõ cái bùa giống hệt cái của Keller đang đeo quanh cổ ông.

“Nếu không tin,” Keller hỏi, “sao ông lại đeo nó?”

“Tôi thích vì nó làm nổi bật bộ đồ của tôi.”

“Bất kể làm gì, ông cũng đừng bao giờ cởi nó ra! Nó sẽ giữ cho tà ma không lại gần.”

“Trong đời tôi có vài người tôi muốn giữ cho họ đừng lại gần mình.”

“Như Ari Shamron à?”

“Làm sao anh lại biết Shamron?” cố giấu nỗi kinh ngạc, Gabriel hỏi.

“Tôi đã gặp ông ấy khi đến Israel để tập huấn. Ngoài ra,” Keller nói thêm thật nhanh, “mọi người trong nghề đều biết về Shamron. Và mọi người đều biết ông ấy muốn ông làm sếp chứ không phải Uzi Navot.”

Anh không nên tin hết thảy những gì đọc được trên báo, Keller à.”

“Tôi có nguồn tin xác thực,” Keller nói. “Và họ cho tôi biết chức vụ ấy lẽ ra ông phải đảm nhận, nhưng ông lại gạt đi.”

“Anh có thể thấy điều này khó tin,” Gabriel chán chường nhìn chằm chằm qua tấm kính bị nước mưa bắn tung tóe, “nhưng thực sự tôi không có tâm trạng để cùng anh dạo bước về miền quá khứ xa xôi.”

“Tôi chỉ đang cố làm gì đó để thời gian trôi nhanh hơn thôi.”

“Có lẽ chúng ta nên im lặng sẽ thoải mái hơn.”

“Lại một lời châm biếm nữa sao?”

“Anh sẽ hiểu nếu anh là người Do Thái.”

“Đúng ra thì tôi là người Do Thái đấy.”

“Anh thích ai hơn? Puccini hay Wagner [1]?”

“Wagner, lẽ dĩ nhiên.”

“Vậy anh có thể là người Do Thái rồi đó.”

Keller châm một điếu thuốc rồi vẩy que diêm cho tắt lửa. Một cơn gió mạnh tạt nước mưa vào kính chắn gió, làm quang cảnh của bến tàu trở nên tối sầm. Gabriel hạ cửa kính của mình xuống đôi chút để khói thuốc thoát ra ngoài.

“Có lẽ anh nói đúng,” Gabriel nói. “Có lẽ rốt cuộc chúng ta nên thuê một phòng khách sạn.”

“Tôi không nghĩ điều đó là cần thiết.”

“Tại sao không?”

Keller cho cần gạt nước vụt xoay đi rồi chỉ qua tấm kính. “Vì Marcel Lacroix đang tiến về phía chúng ta.*

Hắn mặc một bộ đồ thể thao màu đen, đi một đôi giày thể thao màu xanh lá phản quang và đeo một cái túi thể thao hiệu Puma ở một bên vai. Hiển nhiên, hắn đã dành cả buổi chiều ở phòng tập thể dục. Cần gì đến việc ấy chứ; Lacroix ít ra cũng cao đến 1,9 mét và nặng hơn chín mươi kilogram. Mái tóc đen được bôi dầu và cột lại đằng sau thành một cái đuôi ngựa ngắn củn. Hai bên đều có đeo bông tai, và một bên cái cổ dày cộm của hắn có xăm mấy chữ Hán, bằng chứng cho thấy hắn là một người nghiên cứu binh pháp châu Á. Mắt hắn cứ láo liên, nhưng vẫn không ghi nhận được hình ảnh hai người đàn ông đang ngồi yên trong chiếc xe hatchback hiệu Renault tàn tạ với cửa kính đẫm sương mù. Gabriel quan sát hắn và thở dài. Chắc chắn Lacroix sẽ là một đối thủ đáng gờm, nhất là khi bị giữ chặt trên con thuyền Vũ Điệu Ánh Trăng. Bất kể ai đó có nói gì đi nữa, tầm vóc vẫn là vấn đề quan trọng.

“Không có lời châm biếm nào hay sao?” Keller hỏi.

“Tôi đang suy nghĩ một câu đây.”

“Sao ông không để cho tôi xử lý chuyện này?”

“Không biết sao tôi lại không cho đó là một ý hay.”

“Vì sao lại không chứ?”

“Vì hắn biết anh làm việc cho ông trùm. Nếu anh ra mặt và hỏi hắn ngay về Madeline Hart, hắn sẽ biết ông trùm đã phản hắn, điều đó sẽ gây thiệt hại cho lợi ích của ông trùm.”

“Hãy để tôi lo cho lợi ích của ông trùm.”

“Chính vì vậy anh mới tới đây à, Keller?”

“Tôi đến đây để biết chắc ông không kết liễu cuộc đời trong một quan tài xi măng dưới đáy Địa Trung Hải.”

“Có những chỗ chôn còn tệ hơn nữa.”

“Giáo luật Do Thái của ông không cho phép chôn dưới biển đâu.”

Keller im bặt khi Lacroix bước lên cầu tàu và bắt đầu đi về phía con thuyền Vũ Điệu Ánh Trăng. Gabriel nhìn kiểu vải của bộ đồ thể thao chệch xuống ngang qua thắt lưng của gã người Pháp. Rồi ông nhìn cách cái túi tập thể dục đeo một bên vai hắn.

“Ông nghĩ gì thế?” Keller hỏi.

“Tôi nghĩ hắn đang mang theo súng trong túi.”

“Ông cũng lưu ý điều ấy sao?”

“Tôi thường lưu ý tới mọi chuyện.”

“Ông sẽ xử lý chuyện ấy thế nào?”

“Càng im lìm càng tốt.”

“Ông muốn tôi làm gì?”

“Cứ đợi ở đây,” Gabriel mở cửa xe. “Nhớ đừng có giết ai khi tôi rời đi.

Văn phòng có một học thuyết đơn giản liên quan đến cách che giấu vũ khí thích hợp trong khi tiến hành điệp vụ. Thượng Đế đã ban nó cho Ari Shamron - ít ra thiên hạ đã đồn như thế, rồi đến lượt mình Shamron đã tặng lại cho tất cả những ai bí mật hoạt động trong đêm tối để thực hiện ước muốn của ông ta. Mặc dù không hề xuất hiện ở đâu dưới dạng chữ viết, nhưng tất cả sĩ quan cấp tá đều có thể dễ dàng đọc làu làu như họ đọc kinh trong buổi lễ đốt nến cầu nguyện vào ngày Shabbat. Một đặc vụ của Văn phòng rút vũ khí của mình ra vì một lý do và chỉ duy nhất một lý do. Anh ta không vung vẩy nó vòng vòng như một tên trong băng đảng, hoặc chỉ dùng nó để hú họa. Anh ta rút súng ra là để bắn - và anh ta bắn không ngừng cho tới khi kẻ mà anh ta nhắm bắn không còn sống nữa. Amen.

Lời răn dạy của Shamron văng vẳng bên tai khi Gabriel đi những bước cuối cùng về phía chiếc Vũ Điệu Ánh Trăng, ông lưỡng lự trước khi lên thuyền; ngay cả một người có tầm vóc mảnh khảnh như ông vẫn làm cho con thuyền hơi tròng trành một chút. Bởi thế, tốc độ và vẻ bề ngoài tự tin là cực kỳ quan trọng lúc lâm nguy.

Gabriel liếc nhìn lần cuối qua vai phải của mình và bắt gặp Keller đang chán chường nhìn ông trừng trừng qua cửa kính phía tài xế ngồi của chiếc Renault. Sau đó ông leo lên con thuyền, nhanh chân tìm đường đi qua boong ở đuôi thuyền về phía cửa vào khoang lái chính. Lacroix đang đứng chắn lối đi khi ông tới nơi. Ở đuôi thuyền chật hẹp, trông gã người Pháp dường như còn có vẻ to lớn hơn khi ở ngoài đường phố.

“Mày đang làm cái mẹ gì trên tàu của tao?” Hắn hỏi thật nhanh.

“Tôi xin lỗi,” Gabriel giơ hai lòng bàn tay lên làm động tác xoa dịu. “Tôi được nói cho biết là anh đang mong đợi tôi.”

“Ai bảo mày?”

“Paul, tất nhiên rồi. Anh ta không nói với anh tôi đang đi gặp anh hay sao?”

“Paul?”

“Phải, là Paul,” Gabriel khẳng định. “Người đã thuê anh giao bao hàng từ đảo Corse vào đất liền. Anh ta nói anh tài giỏi chưa từng thấy. Còn nói nếu tôi cần ai giao hàng có giá trị, anh là người cáng đáng được việc đó.”

Trên mặt gã người Pháp, Gabriel thấy rất nhiều biểu cảm mâu thuẫn nhau: bối rối, sợ sệt và tất nhiên là tham lam. Cuối cùng, tham lam lộ rõ ra vì đã chiến thắng. Hắn bước sang một bên, đưa mắt ra hiệu mời khách đi vào. Gabriel vừa lừ đừ đi hai bước tới trước, vừa dò xét bên trong khoang thật kỹ để tìm cái túi thể dục của chủ thuyền. Nó đang nằm trên mặt bàn kế bên một chai rượu Pernod.

“Anh có phiền không?” Gabriel hất hàm hướng về phía cánh cửa đang mở và hỏi hắn. “Đây không phải chuyện tôi muốn những kẻ thân cận với anh nghe thấy.”

Chủ thuyền chần chừ một lát. Rồi hắn bước tới đóng cửa lại. Khách tự tìm chỗ ngồi cạnh cái bàn nơi đó có cái túi thể dục.

Chủ thuyền xoay người lại và hỏi, “Là kiểu công việc nào thế?”

“Một việc rất đơn giản. Thật ra chỉ mất vài phút thôi.” “Giá bao nhiêu?”

“Anh muốn nói điều gì?” Gabriel hỏi, vờ làm ra vẻ ngơ ngác. “Ông sẽ cho tôi bao nhiêu tiền? Lacroix vừa hỏi vừa xoa xoa hai ngón trỏ và ngón giữa vào ngón tay cái.

“Tôi sẽ cho anh một thứ có giá trị hơn tiền rất nhiều.

“Là gì?”

“Cái mạng của anh,” Gabriel nói. “Anh thấy đó, Marcel à, anh sẽ cho tôi biết ông bạn Paul của anh đã làm gì với cô gái người Anh. Bằng không tôi sẽ băm vằm anh thành muôn mảnh để làm mồi cho cá.Binh pháp Israel gọi là Krav Maga không được biết đến vì vẻ thanh nhã của nó, cũng chẳng phải phơi bày ra để làm đẹp mắt. Mục đích độc nhất của nó là làm mất khả năng chiến đấu hay giết chết đối thủ càng nhanh càng tốt. Không giống nhiều môn võ phương Đông, nó không hề bài bác việc dùng các vật nặng để trừ khử một kẻ tấn công có tầm vóc và sức mạnh vượt trội. Thật vậy, các huấn luyện viên khuyến khích các học viên của mình sử dụng bất cứ vật gì trong tầm tay để tự vệ. David đã không vật lộn với Goliath, người ta ưa nói như vậy. David đã đập Goliath bằng một tảng đá, và chỉ như vậy mới chặt được đầu hắn.

Gabriel không chọn một tảng đá mà chộp lấy cổ chai rượu Pernod, ném nó như phóng một con dao găm về phía cái bóng dáng đang hùng hổ tấn công của Marcel Lacroix. Vừa hay, đập trúng ngay giữa trán hắn, làm toác ra một lằn ngang sâu hoắm phía trên hàng lông mày rậm của hắn ta. Không giống gã khổng lồ Goliath bị ngã sấp ngay tức thì, hắn vẫn cố đứng trên hai bàn chân tuy không vững lắm. Gabriel lao tới trước, thúc một đầu gối vào phần háng không phòng bị của gã người Pháp, rồi từ đó tấn công thật mạnh bạo lên phía trên, ông đấm liên hồi ngay đoạn giữa ngực và thắt lưng trước khi làm gãy hàm răng hắn bằng một cú thúc cùi chỏ đúng chỗ. Cú thúc chỏ thứ nhì vào thái dương làm Lacroix ngã xuống sàn tàu. Gabriel cúi xuống sờ một bên cổ hắn để biết chắc mạch vẫn còn đập. Rồi khi ngước nhìn lên, ông thấy Keller đứng ở ngưỡng cửa, đang mỉm cười. “Rất ấn tượng,” y nói. “Chai Pernod đập đầu quá đẹp.”

Chú thích:

[1] Giacomo Puccini (1858 -1924): nhạc sĩ sáng tác người Ý, có nhiều vở nhạc kịch nổi tiếng; Richard Wagner (1813 -1883): nhạc sĩ sáng tác, chỉ huy giàn nhạc và nhà lý luận âm nhạc người Đức khởi xưởng cách tân nhạc kịch.