Chương 32 ĐẢO CORSE - LONDON-
HỌ DÙNG BỮA tối trong làng, rồi Gabriel yên vị trong phòng ngủ dành cho khách dưới tầng hầm của biệt thự. Các vách tường màu trắng, khăn trải giường màu trắng, ghế bành và ghế dài bọc nệm đều phủ vải buồm. Gian phòng thiếu màu sắc khiến giấc ngủ rối loạn. Đêm hôm ấy khi chạy tới với Madeline trong giấc mơ, ông băng qua một cánh đồng tuyết phủ bất tận. Và khi cô gãi mu bàn tay mình, máu chảy ra từ vết thương có màu của thứ kem nhiều chất béo đặc quánh.
Buổi sáng, hai người lên chuyến bay đầu tiên đi Paris rồi bay tiếp tới sân bay Heathrow. Keller qua được hải quan nhờ một hộ chiếu Pháp, Gabriel đang đợi y trong sảnh đến, nghĩ chuyện đó là cách thức nhục nhã nhất đối với một người Anh trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Họ đi ra ngoài và chờ hai mươi phút mới đón được taxi. Nó chạy rề rề vào trung tâm London qua dòng xe cộ chật ních và mưa nặng hạt.
“Bây giờ thì ông hiểu vì sao tôi không thể sống ở đây được nữa,” Keller vừa khẽ nói bằng tiếng Pháp vừa đăm đăm nhìn vùng ngoại ô London buồn tẻ bên ngoài cửa kính bị mưa tạt.
“Hơi ẩm sẽ tạo một kỳ tích cho làn da của anh,” Gabriel đáp lại cùng một ngôn ngữ. “Anh giống hệt một tấm da khô.”
Chiếc taxi bỏ họ xuống ở Marble Arch. Hai người đi bộ một quãng ngắn trên Đường Bayswater tới tận chung cư nhìn ra Công viên Hyde. Căn hộ vẫn y nguyên như lúc ông rời khỏi đó vào buổi sáng lái xe sang Pháp với món tiền chuộc; thật vậy, chén đĩa điểm tâm của Chiara vẫn còn nguyên trong bồn. Gabriel bỏ cái túi của mình trong phòng ngủ chính, rồi lấy một khẩu súng từ két an toàn dưới sàn nhà. Khi đi ra, ông thấy Keller đang đứng trong khung cửa sổ phòng khách.
“Anh có thể tự lo liệu trong vài giờ không?” Gabriel hỏi.
“Tôi sẽ rất ổn thôi.”
“Có kế hoạch gì không?”
“Chắc tôi sẽ đi thuyền trên dòng Serpentine rồi sau đấy vọt luôn đến khu Covent Garden để mua sắm chút ít.”
“Cứ ở lại đây có lẽ tốt hơn. Anh không bao giờ biết được mình sẽ tình cờ gặp ai.”
“Tôi là lính Trung đoàn mà, ông bạn yêu dấu à.”
Y chẳng nói gì thêm nữa; không cần thiết. Y là lính Trung đoàn SAS, nghĩa là nếu muốn, y có thể băng qua phòng của các bạn thân mà chẳng ai hay biết.
Gabriel xuống đường và vẫy gọi một chiếc taxi chạy ngang qua. Hai mươi phút sau ông đi qua lối vào có cổng rào của Phố Downing, về phía Tòa nhà Nghị viện. Trong túi của ông chỉ có một tài liệu duy nhất từ hồ sơ của mình, một bài báo dài dòng văn tự từ tờ Daily Telegraph của London. Tựa bài MADELINE HART - CÂU HỎI KHÔNG CÓ LỜI GIẢI ĐÁP.
Bài báo do Samantha Cooke viết, cô ta là thông tín viên chính yếu của tờ Telegraph ở Whitehall và một trong các nhà báo được coi trọng nhất ở Đảo quốc Anh. Cô đã theo dõi để đưa tin về Jonathan Lancaster từ cái thời ông ta còn là một nghị sĩ cô đơn ngồi ở hàng ghế sau của Nghị viện và đã ghi chép lại sự thăng tiến của ông ta trong một tiểu sử gọi là “Lối mòn dẫn đến Quyền lực”. Mặc dù tựa sách hơi khoe khoang tự đắc, nhưng nó vẫn được đón nhận rất tốt, ngay cả với các đối thủ cạnh tranh ghen ghét cô vì khoản tiền ứng trước của nhà xuất bản London. Samantha Cooke là hạng phóng viên hiểu biết rất nhiều so với những gì cô có thể xuất bản, vì vậy Gabriel mới muốn trò chuyện với cô.
Ông gọi đến tổng đài của báo Telegraph và yêu cầu kết nối với máy của cô. Nhân viên phụ trách tổng đài nối máy cho ông không hề trì hoãn, và vài giây sau cô ta nhấc máy. Ông nghi ngờ cô đang dùng điện thoại di động, vì có thể nghe thấy những bước chân và tiếng vọng của những giọng nam trung trong một gian phòng trần cao - có lẽ là hành lang của Nghị viện, ở ngay bên kia đường từ quán café ông đang ngồi, ông nói mình cần làm phiền cô trong vài phút. Ông hứa sẽ không làm lãng phí thời gian của cô. Ông không hề nhắc tới một cái tên.
“Ông có biết hằng ngày tôi nhận được bao nhiêu cuộc gọi như thế này không?” cô ta hỏi với vẻ chán chường.
“Tôi có thể bảo đảm với cô, thưa cô Cooke, trước đây cô chưa bao giờ nhận được một cuộc gọi như thế này đâu.”
Có một khoảnh khắc im lặng trên đường dây. Rõ ràng cô ta đang ngạc nhiên và tỏ ra hiếu kỳ.
“Về việc gì đây ạ?”
“Tôi không nên nói chuyện này qua điện thoại.”
“Ồ, không. Dĩ nhiên không nên rồi.”
“Hiển nhiên cô có tính đa nghi.”
“Hiển nhiên rồi.”
“Điện thoại của cô có kết nối mạng không?”
“Dĩ nhiên.”
“Cách đây hai năm, một sĩ quan tình báo Israel khá nổi tiếng đã bị bọn khủng bố Hồi giáo bắt giữ và thẩm vấn có ghi hình. Kế hoạch của chúng là giết ông ta, nhưng đã không xảy ra theo cách đó. Đoạn phim ghi hình cuộc thẩm vấn vẫn còn trôi nổi khắp trên mạng. Cô xem rồi gọi cho tôi nhé.”
Ông cho cô một số điện thoại rồi cúp máy. Hai phút sau cô gọi lại.
“Tôi muốn gặp ông.”
“Chắc chắn cô có thể làm tốt hơn thế, thưa cô Cooke.”
“Xin vui lòng, ông Allon ạ, xin ông xem xét để cho tôi một cuộc hội kiến, có được không?”
“Chỉ khi nào cô xin lỗi tôi vì đã đối xử quá đỗi bất lịch sự trước đây ít phút.”
“Tôi xin gửi đến ông lời xin lỗi sâu sắc và khiêm nhường nhất. Hy vọng ông sẽ tìm được cách nào đấy trong lòng mình để tha lỗi cho tôi.”
“Cô đã được tha lỗi rồi đó.”
“Ông đang ở đâu thế?”
“Quán Café Nero trên Phố Bridge.”
“Thật không may tôi biết nó rất rõ.”
“Cô có thể tới đây sớm không?”
“Mười phút nữa.”
“Đừng tới trễ nhé,” ông nói, rồi ngắt kết nối.
Hóa ra cô ta đã tới trễ thật: trễ sáu phút, điều đó giải thích vì sao cô lại hấp tấp chạy ào qua cánh cửa như một cơn lốc, một điện thoại áp vào tai, cây dù của cô vỗ phần phật trong cơn gió lùa vào cùng với cô. Hầu hết khách hàng trong quán café đều là du khách, nhưng có ba nghị sĩ trẻ tuổi mặc com lê xám đang nhâm nhi cà phê sữa ở trong cùng. Samantha Cooke dừng lại để nói vài lời với họ rồi mới đi tới bàn Gabriel. Mái tóc hơi vàng hoe chấm ngang vai. Đôi mắt xanh biếc luôn soi mói. Trong rất nhiều giây chúng không rời khỏi khuôn mặt của Gabriel.
“Lạy Chúa tôi,” sau cùng cô nói. “Quả đúng là ông rồi.”
“Cô đang mong đợi điều gì vậy?”
“Chắc là một cặp sừng.”
“Ít ra cô là người trung thực.”
“Đấy là một trong những lỗi tệ hại nhất của tôi.”
“Còn gì nữa không?”
“Tính hiếu kỳ,” cô đáp.
“Vậy là cô tới đúng chỗ rồi đó. Tôi có thể gọi gì đó cho cô uống không?”
“Thực sự,” cô ta nhìn quanh trong quán, “có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta đi dạo.”
Gabriel đứng dậy, mặc vội áo khoác.
Hai người đi về phía Cầu Tháp rồi nhanh chóng rẽ trái qua Victoria Embankment. Dòng xe cộ buổi chiều di chuyển chậm chạp trên đường, nhưng những đám đông thường lũ lượt ngược xuôi trên phố đi bộ ven sông đã bị cơn mưa rượt đuổi đi mất. Gabriel ngoái đầu nhìn ra đằng sau để chắc chắn không có ai đi theo họ từ quán café. Khi quay trở lại, ông để ý thấy cô phóng viên đang nhìn mình chăm chú từ bên dưới chiếc dù như thể ông đang ở trên danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng.
“Trông ông khá hơn nhiều so với lúc quay đoạn phim ấy nhỉ,” một lát sau cô nói.
“Chỉ nhờ đánh phấn thoa son thôi mà.”
Bất giác cô mỉm cười. “Điều ấy có giúp ích hay không?” cô hỏi.
“Chỉ nói đùa sau một chuyện như vậy sao?”
Cô gật đầu.
“Có,” ông trả lời. “Có giúp ích đó.”
“Tôi đã gặp cô ấy một lần rồi, ông biết đấy.”
“Ai vậy?”
“Nadia al-Bakari. Đấy là khi chưa ai biết đến cô ấy, một cô gái Ả Rập Saudi ham ăn chơi, đứa con gái hư hỏng của Abdul Aziz al-Bakari, người tài trợ cho hoạt động khủng bố của Hồi giáo.” Cô nhìn mặt Gabriel để thăm dò phản ứng, và dường như thất vọng khi chẳng thấy gì. “Có phải ông đã giết hắn ta không?”
“Zizi al-Bakari bị giết là kết quả của một điệp vụ do sáng kiến của Mỹ và các đồng minh của họ trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố.”
“Nhưng ông là người thực sự đã lẩy cò, phải không? Ông đã giết hắn ở Cannes trước mặt Nadia. Và sau đấy ông lại tuyển mộ cô ấy để triệt hạ mạng lưới khủng bố của Rashid al-Husseini. Xuất sắc,” cô nhận xét. “Thực sự xuất sắc.”
“Nếu tôi xuất sắc như vậy thì Nadia vẫn còn sống sót.”
“Nhưng cái chết của cô ấy đã làm biến đổi thế giới. Nó đã giúp đem dân chủ đến với thế giới Ả Rập.”
“Và hãy xem đã tiến triển tốt ra làm sao đi,” Gabriel rầu rĩ nói.
Họ đi qua bên dưới cầu Hungerford trong lúc một xe lửa xình xịch chạy vào charing Cross. Mưa đã ngớt. Cô phóng viên hạ dù xuống, cuộn chặt lại rồi nhét vào túi xách.
“Tôi rất vinh hạnh vì ông đã đến gặp tôi, nhưng Trung Đông nói đúng ra chẳng phải là mối quan tâm hàng đầu của tôi.”
“Chuyện này không liên quan với vùng Trung Đông. Là chuyện về Jonathan Lancaster đó.”
Cô đột ngột ngước nhìn lên. “Vì sao một đặc vụ tình báo Israel nổi tiếng lại đến gặp một phóng viên London để tìm hiểu thông tin về Thủ tướng Anh?”
“Phải là chuyện gì đó quan trọng,” Gabriel nói lấp lửng. “Nếu không đặc vụ Israel nổi tiếng đó sẽ không bao giờ dám làm một việc như vậy.”
“Không, không dám đâu,” cô đồng ý. “Nhưng chắc chắn đặc vụ nổi tiếng ấy biết tường tận thông tin về Lancaster. Vì sao ông ấy lại nhờ một phóng viên giúp đỡ chứ?”
“Trái ngược với chuyện hoang đường đã lan truyền rộng rãi, chúng tôi không thu thập hồ sơ cá nhân về bạn bè của mình.”
“Chuyện ấy thật đáng tởm.”
Gabriel ngần ngừ một lát rồi mới mở lời. “Đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân, thưa cô Cooke. Cục tình báo của tôi tuyệt nhiên không dính líu với chuyện này.”
“Và nếu tôi đồng ý giúp ông thì sao?”
“Hiển nhiên để đổi lại tôi sẽ tặng cô cái gì đó.”
“Một câu chuyện chăng?”
Gabriel gật đầu.
“Nhưng ông không thể cho tôi biết đấy là chuyện gì,” cô phóng viên nói.
“Chưa được.”
“Bất kể là chuyện gì, nên là phải lớn lao mới được.”
“Tôi là Gabriel Allon. Tôi chỉ làm việc lớn mà thôi.”
“Phải, đúng thế.” Cô dừng bước, nhìn chằm chặp Vòng quay Thiên niên kỷ (London Eye) đang quay chầm chậm trên bờ sông bên kia. “Được, ông Allon ạ, chúng ta có một giao dịch. Có lẽ ông nên cho tôi biết tất cả chuyện này là về cái gì.”
Gabriel rút bài báo đăng trên tờ Telegraph từ túi áo khoác rồi giơ lên cho cô xem. Cô mỉm cười.
“Ông muốn tôi bắt đầu từ đâu ạ?”
Gabriel đút bài báo trở vào túi áo khoác. Rồi ông yêu cầu cô bắt đầu từ Jeremy Fallon.