← Quay lại trang sách

Chương 13 CÔTE D’AZUR, PHÁP-

HỌ NÉM HẮN xuống đáy biển ở chỗ nước sâu bên kia vịnh sư tử (Golfe du Lion) rồi trở về Marseilles. Trời vẫn còn tối khi họ vào cảng Old Port; hai người lén rời khỏi chiếc Vũ Điệu Ánh Trăng trong vòng vài phút, leo lên hai chiếc xe hơi riêng của mình rồi khởi hành dọc theo bờ biển đi về phía Toulon. Ngay trước khi tới thị trấn Bandol, Gabriel tấp vào lề đường rồi làm bung ra rất nhiều đường dây điện trong đầu máy. Sau đó, ông gọi điện thoại tới công ty cho thuê xe và với giọng điệu điên tiết của Herr Klemp để lại một lời nhắn cho biết có thể tìm thấy chiếc xe “bị hỏng” ở nơi nào. Sau khi chùi sạch dấu vân tay của mình trên tay lái và bảng đồng hồ, ông leo lên chiếc Renault của Keller rồi cùng nhau chạy về hướng Đông tới Nice dưới ánh bình minh. Trên đường Verdi, có một chung cư cũ kỹ trắng như màu xương người, ở đó Văn phòng có thuê một trong nhiều nhà an toàn của mình trên đất Pháp. Gabriel vào tòa nhà một mình và ở lại bên trong vừa đủ lâu để tìm lại các thư tín, trong đó có bản sao hồ sơ chính trị của Madeline Hart mà ông đã yêu cầu Graham Seymour gửi tới. Ông đọc nó trong khi Keller lái xe về phía Aix dọc theo Xa lộ A8 của nước Pháp.

“Nói gì trong ấy?” gã người Anh hỏi sau rất nhiều phút im lặng.

“Nói Madeline Hart là người hoàn hảo. Nhưng chúng ta đã biết rõ điều đó rồi.”

“Tôi cũng từng là người hoàn hảo. Nhưng cứ xem bây giờ tôi đã hóa ra thế nào!”

“Anh vẫn luôn là một kẻ bất hảo, Keller à. Chỉ là anh đã không nhận thấy cho tới cái đêm hôm ấy ở Iraq.”

“Tôi đã mất tám đồng đội vì cố bảo vệ đất nước của ông chống lại những tên lửa Scud của Saddam,” Keller nói.

“Và chúng tôi mãi mãi mắc nợ anh.”

Khi đã lắng dịu Keller mở radio và vặn tới một đài nói tiếng Anh đặt trụ sở ở Monaco phục vụ cho cộng đồng rộng lớn những người Anh ly hương đang sống ở miền Nam nước Pháp.

“Nhớ quê à?” Gabriel hỏi.

“Thỉnh thoảng tôi muốn nghe tiếng nói nơi mình đã sinh ra.”

“Anh chưa bao giờ trở về à?”

“Về nước Anh?”

Gabriel gật đầu.

“Chưa bao giờ,” gã người Anh đáp. “Tôi từ chối không làm ở đấy và không nhận hợp đồng xử lý thần dân Vương quốc Anh.”

“Anh thật có nghĩa khí đó.”

“Làm người phải hành động theo một số quy tắc.”

“Vậy là cha mẹ anh không hề hay biết anh vẫn còn sống?”

“Họ chẳng có manh mối nào cả.”

“Như vậy anh không thể là người Do Thái,” Gabriel nhắc nhở. “Không một thằng con trai Do Thái nào từng để cho mẹ nó nghĩ mình đã chết. Nó không dám đâu.”

Gabriel lật tới mục gần đây nhất trong hồ sơ cá nhân của Madeline Hart và im lặng đọc trong lúc Keller lái xe. Đó là bản sao một lá thư của Jeremy Fallon gửi cho chủ tịch đảng đề nghị ông ta đề bạt Madeline vào một chức vụ cấp dưới ở một bộ và chuẩn bị cho cô vào cơ quan dân cử. Sau đó, ông xem một tấm hình chụp nhanh cô ta ngồi trong một quán café ngoài trời với một gã đàn ông mà người ta chỉ biết tên là Paul.

Đang chăm chú theo dõi, Keller hỏi, “Ông đang nghĩ gì thế?”

“Tôi đang tự hỏi tại sao một ngôi sao trẻ đang lên trong đảng cầm quyền của Đảo quốc Anh lại uống chung một chai champagne với một kẻ ghê gớm vào bậc nhất như thằng bạn Paul của chúng ta.”

“Bởi vì hắn biết cô ấy đang có quan hệ tình ái với Thủ tướng Anh và hắn đang chuẩn bị bắt cóc cô ấy.”

“Làm sao hắn biết được?”

“Tôi có một giả thuyết.”

“Có căn cứ thực tế gì không?”

“Có hai căn cứ.”

“Như vậy chỉ là lý thuyết mà thôi.”

“Nhưng chí ít cũng giúp ta tiêu khiển cho qua ngày đoạn tháng.”

Gabriel gấp hồ sơ lại như muốn nói mình vẫn đang lắng nghe. Keller tắt radio.

“Những người như Jonathan Lancaster vẫn luôn phạm cùng một lỗi khi có quan hệ tình ái lăng nhăng,” hắn nói. “Họ tin cậy các cận vệ của mình sẽ giữ mồm giữ miệng. Nhưng chúng lại chẳng làm được như thế. Chúng bàn tán với nhau, chúng bàn tán với vợ chúng, chúng bàn tán với bạn gái của chúng và chúng bàn tán với đám bạn bè của riêng mình, những người đã tìm việc làm trong nghề thám tử tư ở London. Và chẳng bao lâu chuyện bàn tán ấy đã lọt vào tai một đứa như thằng Paul.”

“Anh nghĩ Paul có liên quan tới ngành an ninh ở London à?”

“Hắn có thể như thế, hoặc có thể quen biết với một kẻ như thế. Bất kể đã xảy ra thế nào,” Keller nói tiếp, “một mẩu thông tin có thể đáng giá như vàng với một đứa như thằng Paul. Có lẽ hắn đã cho theo dõi cô ấy rồi xâm nhập vào điện thoại di động và tài khoản thư điện tử của cô ấy. Chính bằng cách ấy hắn đã phát hiện cô ta đang đến đảo Corse để nghỉ hè. Và khi cô đến nơi, Paul đang chờ đợi.”

“Sao lại ăn trưa với cô ta? Sao lại liều lĩnh lộ diện?”

“Bởi vì hắn cần gặp cô ấy một mình để có thể dễ dàng trò chuyện.”

“Hắn đã dụ dỗ cô ta?”

“Hắn là một thằng khốn nạn thật quyến rũ.”

“Tôi không tin đâu,” Gabriel nói sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ.

“Vì sao lại không chứ?”

“Vì lúc bị bắt đi, cô ta đang có quan hệ tình cảm với Thủ tướng Anh. Hẳn cô ta không bị thu hút bởi một kẻ như Paul.”

“Madeline là nhân tình của ông Thủ tướng,” Keller phân tích, “nghĩa là có rất ít chuyện lãng mạn trong quan hệ của họ. Cô ấy có lẽ là một cô gái cô đơn.”

Gabriel lại nhìn tấm hình một lần nữa - không phải nhìn Madeline mà là nhìn Paul. “Hắn là thằng quái quỷ nào không biết?”

“Chẳng phải tài tử không chuyên đâu, chắc chắn như thế. Phải là dân chuyên nghiệp mới biết đến ông trùm. Và chỉ có dân chuyên nghiệp mới dám gõ cửa ông trùm để nhờ giúp đỡ mà thôi.”

“Nếu đúng là dân chuyên nghiệp, tại sao lại phải dựa vào nhân tài địa phương để hoàn thành việc đó?”

“Ông đang hỏi vì sao hắn không có một đội thủy thủ của riêng mình?”

“Tôi cho là vậy.”

“Đơn giản vì lý do kinh tế,” gã người Anh đáp. “Duy trì một thủy thủ đoàn là một việc kinh doanh rất phức tạp. Và lúc nào cũng có những vấn đề về nhân sự. Khi ít việc, bọn thuộc hạ thường không vui, còn khi có một phi vụ lớn, bọn chúng lại muốn được chia phần lớn.”

“Vì vậy hắn thường sử dụng bọn đánh thuê với các hợp đồng làm ăn trả tiền trực tiếp từng phi vụ để khỏi phải chia chác lợi lộc.”

“Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh toàn cầu ngày nay, mọi người đều đang làm thế.”

“Tên trùm không phải vậy.”

“Ông trùm thì khác, chúng tôi là một gia đình, một băng đảng, và ông nói đúng một điều,” Keller nói tiếp. “Marcel Lacroix đã may mắn không bị Paul sai người giết. Nếu hắn dám đòi ông trùm Orsati trả thêm tiền sau khi làm xong việc, hẳn hắn đã toi mạng dưới đáy Địa Trung Hải trong một quan tài bằng xi măng.”

“Tức là nơi hắn đang ở bây giờ.”

“Thiếu xi măng, dĩ nhiên là thế.”

Gabriel trừng mắt ngó Keller tỏ vẻ không bằng lòng nhưng chẳng nói chẳng rằng.

“Chính ông đã giật chiếc bông tai của hắn ra mà.”

“Một vành tai bị rách chỉ là đau đớn tạm thời, còn một viên đạn xuyên qua con mắt lại là vĩnh viễn.”

“Thế ta nên làm gì với hắn?”

“Đáng lẽ chúng ta có thể chở hắn về đảo Corse và để hắn ở lại với tên trùm.”

“Tin tôi đi, Gabriel à — hẳn hắn chẳng sống được lâu đâu. Orsati chẳng thích rắc rối đâu.”

“Và như Stalin đã nói, cái chết giải quyết mọi vấn đề.”

“Người chết là hết chuyện,” Keller kết thúc việc trích dẫn.

“Nhưng nếu người đó nói dối với chúng ta thì sao?”

“Gã chẳng có lý do gì để nói dối cả.”

“Tại sao?”

“Bởi vì hắn biết mình chẳng bao giờ sống sót rời khỏi chiếc thuyền ấy.” Keller hạ giọng nói thêm, “Hắn chỉ hy vọng bọn ta cho hắn chết không đau đớn thay vì cho hắn chết chìm.”

“Có phải đây là một giả thuyết nữa của anh?”

“Luật lệ ở Marseilles đấy,” gã người Anh đáp lại. “Ở đây việc gì khởi sự bạo tàn thì luôn luôn kết thúc tàn bạo.”

“Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu René Brossard không ngồi ở quán Le Provence lúc năm giờ mười với một cái cặp giấy tờ bằng kim loại để ở dưới chân hắn? Nếu vậy thì sao đây?”

“Hắn sẽ đến đấy.”

Gabriel ước gì có thể chia sẻ sự tự tin đó với Keller, nhưng kinh nghiệm không cho phép như thế. Ông kiểm tra đồng hồ đeo tay và tính thời gian còn lại để tìm ra cô gái.

“Nếu Brossard thực sự lộ diện,” ông nói, “có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta đừng giết hắn trước khi hắn dẫn chúng ta tới căn nhà nơi chúng đang giấu Madeline.”

“Rồi sau đấy thì sao?”

Cái chết sẽ giải quyết mọi vấn đề, Gabriel thầm nghĩ. Người chết là hết chuyện.