← Quay lại trang sách

Chương 17 -PARIS

“TÔI ĐANG BẮT ĐẦU nghĩ mình sẽ không bao giờ còn nghe nhắc đến anh nữa đấy.”

“Mới có năm ngày thôi mà, Graham.”

“Năm ngày có thể dường như dài vô tận khi một Thủ tướng đang theo dõi từng hành động của anh.”

Họ đang đi bộ dọc theo Bến tàu Montebello, ngang qua quầy hàng của các bouquinistes (hiệu sách). Gabriel mặc đồ bằng vải jean và da thuộc, còn ông bạn người Anh thì khoác một cái áo Chesterfield bên ngoài một bộ com lê may tay trông có vẻ như chưa bao giờ phết xuống một bề mặt nào khác ngoài tấm thảm trải dài từ văn phòng của ông đến phòng tổng giám đốc. Bất kể trong hoàn cảnh nào dường như ông luôn hài lòng với chính mình. Đã lâu rồi ông không hề dạo phố mà không có cận vệ, ở Paris hay bất cứ một nơi nào khác.

“Ông có liên lạc trực tiếp với ông ta không?” Gabriel hỏi.

“Lancaster ư?”

Gabriel gật đầu.

“Không còn trực tiếp nữa,” Seymour đáp. “Ông ấy đã yêu cầu Jeremy Fallon làm nhiệm vụ của một trái độn đỡ đòn.”

“Ông liên lạc với ông ta bằng cách nào?”

“Đích thân tôi đến và phải hết sức cảnh giác.”

“Có ai khác biết liên hệ giữa các ông hay không?”

Seymour lắc đầu thật chán chường. “Tôi tự mình làm tất cả khi có thời gian nhàn rỗi, những lúc tôi không cố theo dõi hoạt động của hai mươi nghìn tên tiến hành Thánh chiến (jihad) cứ xem hòn đảo của chúng tôi là nhà của chúng.”

“Ông đang giải quyết ra sao rồi?”

“Tổng Giám đốc của tôi nghi ngờ tôi đang bán bí mật cho kẻ thù, vợ tôi thì quả quyết tôi đang có một vụ tình ái lăng nhăng. Còn các mặt khác thì tôi đang giải quyết khá tốt.”

Seymour dừng lại ở một cái bàn kê trên một cái khung của bouquinistes và giả vờ hỏi han những sách đang tồn trữ. Đứng sau lưng ông, Gabriel quan sát thật kỹ khắp đường phố xem có dấu hiệu đang bị theo dõi hay không: một điệu bộ dường như được dàn dựng, một gương mặt dường như ông đã từng trông thấy nhiều lần trước đó. Gió đang làm gợn những con sóng bạc đầu li ti trên mặt sông. Xoay người lại, ông thấy Seymour đang cầm một quyển Bá tước Monte Cristo đã phai màu.

“Sao nào?” Seymour hỏi.

“Đó là một truyện cổ điển về tình yêu, lừa dối và phản bội.”

“Tôi đang hỏi chúng ta có bị theo dõi hay không.”

“Dường như cả hai chúng ta đều lẻn được vào Paris mà không thu hút sự chú ý của những người bạn chung trong ngành an ninh Pháp.”

Seymour trả quyển sách của Dumas về chỗ cũ trên bàn. Rồi khi hai người tiếp tục bước đi, ông lôi ra từ cái túi trong ngực áo Chesterfield một phong bì.

“Bọn chúng để cái này dán băng keo bên dưới một băng ghế trong Hampstead Heath đêm hôm qua,” ông đưa bì thư cho Gabriel. “Hai ngày hoặc cô gái phải chết.”

“Vẫn không có đòi hỏi gì sao?”

“Không, nhưng chúng gửi một bức ảnh chứng tỏ cô ấy còn sống.”

“Chúng đã chỉ chỗ cho các ông tìm ra nó bằng cách nào?”

“Chúng đặt một cuộc gọi vào di động của Simon Hewitt sử dụng một máy phát giọng nói điện tử. Hewitt đã lấy cái gói mang về khi chạy chậm để tập thể dục buổi sáng, lần đầu tiên và duy nhất ông ta chạy bộ buổi sáng. Jeremy Fallon đã đưa cho tôi sáng nay. Không cần nói cũng biết áp lực bên trong số Mười khá cao vào lúc này.”

“Sắp trở nên tồi tệ hơn rồi.”

“Chẳng có tiến triển gì sao?” Seymour hỏi.

“Thật tình tôi nghĩ đã tìm ra cô ta rồi. Vấn đề là chúng ta phải làm gì đây?”

Họ băng qua cầu Petit Pont và đi trên khu phố đi bộ bên ngoài Nhà thờ Đức Bà Paris, trong khi Gabriel khẽ kể lại chi tiết những điều mình khám phá được cho tới lúc này. Người đàn ông mà Madeline Hart cùng dùng bữa vào buổi chiều cô ta mất tích đã tự xưng tên là Paul. Gã Paul đó đã thuê một tên buôn lậu gốc gác ở Marseilles tên là Marcel Lacroix để chở cô gái từ đảo Corse vào đất liền. Lacroix đã kỳ kèo đòi trả thêm một trăm ngàn euro tiền công, dự định sẽ do một gã tên là René Brossard giao cho hắn ở thành phố Aix của nước Pháp. Và gã Brossard ấy khi chuyển giao tiền không thành công đã lập tức lái xe hơi tới vùng núi Lubéron, vào một thung lũng nông nghiệp hẻo lánh có ba biệt thự.

“Anh nghĩ Madeline bị giấu ở một trong ba biệt thự ấy ư?”

“René Brossard là một tên tội phạm có tiếng ở Marseilles. Trừ phi hắn quyết định hành nghề sản xuất rượu vang, chỉ có một lý do khiến hắn tới đó.”

Seymour lắc đầu. Một lát sau ông ta nói. “Cảnh sát Pháp đã tìm cô ấy hơn một tháng, thế mà anh lại tìm được trong năm ngày.”

“Thì tôi giỏi hơn cảnh sát Pháp.”

“Chính vì thế tôi mới tìm đến anh.”

Ngay trước mặt họ rất nhiều người Đông Âu trẻ tuổi đứng tạo dáng chụp hình, lấy ngôi nhà thờ lớn làm nền. Gabriel cho rằng họ là người Croatia hoặc Slovakia, nhưng không thể chắc chắn; ông không nghe được hệ ngôn ngữ Slav. Ông thúc cùi chỏ để ông bạn rẽ trái, rồi hai người đi qua những quán café dành cho du khách xếp thành hàng dài trên phố Arcole.

“Anh sẽ không phiền lòng nếu tôi hỏi vài câu chứ?” Seymour hỏi.

“Ông biết càng ít càng tốt, Graham à.”

“Chiều theo ý tôi đi!”

“Ông cứ nằng nặc hỏi thì tôi xin chiều.”

“Làm thế nào anh lại biết chuyện về Paul?”

“Tôi không thể cho ông biết điều đó.”

“Marcel Lacroix đang ở đâu?”

“Xin đừng hỏi!”

“Ai đang canh chừng biệt thự?”

“Một cộng sự.”

“Từ Văn phòng sao?”

“Không chính xác.”

“Chà,” Seymour nói, “cũng nhiều thông tin đây.”

Gabriel không nói gì.

“Anh biết được bao nhiêu điều về Paul rồi?”

“Hắn nói tiếng Pháp lưu loát với giọng hơi lơ lớ, thay hình đổi dạng cho phù hợp với nhu cầu và có vẻ thích điện ảnh.”

“Anh đang nói gì thế?”

Gabriel giải thích Marcel Lacroix đã gặp Paul ở Liên hoan phim Cannes như thế nào, mặc dù ông bỏ qua không kể về băng keo dán ống nước, chuyện hắn suýt chết đuối và viên đạn của Christopher Keller, một lính Trung đoàn SAS phản bội mà chính phủ Vương quốc Anh ngỡ là đã chết, đã bắn vào óc của Lacroix.

“Gã Paul nghe có vẻ chuyên nghiệp nhỉ.”

“Đúng vậy.”

“Hắn đã kết thân với Madeline trước khi bắt cóc cô ấy, có phải đấy là lập luận của anh?”

“Hiển nhiên, họ đã quen biết nhau khi cô ta mất tích. Họ là bạn bè, tình nhân hay là gì khác vẫn là một chủ đề để tranh luận. Tôi cho rằng cách duy nhất để biết chắc chắn là hỏi cô Madeline.”

“Anh theo dõi ngôi nhà ấy bao lâu rồi?”

“Chưa tới hai mươi bốn tiếng.”

“Anh sẽ mất bao lâu nữa mới có thể xác định cô ấy có ở trong đấy hay không?”

“Có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc chắn, Graham à.”

“Bao lâu?” Seymour thúc ép.

“Hai mươi bốn giờ nữa.”

“Như thế chỉ còn lại một ngày nữa là cái thời hạn chết người ấy sẽ kết thúc.”

“Vì vậy cho nên ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc lấy thông tin từ tôi đưa cho người Pháp.”

Họ đi quanh một góc phố sang một phố nhỏ yên tĩnh.

“Và tôi nên nói thế nào với người Pháp nếu họ hỏi thu thập thông tin ấy bằng cách nào?”

“Hãy nói với họ một con chim nhỏ cho ông biết. Cứ bịa ra một câu chuyện che đậy có sức thuyết phục về việc bị cấm tiết lộ nguồn gốc và đường dây liên lạc. Tin tôi đi, Graham, họ sẽ không ép anh nói ra nguồn cung cấp thông tin đâu.”

“Và nếu họ có thể giải cứu cô ấy, sau đấy thì sao?” Seymour nhanh chóng trả lời câu hỏi của chính mình. “Chắc chắn họ sẽ phát hiện cô ấy đang có quan hệ tình ái với Thủ tướng. Và sau đấy, bởi vì họ là người Pháp, nên sẽ bôi nhọ Lancaster bằng cách cố hết sức để công khai vụ việc.”

“Có lẽ họ sẽ không làm vậy.”

“Lancaster sẽ không bao giờ gặp may mắn thế đâu.”

“Ông yêu cầu tôi tìm cô ta,” Gabriel nói, “và tôi tin mình đã tìm thấy.”

“Còn bây giờ tôi yêu cầu anh đưa cô ấy ra ngoài.”

“Nếu tôi vào trong đó sẽ có người chết.”

“Người Pháp sẽ cho rằng một băng đảng Marseilles giết thành viên của một băng đảng khác, chuyện ấy vẫn luôn xảy ra ở đấy mà.” Seymour tạm dừng rồi nói thêm, “Nhất là khi anh ở trong thành phố.”

Gabriel không để ý đến nhận xét đó. “Nếu có thể đưa cô ta ra ngoài, tôi phải làm gì với cô ta đây?”

“Cứ đưa cô ấy về Đảo quốc Anh và để mặc cho cô ấy lo liệu phần còn lại.”

“Ông cần có một câu chuyện để che đậy.”

“Người ta lúc nào cũng xuất hiện rồi biến mất ấy mà.”

“Và nếu đoạn phim đó trở nên công khai thì sao?”

“Không có cô gái nào mất tích, sẽ chẳng có vụ bê bối nào.”

“Cô ta sẽ cần một hộ chiếu.”

“Tôi e rằng chẳng thể nào giúp anh.”

“Tại sao lại không?”

“Bởi vì chúng tôi không thể phát một hộ chiếu giả có ảnh cô ấy trên đấy mà không đánh động. Mặt khác,” Seymour nói tiếp, “anh và cơ quan của anh cũng khá giỏi làm hộ chiếu giả mà.”

“Chúng tôi phải giỏi thôi.”

Họ bước đi trong im lặng một lúc trên con phố tĩnh lặng. Gabriel chẳng còn gì để phản đối và hỏi han nữa. Ông chỉ có thể nói không với việc mình chưa chuẩn bị kỹ.

“Có thể cô ta chưa đủ điều kiện để đi xa,” sau cùng Gabriel nói. “Thật vậy, cần phải có thời gian để cô ta hoàn toàn sẵn sàng làm bất cứ việc gì.”

“Anh đang gợi ý chuyện gì thế?”

“Nếu cô ta thực sự ở trong biệt thự đó,” Gabriel bắt đầu nói, “và có thể giải thoát cho cô ta, chúng tôi sẽ phải đưa cô ta tới cơ ngơi an toàn của một người bạn và làm cho cô ta bình an vô sự. Tôi sẽ đưa vào đó một đội gồm một bác sĩ và một số cô gái tốt bụng để làm cho cô ấy cảm thấy thoải mái.”

“Và khi nào thì cô ấy sẵn sàng di chuyển?”

“Chúng tôi sẽ thay hình đổi dạng cho cô ta, chụp hình rồi dán lên một hộ chiếu Israel. Sau đó chúng tôi sẽ đưa cô vượt Đường hầm Eo biển Manche, lúc đó các ông phải lo cho cô ta.”

Họ đã đi đến cuối đường và đưa họ trở lại bên hông Nhà thờ Đức Bà. Seymour chỉnh lại khăn quàng cổ và giả vờ chiêm ngưỡng các cột trụ bên ngoài nhà thờ lớn.

“Anh chưa hề cho tôi biết biệt thự ấy ở đâu,” ông ta nói một cách thờ ơ.

“Rồi ông sẽ sớm biết thôi.”

“Còn Marcel Lacroix?”

“Hắn chết rồi.”

Seymour xoay lại và chìa tay ra. “Tôi có thể làm gì giúp anh không?”

“Đi bộ tới Nhà ga phía Bắc (Gare du Nord) rồi lên chuyến tàu kế tiếp đi London!”

“Hơn một dặm đấy.”

“Tập thể dục rất tốt cho ông đó. Đừng hiểu lầm chuyện này, Graham à, nhưng trông ông có vẻ khổ sở quá.”

Hóa ra Seymour không nhớ nổi đường đến Nhà ga phía Bắc. Ông là người của MI5, nghĩa là chỉ tới Paris để dự hội nghị, nghỉ lễ hay cố gắng tìm cho ra cô bồ bị bắt cóc của Thủ tướng nước ông. Gabriel bỏ nhỏ vào tai ông hướng đi, rồi theo sau ông tới tận lối vào nhà ga, tại đó Gabriel biến mất tăm vào biển người với những kẻ ăn xin, buôn ma túy và tài xế taxi gốc Phi.

Lại một mình, Gabriel lên tàu điện ngầm tới Quảng trường Concorde và rồi cuốc bộ tới Đại Sứ quán Israel ở số 3 đường Rabelais. Sau khi chào xã giao ngài đại sứ, ông liên lạc với văn phòng điệp vụ ở Đại lộ King Saul rồi yêu cầu một nhà an toàn ở Pháp và một ban đón tiếp con tin. Năm phút sau, văn phòng điện thoại đáp lại rằng một nhóm gồm ba thành viên sẽ tới hiện trường trong vòng hai mươi bốn giờ.

“Còn căn nhà thì sao?”

“Chúng ta có một cơ sở mới ở Normandy, cách không xa bến phà ở Cherbourg.”

“Nó ra sao?”

“Bốn phòng ngủ, một nhà bếp có bàn ăn, có thể ngắm phong cảnh tuyệt đẹp của Eo biển Manche, và có thể tùy ý lựa chọn dịch vụ giúp việc nhà.”

Gabriel cúp máy rồi lấy chùm chìa khóa của căn nhà từ két sắt của ngài đại sứ. Đã gần bốn giờ rưỡi, chỉ còn lại vừa đủ thời gian để ông lên chuyến tàu năm giờ đi Avignon. Tới nơi lúc trời đã tối, ông trở về khách sạn nơi mình thuê phòng ở thị trấn Apt. Đêm hôm ấy trời không mưa, chỉ có một cơn gió mạnh bạo liên tục quấy nhiễu đường phố chật hẹp của khu phố cổ trung tâm. Gabriel nằm thao thức trên giường, vì tinh thần đoàn kết với Keller. Trong bữa điểm tâm sáng hôm sau, ông uống cà phê nhiều hơn khẩu phần thường lệ.

“Ông ngủ không được ngon giấc sao, thưa ngài?” nam tiếp viên có tuổi hỏi.

“Do gió mistral,” Gabriel đáp.

“Khủng khiếp thật,” tiếp viên đồng ý.

Bảng hiệu đằng trước cửa hàng ghi dòng chữ L’IMMOBILIERE DU LUBÉRON (Bất động sản vùng Lubéron). Đã nhập vào mình cái tính khí đa nghi của Herr Johannes Klemp, Gabriel đứng một lúc để săm soi dò xét những hình chụp bất động sản treo trong khung kính trưng bày ở mặt tiền rồi mới đi vào. Một phụ nữ có lẽ ba mươi lăm tuổi chào đón ông. Cô mặc một cái váy màu vàng nâu nhạt và một cái áo trắng bó sát thân mình tạo một ảo giác ướt át. Dường như cô chẳng thấy Herr Klemp đang cố gợi một cuộc trò chuyện xã giao. Ít phụ nữ để ý đến điều đó.

Ông bảo cô ta mình đã mê Lubéron lắm rồi, và dự định sẽ trở lại để lưu trú một thời gian dài hơn. Một khách sạn sẽ không thích hợp, ông nói. Để trải nghiệm cuộc sống ở Lubéron thực thụ, ông muốn thuê một biệt thự. Và không phải có thể là bất cứ biệt thự nào. Phải là cái gì đó đáng giá, ở một vùng mà du khách ít khi dám bén mảng tới. Herr Klemp không phải là một du khách; ông là một lữ khách. “Có một khác biệt quan trọng,” ông nhấn mạnh, mặc dù nếu có khác biệt, điều đó dường như hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì với người phụ nữ này.

Có một điều gì đó trong tính cách của Herr Klemp cho cô ta biết đây là một cuộc thử thách dai dẳng. Thật không may, cô từng gặp nhiều người như ông ta trước đó. Ông cứ đòi xem hết các cơ ngơi, nhưng cuối cùng không tìm được cái nào thỏa mãn yêu cầu của mình. Nhưng đó là việc làm duy nhất cô có thể tìm được ở cái nơi khiến Herr Klemp mê tít này. Vì vậy cô mời ông một tách cà phê kem lấy từ cái máy tự động rồi mở các tập quảng cáo của mình thật nhiệt tình hăng hái hết mức.

Có một biệt thự rất đẹp ở phía Bắc Apt, nhưng ông lại thấy quá tẻ nhạt. Rồi có một biệt thự mới chỉnh trang ở Ménerbes, nhưng khu vườn lại quá nhỏ và đồ đạc quá hiện đại. Sau đó có một đại trang viên bên ngoài Lacoste, nơi có sân quần vợt đất nện riêng và hồ bơi bằng đá mài trong nhà, nhưng điều này lại xúc phạm quan điểm dân chủ xã hội của Herr Klemp về sự công bằng. Và cứ tiếp tục như thế, hết biệt thự này đến biệt thự khác, hết thị trấn này lại sang thị trấn nọ, hết cảnh quan này tới môi trường khác, cho đến khi tất cả những gì còn lại chỉ là một cơ ngơi ở phía Nam Apt, trong một thung lũng hẹp trồng nho và hoa oải hương.

“Nghe có vẻ hoàn hảo nhỉ,” Herr Klemp nói, lòng tràn trề hy vọng.

“Nó hơi biệt lập ạ.”

“Biệt lập càng tốt.”

Đến đây, người phụ nữ cũng có cảm giác y hệt như thế. Thật vậy, nếu có quyền hành cô ta hẳn đã khóa chặt Herr Klemp vào một cơ ngơi biệt lập nhất ở Pháp rồi ném chìa khóa đi. Thay vì vậy cô mở tập quảng cáo, cho ông xem qua mọi căn phòng trong nhà đó. Vì một lý do nào đó, dường như ông đặc biệt ưa thích gian tiền sảnh, chẳng có gì bất thường. Một cánh cửa bằng gỗ nặng có những đầu đinh lồi bằng sắt. Một cái bàn nhỏ để trang trí. Những bậc thang bằng đá vôi lên tầng hai và xuống tầng hầm.

“Có lối đi nào khác để đi xuống ngoài các cầu thang không?”

“Dạ không.”

“Và không có lối vào tầng hầm từ bên ngoài sao?”

“Dạ không,” người phụ nữ lặp lại. “Nếu ông có các vị khách dùng các phòng ngủ dưới thấp, họ sẽ phải dùng cầu thang này.”

“Có ảnh ở tầng thấp không?”

“Tôi e rằng chẳng có gì nhiều để xem cả. Chỉ có một phòng ngủ dành cho khách và một gian để giặt đồ thôi ạ.”

“Chỉ có thế thôi sao?”

“Dạ còn có một phòng kho nhưng ở ngoài tầm của người thuê nhà. Chủ nhà giữ chìa của ống khóa móc bên ngoài cửa ạ.”

“Có nhà phụ nào ở bên ngoài cơ ngơi ấy không?”

“Cách đây đã lâu thì có, nhưng đã bị đập bỏ lúc tân trang lần cuối rồi ạ.”

Ông mỉm cười, gấp tập quảng cáo lại rồi đẩy nó qua bàn giấy về phía người phụ nữ.

“Tôi nghĩ cuối cùng chúng ta đã tìm được đúng nơi rồi.”

“Khi nào ông mới quan tâm đến việc thuê nhà ạ?”

“Mùa Xuân tới. Nhưng nếu có thể được,” ông nói thêm, “bây giờ tôi rất muốn đi xem qua nó.”

“Tôi e rằng đang có người ở đấy rồi ạ.”

“Thật sao? Đến bao giờ?”

“Những người thuê nhà dự tính sẽ rời đi trong ba ngày nữa.”

“Tôi e rằng mình sẽ rời khỏi Provence này trước đó.”

“Thật đáng tiếc,” người phụ nữ nói.

Gabriel dùng thời gian còn lại của buổi chiều để giả vờ rong chơi miền thôn quê của Lubéron bằng xe máy, và lúc mặt trời lặn ông đậu xe ở một chỗ hẻo lánh ngoài rìa thung lũng có ba ngôi biệt thự. Theo kế hoạch, Keller phải ra lúc sáu giờ đúng, nhưng đã quá mười phút rồi vẫn chưa thấy bóng dáng của y. Sau đó Gabriel cảm thấy có ai đó sau lưng.

Quay ngoắt lại, ông thấy gã người Anh đứng sững như tượng đá trong bóng tối.

“Anh tới đây bao lâu rồi?”

“Mười phút,” y đáp lại.

Gabriel nổ máy, và hai người bỏ đi.