Chương 16 VÙNG NÚI LUBÉRON, PHÁP-
NGÔI LÀNG GẦN NHẤT chỉ có một chỗ cho thuê giường và phục vụ bữa điểm tâm rất buồn tẻ nên hai người lái xe tới thị trấn Apt và đăng ký phòng ở một khách sạn nhỏ trên đường phố vòng quanh khu phố cổ trung tâm. Phòng ăn trống vắng không có khách trọ nào khác, và chỉ có một tiếp viên nam đã có tuổi làm nhiệm vụ. Họ ngồi ăn ở hai bàn riêng biệt rồi đi bộ suốt con phố tối tăm yên tĩnh tới tận nhà thờ Thánh Anne xây theo kiểu La Mã cổ kính. Đan xen giữa các mái vòm tỏa mùi khói nến, hương trầm và thoang thoảng mùi ẩm mốc. Gabriel nghiên cứu bức tranh sau bàn thờ chính, đầu ông hơi nghiêng sang một bên, sau đó ngồi cạnh Keller trước một chân đèn cắm mấy ngọn nến thờ đang yếu ớt tỏa ánh sáng lung linh. Gã người Anh cúi đầu, nắm lấy sống mũi của mình giữa ngón cái và ngón trỏ. Khi y nói, đó là một giọng thì thầm ăn năn hối hận.
“Rốt cuộc hóa ra bà ấy đã nói đúng.”
“Ai vậy?”
“Bà signadora.”
“Có lẽ tôi lầm lẫn,” Gabriel ngước mắt nhìn lên mái vòm, “nhưng tôi không nhớ bà ta nhắc tới bất cứ điều gì về biệt thự trong thung lũng nông nghiệp ở vùng núi Lubéron cả.”
“Nhưng bà ấy có đề cập đến biển và núi non.”
“Và gì nữa?”
“Bọn chúng đã đưa cô ấy vượt biển, và bây giờ đang giấu cô ấy trong vùng núi.”
“Có lẽ vậy,” Gabriel nói. “Hoặc có lẽ chúng đã chuyển cô ta tới một địa điểm khác. Hoặc là cô ta đã chết.”
“Lạy Chúa,” Keller thì thào. “Sao lúc nào ông cũng có ý nghĩ tiêu cực chết tiệt như thế chứ?”
“Hãy nhớ anh đang ở đâu, Christopher à!”
Keller đứng dậy, bước tới chỗ cắm nến thờ và thắp một ngọn nến. Y định quay trở lại chỗ cái ghế dài nhưng dừng lại khi thấy Gabriel nhìn chằm chặp cái thùng quyên góp. Y móc túi lấy ra vài đồng tiền kim loại, rồi nhét từng đồng một qua cái khe. Âm thanh dường như vang vọng trong mái vòm một lúc lâu sau khi y đã dời gót.
“Ông dành nhiều thời gian vào các nhà thờ Công giáo?” y hỏi.
“Nhiều hơn anh có thể tưởng tượng đó.”
Keller trở lại làm điệu bộ như đang trầm tư sám hối. Thủy tinh màu đỏ của đèn nến thờ chiếu rọi khiến mặt y ánh lên một màu hồng sẫm.
“Ta cứ giả định,” một lát sau y nói, “cô gái có thể đang ở một nơi khác, nhưng cũng nên giả định tất cả chứng cứ đều cho thấy không phải thế. Bằng không Brossard đâu có đến đây làm gì. Hắn sẽ trở về Marseilles và làm phi vụ kế tiếp của hắn.”
Lúc này, có lẽ hắn đang cố hình dung tại sao Marcel Lacroix lại không tới Aix để nhận tiền. Và khi hắn kể cho Paul biết những gì đã xảy ra, Paul trở nên bồn chồn lo lắng.”
“Ông không dành nhiều thời gian cho bọn tội phạm phải không?”
“Nhiều hơn anh có thể tưởng tượng đó,” Gabriel lại đáp.
“Brossard sẽ không nói một lời nào với Paul về chuyện đã xảy ra ở Aix hôm nay đâu. Hắn sẽ nói mọi việc đều diễn ra theo kế hoạch. Và sau đó hắn sẽ giữ số tiền ấy lại cho mình. À, không phải tất cả,” Keller nói thêm. “Chắc hắn phải cho ả đàn bà kia một mớ.”
Gabriel chầm chậm gật đầu đồng ý, như thể Keller vừa thốt ra những lời thông tuệ cao siêu. Rồi ông hơi quay đầu để quan sát một người đàn bà đang đi tới trung tâm của gian giữa giáo đường. Mái tóc đen chải thẳng ra sau, một vầng trán cao, cô ta khoác một áo mưa có dây thắt lưng bằng loại vải tổng hợp. Tiếng chân cô ta bước đi cũng như những đồng tiền của Keller vang vọng trong ngôi nhà thờ rộng lớn tĩnh lặng. Đến trước bàn thờ chính, cô ta quỳ xuống và thong thả làm dấu thánh giá từ trán xuống trái tim rồi từ vai trái sang vai phải. Sau đó, cô ta ngồi ở phía đối diện với gian giữa và đăm đăm nhìn thẳng về phía trước.
“Cách duy nhất để chúng ta có thể xác định cô gái có ở đó hay không,” một lát sau Gabriel nói, “là phải canh chừng biệt thự đó thêm ít lâu nữa. Và thật vô phương để chúng ta làm chuyện đó nếu không có một chốt quan sát cố định thích hợp.”
Keller nhăn mặt tỏ vẻ không đồng tình. “Nói giống như một điệp viên nội gián thực thụ.”
“Điều đó có hàm ý gì?”
“Nghĩa là ông và lũ tiểu yêu của ông chẳng thể nào hoạt động trên một trận địa nếu không có các nhà an toàn và các khách sạn năm sao.”
“Người Do Thái không cắm trại, Keller à. Lần cuối cùng đi cắm trại, họ đã trải qua bốn mươi năm lang thang trong sa mạc.”
“Moses hẳn đã tìm ra miền Đất Hứa nhanh chóng hơn rất nhiều giá như ông có hai chàng trai từ Trung đoàn hướng dẫn cho ông.”
Gabriel ngó người đàn bà khoác áo mưa; cô ta vẫn đăm đăm nhìn thẳng tới trước, khuôn mặt đờ đẫn. Rồi ông nhìn gã người Anh và hỏi, “Chúng ta sẽ làm sao đây?”
“Không phải chúng ta,” Keller trả lời. “Tôi sẽ làm việc ấy một mình theo cách thức đã quen thuộc ở Bắc Ireland. Một người trong một chỗ ẩn nấp với một cặp ống nhòm và một túi đựng chất thải của anh ta. Trường phái cũ ấy mà.”
“Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu một chủ trại phát hiện ra anh khi ông ta đang làm việc ở một trong những cánh đồng đó?”
“Một chủ trại có thể bước đi trên đầu một người của trung đoàn SAS đang ẩn nấp mà chẳng bao giờ thấy anh ta,” Keller ngắm những ngọn nến một lát. “Tôi từng trải qua hai tuần trên một gác mái ở Londonderry để quan sát một gã bị tình nghi là khủng bố của IRA sống bên kia đường phố. Gia đình Công giáo ở bên dưới tôi chẳng hề biết tôi đang ở trong nhà. Và khi đến lúc tôi phải rời nơi ấy, họ chẳng hề nghe tiếng tôi đi.”
“Chuyện gì đã xảy ra với tên khủng bố?”
“Hắn đã gặp tai nạn. Thật sự đáng thương. Hắn ta là một sát thủ chân chính trong cộng đồng của hắn.”
Nghe tiếng bước chân, Gabriel xoay người lại và thấy người đàn bà ra khỏi nhà thờ.
“Anh có thể ở lại bao lâu trong thung lũng đó?” ông hỏi.
“Có đủ thức ăn nước uống, tôi có thể ở lại cả tháng. Nhưng bốn mươi tám giờ là quá đủ để biết cô ấy có ở đấy hay không.”
“Bốn mươi tám giờ đó chúng ta sẽ không bao giờ lấy lại được.”
“Nhưng thời gian ấy sẽ được sử dụng thật tốt.”
“Anh cần gì ở tôi?”
“Tách biệt ra sẽ rất tốt. Nhưng một khi tôi đã vào vị trí, ông có thể quên tôi luôn cũng được.”
“Vậy anh sẽ không phiền lòng nếu tôi đi Paris trong vài giờ chứ?”
“Vì cái quái quỷ gì ông lại cần phải đi Paris?”
“Có lẽ đã tới lúc tôi phải nói vài lời với Graham Seymour.”
Gã người Anh không đáp lại.
“Có chuyện gì làm anh bực mình sao, Christopher?”
“Tôi chỉ đang thắc mắc vì sao mình phải ngồi trong đống bùn suốt hai ngày, còn ông thì lại phải đến Paris.”
“Vậy để tôi ngồi trong đống bùn, còn anh thì đi gặp Graham, anh sẽ thích hơn phải không?”
“Không đâu,” Keller vỗ nhẹ lên vai Gabriel. “Ông cứ đi Paris. Đấy là một nơi rất tốt cho một điệp viên bàn giấy.”
Đã lâu rồi từ khi họ được nằm ngủ, vì vậy họ trở về khách sạn trong khoảng mười phút, rồi trở vào phòng của mình. Gabriel chợt tỉnh táo lại trong vòng vài phút, và thức giấc để thấy căn phòng của mình rực sáng ánh bình minh hung bạo của một tỉnh lẻ. Lúc ông xuống cầu thang vào phòng ăn, Keller đã ở đó rồi, vừa mới cạo râu và trông có vẻ như đã ngủ rất ngon. Họ gật đầu chào nhau như hai người xa lạ, rồi ngồi vào hai cái bàn trải vải lanh riêng biệt, họ ăn sáng hoàn toàn trong im lặng. Sau đó họ trở về khu phố cổ trung tâm, lần này để mua sắm vội một ít món. Keller mua một áo khoác dày cộm, một áo len sẫm màu, một ba lô và hai cái mũ vải dầu không thấm nước. Y còn mua đủ nước uống, thực phẩm chế biến đóng gói và những cái bao nhựa dẻo có khóa kéo để giúp y tồn tại trong bốn mươi tám giờ. Chuyến mua sắm hoàn tất, họ cùng ăn một bữa trưa thịnh soạn, mặc dù Keller không uống với Gabriel một chút rượu nào. Y thay quần áo mới trong khi Gabriel lái xe xuyên qua vùng núi tới ngoài rìa thung lũng nhỏ xíu có ba biệt thự và chẳng nói một lời nào khi y biến mất trong một đám rậm rạp những bụi cây còi cọc, nhanh nhẹn như một con nai cảnh giác vì tiếng bước chân của thợ săn. Bấy giờ là lúc mặt trời lặn. Gabriel gọi điện thoại cho Graham Seymour ở London, nói tên một chốt cắm ở Paris rồi lại cúp máy. Đêm hôm ấy, Thượng Đế với trí tuệ vô biên đã thấy thích hợp để gửi một trận bão mùa thu đến vùng núi Lubéron. Gabriel nằm thao thức trên giường của mình trong khách sạn, lắng nghe tiếng mưa quất vào cửa sổ và nghĩ tới Keller đang ở một mình trong đống bùn của thung lũng có ba biệt thự. Sáng hôm sau, ông dùng điểm tâm trong phòng ăn chỉ với tờ nhật báo và tiếp viên nam tóc bạc trắng bầu bạn. Sau đó ông lái xe đến Avignon rồi lên tàu cao tốc đi Paris.