Chương 15 -THÀNH PHỐ AIX-EN-PROVENCE, PHÁP
LÚC 5:18, THỜI GIAN dường như ngần ngừ muốn ngừng đọng lại. Tiếng nổ rền của xe cộ xa xa đã dần tan, những bóng dáng trong quảng trường nhỏ xíu đông cứng lại như thể đã chuyển thành sơn dầu trên khung vải dưới bàn tay của Renoir. Nhà phục chế tranh Gabriel có thể ngắm nghía bức tranh ấy những lúc có thời gian rảnh rỗi. Một nhóm bốn người Đức da dẻ hồng hào đang xem kỹ thực đơn ở quầy tapas. Hai cô gái người Bắc Âu mang xăng đan đang đăm đăm nhìn bản đồ đường phố bằng giấy với một dáng vẻ huyền bí như thể đó là vật cuối cùng trong mọi tạo vật. Một phụ nữ xinh đẹp ngồi dưới gốc cột La Mã với một thằng bé có lẽ ba tuổi trên đầu gối của bà. Và một gã đàn ông yên vị trong một quán café gọi là Le Provence, chẳng có ai đi cùng ngoài cái cặp giấy tờ nhỏ bằng kim loại chất đầy một trăm ngàn euro. Một trăm ngàn euro đã được cấp phát bởi một gã không biết là người nước nào và chẳng rõ danh tính, chỉ biết mỗi một cái tên Paul. Gabriel nhìn người đàn bà và đứa nhỏ dưới gốc cột, trong tâm tưởng của ông chợt lóe lên một ánh chớp đầy lửa và máu. Rồi ông lại liếc nhìn gã đàn ông ngồi một mình ở quán Le Provence. Bây giờ là năm giờ hai mươi phút. Ngay lúc đồng hồ đeo tay của Gabriel nhích sang 5:21, gã đàn ông đứng dậy, chộp lấy cái cặp giấy tờ rồi rời đi.
“Có một chỗ khác thay thế nếu một trong hai người không thể xuất hiện không?”
“Quán Le Cézanne, ở ngay đầu phố.”
“Hắn sẽ đợi ở đó bao lâu?”
“Mười phút.”
“Còn nếu anh không lộ diện?”
“Giao dịch bị hủy bỏ.”
Nhưng tại sao một tên tội phạm chuyên nghiệp lại không thể xuất hiện vào ngày thanh toán một món tiền béo bở lên tới một trăm ngàn euro? Vì tên tội phạm đó ngay lúc này đang nằm dưới đáy Địa Trung Hải cách Marseilles tám dặm về hướng Nam-Đông Nam với một viên đạn trong óc. Tất nhiên không thể để cho René Brossard biết gã đã chết, nhờ đó Gabriel mới có chiếc điện thoại của gã để sẵn sàng sử dụng, ông dõi mắt nhìn theo Brossard đang nhanh chóng di chuyển dọc theo đường phố đầy bóng mát với cái cặp hồ sơ nhỏ trong tay. Rồi ông ngó những người Đức hồng hào và cô gái Bắc Âu mang xăng đan, bà mẹ và đứa con mà ở một nơi nào đó sâu kín và tăm tối nhất trong trí nhớ của ông vẫn đang bừng cháy. Đã 5:22. Tám phút nữa, ông nghĩ, rồi sau đó cuộc rượt bắt sẽ diễn ra. Một lỗi lầm là tất cả những gì sẽ xảy đến. Một lỗi lầm và Madeline Hart sẽ chết. Ông uống thêm bia, nhưng trong tình trạng hiện giờ, ông cảm thấy nó lại có mùi vị đắng cay đau khổ. Ông nhìn chằm chặp người đàn bà với đứa con, và dõi mắt nhìn mà chẳng giúp được gì khi ngọn lửa thiêu đốt da thịt họ.Lúc 5:25 ông lại gọi cho Keller.
“Ả đó đâu rồi?”
“Vẫn chạy vòng vòng.”
“Coi chừng nó lừa anh, để anh thả mồi bắt bóng như điên đó. Có lẽ còn một chiếc xe thứ hai nữa.”
“Ông vẫn luôn tiêu cực thế sao?”
“Chỉ khi nào một phụ nữ trẻ bị thiêu đốt mà thôi.”
Keller không nói gì.
“Bây giờ ả đang ở đâu?”
“Giá như tôi phải đoán thì đang quay trở về hướng ông đang ngồi đấy.”
Gabriel ngắt cuộc gọi rồi cầm chiếc điện thoại kia lên. Sau khi ấn phím tắt gọi số của Brossard, ông đè chặt ngón tay cái lên chỗ thu âm rồi đưa điện thoại lên tai. Hai đợt reng chuông. Tiếng Brossard.
“Mày đang ở chỗ đéo nào?”
Gabriel ép ngón cái lên chỗ thu âm chặt hơn, chẳng nói chẳng rằng.
“Marcel? Mày đấy ư? Đang ở đâu?”
Gabriel lấy điện thoại ra khỏi lỗ tai rồi bấm nút KẾT THÚC. Ba mươi giây sau ông bấm gọi lại. Một lần nữa ông lấy ngón cái bịt chỗ thu âm và không nói gì. Brossard mở máy ngay khi nghe tiếng chuông reng đầu tiên.
“Marcel? Marcel? Tao tưởng không nói chuyện với mày qua điện thoại nữa chứ. Mày có ba phút. Sau đấy tao sẽ đi.”
Lần này chính Brossard cúp máy trước. Gabriel đút điện thoại vào túi rồi lại gọi cho Keller.
“Diễn tiến thế nào?” Gã người Anh hỏi.
“Hắn tưởng Lacroix còn sống khỏe mạnh và đang ở một địa điểm dịch vụ mạng kém.”
“Thật tệ hại.”
“Bây giờ ả đó ở đâu?”
“Đang đến gần Quảng trường Tướng de Gaulle.”
Gabriel kết thúc cuộc gọi và kiểm tra lại thời gian. Còn ba phút nữa rồi Brossard sẽ cất bước. Hắn sẽ bị kích động, mệt mỏi. Có khả năng hắn sẽ để ý thấy một người đàn ông cuốc bộ theo sau hắn, nhất là khi người ấy đã uống bia Đức trong một quán nhậu bình dân Ireland lúc hắn đang ở quán Le Provence. Nhưng nếu Brossard đi ngang qua người đàn ông trên đường đi tới xe hơi của mình, có thể hắn sẽ ít hoài nghi hơn khi nhìn thấy y. Đó là một trong những quy tắc quý như vàng của Shamron về việc giám sát theo dõi. Đôi khi, ông ta rao giảng, theo dõi một người từ đằng trước tốt hơn là theo sau.
Gabriel đăm đăm nhìn đồng hồ đeo tay. Rồi sau khi nó chỉ 5:28, ông rời khỏi cái bàn ở quán nhậu và men theo đường Espariat, cặp chiếc mũ bảo hiểm dưới cánh tay. Quán Le Cézanne là địa điểm kinh doanh cuối phố bên tay phải, ở địa điểm cả con phố dồn hết vào trong Quảng trường Tướng de Gaulle. Brossard đang ngồi ở một cái bàn bên ngoài. Khi đi ngang qua, Gabriel có thể cảm thấy ánh mắt của gã người Pháp đâm chọc vào lưng mình và cố kiềm chế không quay lại nhìn. Chiếc xe gắn máy của Gabriel vẫn đậu ở chỗ ông đã để lại, kế bên rất nhiều chiếc khác dưới bóng một cây tiêu huyền đang bắt đầu rụng lá. Ba chiếc lá đang vương lại trên yên xe. Ông phủi chúng đi. Rồi ông leo lên xe và đội mũ bảo hiểm.
Trong kính chiếu hậu ông có thể thấy Brossard đứng dậy, rời khỏi bàn và bước ra con phố chật hẹp. Vài giây sau, gã người Pháp đi ngang qua, cách vai phải của Gabriel chỉ trong gang tấc. Đủ gần để ông ngửi thấy mùi nước hoa cologne của hắn. Đủ gần để nếu như cầm lòng không được, có thể ông đã giật phắt cái cặp giấy tờ khỏi bàn tay trái của hắn. Trước đó hắn xách cặp bằng tay phải, nhưng bây giờ thì không thể được; hắn đang cầm điện thoại di động trong bàn tay phải. Và chiếc điện thoại đang áp chặt vào tai.
Gabriel nổ máy xe hai bánh trong lúc Brossard vào khu phố đi bộ ở ngoài rìa Quảng trường Tướng de Gaulle, cái đầu từ từ xoay qua xoay lại hai bên y như tháp pháo của một chiếc xe tăng đang tìm mục tiêu để nhắm bắn và hủy diệt. Có những đám đông tuổi đã xế chiều đang đi vòng quanh; hẳn Gabriel có thể đã mất dấu hắn ta nếu không có cái cặp hồ sơ sáng rực như một đồng tiền mới ra lò khi trời đang sập tối. Lúc Brossard ra tới lề của vòng xoay, chiếc điện thoại di động đã đút trở vào trong túi và hắn đã tới được cửa trước dành cho khách của một chiếc xe sedan màu đen hiệu Mercedes dòng E đã tấp vào lề. Khi hắn hạ mình xuống ghế ngồi, một chiếc xe hatchback hiệu Renault lướt ngang qua rồi sau đó rẽ qua Đại lộ République. Chiếc Mercedes cũng làm như vậy mười giây sau. Đang chăm chú theo dõi, Gabriel không khỏi nở một nụ cười vì họ đã gặp may. Đôi khi, ông nghĩ, theo dõi một người từ đằng trước tốt hơn theo sau. Ông vặn tay ga và nhẹ nhàng nhập vào dòng xe cộ lưu thông, cặp mắt cố định nhìn theo cặp đèn ở đuôi xe Mercedes. Một sai lầm, ông vẫn đang suy nghĩ, là tất cả những gì cần để kết thúc. Một sai lầm và cô gái sẽ chết.Họ đi theo Đại lộ République ra tới đường Avignon rồi tiến về phía Bắc. Trên chừng một dặm đường, chỉ toàn là mặt tiền các cửa hiệu và những đèn tín hiệu giao thông, nhưng dần dần các cửa hàng chuyển thành các tòa chung cư và các ngôi nhà, chẳng bao lâu sau họ đã tăng tốc độ trên một con đường tách ra làm bốn làn xe. Sau một dặm đường, một trạm xăng xuất hiện bên tay phải của họ. Keller chạy chậm lại và bật đèn xi nhan báo xe sắp rẽ, và ngay lập tức chiếc Mercedes vượt qua mặt y. Sau đó, với rất ít bảng báo hiệu, con đường thu hẹp lại chỉ còn hai làn xe. Gabriel giữ khoảng cách chừng năm chục mét sau chiếc Mercedes, còn Keller thì theo đuôi ông.
Lúc bấy giờ mặt trời đã lặn và bóng đêm mùa thu đang buông xuống thật nhanh như một tấm màn đang khép lại một sân khấu. Những cây thông bách xếp thành hàng dài ven đường chuyển từ màu xanh lục sẫm sang màu đen; rồi bóng tối nuốt chửng tất cả. Khi bầu không khí ảm đạm thê lương đã chiếm ngự khắp chốn thôn quê, thế giới của Gabriel cũng thu hẹp lại: hai đèn trắng ở đầu xe, hai đèn đỏ ở đuôi xe, tiếng rền rĩ của động cơ xe máy, tiếng chiếc Renault của Keller rền vang sau lưng ông vài mét. Mắt ông tập trung đằng sau chiếc Mercedes của René Brossard nhưng trong đầu lại chăm chú dò đường trên bản đồ nước Pháp. Trong địa phận này của vùng Provence, các thành phố và làng mạc nối liền với nhau thành một chuỗi như những hạt ngọc trai trên một chiếc vòng cổ. Nhưng nếu cứ tiếp tục đi theo hướng này sẽ băng ngang qua khu hành chính Vaucluse. Ở đó, trong vùng đồi Lubéron, các làng mạc trở nên thưa thớt hơn và địa hình gồ ghề lởm chởm. Đó là nơi thích hợp để chúng giam giữ cô gái, ông nghĩ bụng. Nơi nào đó thật hẻo lánh. Nơi nào đó chỉ có một con đường độc đạo vào và ra. Chỉ với cách này chúng sẽ biết mình có bị giám sát, hoặc có bị theo dõi hay không.
Họ phóng nhanh như chớp qua vùng ven một thị trấn đìu hiu tên là Lignane. Vừa qua khỏi đó, chiếc Mercedes chạy vào một bãi đậu xe hoang vắng của một công ty bán các chậu sành để trồng hoa, không cho Gabriel và Keller lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục đi tới. Xa hơn chừng hai trăm mét là một vòng xoay giao thông. Đi về một hướng là Saint-Cannat; còn đi về hướng kia theo một đường nhỏ hơn sẽ tới Rognes. Vẫy tay ra hiệu, Gabriel bảo Keller đi về phía Saint-Cannat. Rồi sau khi tắt đèn ở đầu xe, ông lái chiếc xe máy của mình về phía Rognes và nhanh chóng tìm chỗ ẩn nấp trong bóng tối của một bức tường cao ốc bằng xi măng trộn với tro than đá. Một lát sau, chiếc Mercedes kêu rù rù chạy ngang qua, tuy giờ đây Brossard ngồi sau tay lái, còn ả đàn bà người mà ông có thể thấy rõ ngay lần đầu tiên thì đang chăm chú nhìn vào kính chiếu hậu phía bên hành khách, ông vội bấm nút gọi Keller và báo tin cho y. Sau đó, ông buộc mình phải đếm chầm chậm từ một tới mười rồi mới từ từ lái xe máy trở ra đường.
Trên đường dẫn tới Rognes, thời gian trôi qua chầm chậm. Lề đường hẹp lại, bóng đêm tối sầm, khí trời trở nên lạnh hơn khi họ chạy đều đều lên cao về phía chân rặng núi Alps. Một vầng trăng khuyết chỉ còn ba phần tư hết rúc vào lại nhú ra khỏi các đám mây, cứ chiếu sáng phong cảnh phút giây này rồi lại nhấn chìm nó vào bóng tối phút giây kế tiếp. Ở cả hai bên đường, những vườn nho trùng điệp nối nhau vào vùng đồi tối đen như những người lính xông pha ra trận mạc, nhưng dù vậy, vùng đất này dường như vắng teo không có người ở. Chẳng hề có ánh lửa ở bất cứ nơi nào, và con đường hoang vắng chẳng có gì ngoài chiếc Mercedes dòng E màu đen. Gabriel lởn vởn theo sau nó, còn Keller thì tụt lại rất xa đằng sau, nơi Brossard chẳng thể nào trông thấy. Bất cứ lúc nào có thể được, Gabriel đều không cần đèn ở đầu xe trợ giúp. Bị cơn gió lạnh vùi dập và bị mất một phần thị lực, ông có cảm giác đang du hành với vận tốc của âm thanh.
Khi họ tới gần vùng ngoại ô của Rognes, vài chiếc xe hơi và xe tải cuối cùng cũng xuất hiện. Ở trung tâm thị trấn, chiếc Mercedes dừng lại lần thứ nhì bên ngoài một cửa hàng bán thịt nguội và một cửa hiệu bánh mì liền kề.
Một lần nữa, Keller lại tăng tốc qua mặt, nhưng Gabriel cố tự che giấu mình trong chỗ kín gió của một nhà thờ cổ kính. Ở đó, ông quan sát khi ả đàn bà trèo xuống xe và đi vào các cửa hàng một mình, vài phút sau lại xuất hiện với rất nhiều túi xốp đựng đầy thức ăn. Ông nghĩ với số lượng đó đủ để nuôi cả một nhà đầy người, còn thừa lại đôi chút dành cho một con tin. Sự kiện chúng bất ngờ dừng lại cho thấy Brossard không hề nghi ngờ mình đang bị theo dõi. Nó còn gợi ra một thông điệp, chúng đang tới gần đích đến.
Ả đàn bà đặt các món hàng vào cốp xe, rồi sau khi đã liếc nhìn một vòng quanh con đường vắng lặng, ả hạ mình xuống ghế dành cho hành khách. Brossard lại cho xe chuyển động thậm chí trước khi ả đóng cửa. Chúng tăng tốc chạy qua các con đường của centre ville (trung tâm thành phố) rồi rẽ sang D543, một con đường hai làn xe chạy từ Rognes đến hồ chứa nước ở Saint-Christophe. Bên kia hồ chứa nước là sông Durance. Brossard sang sông lúc sáu giờ rưỡi và vào khu hành chính Vaucluse.
Chúng tiếp tục đi về phía Bắc xuyên qua các làng mạc đẹp như tranh vẽ của Cadenet và Lourmarin rồi sau cùng leo lên triền dốc phía Nam vùng Khối núi Lubéron. Ở vùng đất bằng phẳng trong thung lũng có con sông chảy qua, Gabriel đã giữ khoảng cách một cây số hoặc hơn đằng sau chiếc xe, nhưng trên con đường ngoằn ngoèo của miền núi, ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc rút ngắn khoảng cách và giữ cho Brossard luôn ở trong tầm mắt. Lúc đi ngang qua thị trấn Buoux, đột nhiên ông phát hoảng, sợ cuối cùng hắn đã biết ông đang hiện diện. Nhưng khi chiếc xe hơi tiếp tục phóng nhanh thêm mười cây số mà chẳng làm gì để lẩn tránh, ông mới bớt lo âu. Ông tiếp tục lái xe xuyên màn đêm, ngang qua những vách đá và những khối hoa cương trồi lên mặt đất rực lên một màu trắng sáng dưới ánh trăng, mắt ông dán vào hai đèn đỏ ở đuôi xe Mercedes và nghĩ tới một phụ nữ ông không hề quen biết.
Cuối cùng Brossard rẽ qua khoảng trống giữa hàng cây ven đường và biến mất. Gabriel không dám theo hắn ngay tức thì, vì thế ông tiếp tục đi trên con đường ấy một cây số nữa rồi mới quay đầu lại chỗ cũ. Con đường Brossard đã đi chỉ được lát một phần và chắc chắn không đủ chỗ cho hai chiếc xe. Nó đưa Gabriel đến một thung lũng nhỏ xíu với những cánh đồng đang canh tác y như một tấm mền chắp vá, phân cách bởi những hàng rào và những cây cối vẫn đang mọc cao lên. Có ba biệt thự trong thung lũng, hai ngôi ở đầu phía Tây và một ngôi biệt lập về phía Đông sau một hàng cây thông bách làm rào chắn. Chẳng thấy chiếc xe hơi đâu nữa; gã người Pháp hẳn đã tắt đèn đầu xe để đề phòng. Gabriel nhẩm tính mình đã mất bao lâu để đi lố rồi quay trở lại, và gã kia phải mất bao lâu mới đến được từng ngôi biệt thự này. Sau đó ông cưỡi trên chiếc xe máy đứng một chỗ, ánh mắt cứ quét qua quét lại khắp thung lũng, nghĩ bụng cuối cùng rồi Brossard phải dừng lại ở đâu đó. Và khi hắn làm vậy, đèn thắng xe sẽ nhá lên, tiết lộ vị trí của hắn. Sau mười giây nữa, Gabriel thôi không nhìn các biệt thự phía Tây gần nơi ông đang đứng, mà tập trung ánh mắt chăm chú của mình vào ngôi biệt thự xa xa ở phía Đông. Và rồi ông đã thấy nó, một ánh đèn đỏ lóe sáng lên như một que diêm bừng cháy. Trong phút chốc dường như nó trôi đi trên một ngọn cây thông bách y hệt ánh đèn cảnh báo trên đỉnh một ngọn tháp hình chóp. Thế rồi ánh đèn tắt lịm, và một lần nữa thung lũng lại đắm chìm vào trong bóng tối