← Quay lại trang sách

Chương 33 LONDON-

CÔ LÀ MỘT phóng viên tài giỏi, và như tất cả các phóng viên tài giỏi cô cung cấp cho người nghe những điều căn bản cần thiết để đưa câu chuyện của mình vào phạm vi thích hợp. Gabriel, trước đó từng cư trú ở Vương quốc Anh, nên đã biết nhiều về chuyện ấy rồi. Chẳng hạn như ông biết Jeremy Fallon từng được giáo dục tại Đại học London và từng làm công việc của một người viết quảng cáo trước khi tham gia ban tham mưu chính trị ở tổng hành dinh của đảng. Điều ông ta khám phá ra là một tổ chức vận động hủ lậu chuyên tâm rao bán một sản phẩm mà chẳng một ai, chí ít là công chúng cử tri Anh, chịu mua cả. Ưu tiên số một của ông ta là thay đổi cách thức đảng tiến hành vận động bầu cử. Ông ta không quan tâm một cử tri đặc biệt ủng hộ đảng phái nào; ông muốn biết cử tri đó đi mua sắm ở đâu, xem chương trình nào trên ti vi và có những kỳ vọng gì đối với con cái của mình. Hơn tất cả, Fallon muốn biết cử tri đó mong đợi gì ở chính phủ. Lặng lẽ làm việc cách xa trọng tâm chú ý của công chúng, ông ta bắt đầu sắp xếp lại cho chu đáo các chính sách cốt lõi của đảng để đáp ứng nhu cầu của toàn thể cử tri Anh hiện đại. Sau đó, ông ta đi tìm người rao hàng hoàn hảo để đem sản phẩm mới của mình ra thị trường, ông ta tìm thấy một người như thế nơi Jonathan Lancaster. Nhờ Fallon giúp đỡ, Lancaster đã vượt qua thách thức thành công để trở thành lãnh đạo của đảng. Rồi sáu tháng sau ông được đưa vào Phố Downing.

“Jeremy đạt được việc làm mơ ước như một phần thưởng,” cô phóng viên nói. “Jonathan bổ nhiệm ông ta làm trưởng ban tham mưu và cho ông ta nhiều quyền hành hơn bất cứ trưởng ban tham mưu nào trong lịch sử Vương quốc Anh. Jeremy là người gác cổng và củng cố quyền lực cho Lancaster, một phó thủ tướng trong mọi vấn đề nhưng lại không có chức danh ấy. Thủ tướng có lần đã bảo tôi đấy là sai lầm lớn nhất ông từng phạm phải.”

“Chuyện đó có lưu lại trong hồ sơ không?”

“Ngoài hồ sơ,” cô nói với giọng chua chát. “Rất rất xa, xa lơ xa lắc ở bên ngoài.”

“Đã biết là sai sao còn làm?”

“Bởi vì nếu không có Jeremy, đảng vẫn mãi lang thang trong bối cảnh chính trị ai cũng rõ là rất rối ren. Và Jonathan Lancaster vẫn mãi là một nghị sĩ đối lập địa vị thấp kém ngồi ở hàng ghế đằng sau trong Nghị viện, cố ghi dấu ấn tên tuổi của mình mỗi tuần một lần suốt phiên chất vấn trong nghị viện. Ngoài ra,” cô nói thêm, “Jeremy hoàn toàn trung thành với Lancaster. Tôi hoàn toàn tin chắc ông ta sẽ giết người vì Thủ tướng và sau đấy tự nguyện chùi sạch các vết máu.”

Gabriel ước gì mình có thể nói với cô rằng cô nói đúng biết chừng nào. Thay vì vậy, ông vẫn bước đi trong im lặng và chờ đợi cô lại nói tiếp.

“Nhưng còn có nhiều điều nữa về quan hệ của họ chứ không chỉ là mối dây ràng buộc vì món nợ ân tình và lòng trung thành. Thủ tướng cần Jeremy, ông thực sự không tin mình có thể cai trị đất nước nếu không có ông ấy bên cạnh mình.”

“Như vậy là đúng rồi à?”

“Là gì ạ?”

“Chuyện Jeremy Fallon là bộ óc của Lancaster.”

“Đấy thực sự là chuyện hoàn toàn rác rưởi. Nhưng nhận thức ấy chẳng mất nhiều thời gian để lan truyền trong công chúng. Ngay cả các cuộc thăm dò ý kiến riêng trong nội bộ đảng cũng cho thấy đa số người dân Đảo quốc Anh nghĩ Jeremy chính là người thực sự điều hành chính phủ.” Cô tạm dừng, có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. “Chính vì thế tôi quá kinh ngạc khi thấy Jeremy ở bên cạnh Lancaster vào cái ngày ông ấy cuối cùng đã kêu gọi tổ chức tuyển cử.”

“Kinh ngạc à?”

“Cách đây không lâu có một tin đồn kinh tởm lan truyền khắp Whitehall rằng Lancaster đang có kế hoạch đẩy Jeremy ra khỏi Phố Downing.”

“Vì ông ta đã trở thành một cục nợ đời cản trở trong cuộc bầu cử à?”

Samantha Cooke gật đầu. “Và bởi vì ông ấy không có uy tín trong đảng nên chẳng ai muốn làm việc cho ông ấy.”

“Tại sao cô lại không đưa tin?”

“Tôi không có đủ nguồn tin cần thiết để đưa lên mặt báo,” cô đáp. “Một số phóng viên chúng tôi có những tiêu chuẩn, ông biết đấy.”

“Cô có nghĩ Jeremy Fallon cũng từng nghe tin đồn đó chứ?”

“Tôi không nghĩ là ông ấy không biết về điều này.”

“Cô và Thủ tướng có bao giờ bàn chuyện đó chưa?”

“Tôi chưa bao giờ có thể khẳng định điều ấy, đấy là một lý do khiến tôi không viết ra. Tạ ơn Chúa tôi đã không viết,” cô nói thêm. “Bằng không hẳn ngay bây giờ đây tôi có vẻ ngốc nghếch lắm.”

Họ đã đến Cầu Waterloo. Gabriel nắm lấy khuỷu tay hướng dẫn cô đi về phía Khu Bờ sông.

“Cô biết ông ta rõ tới mức nào?”

“Jeremy à?”

Gabriel gật đầu.

“Tôi không chắc có ai đấy thực sự biết rõ Jeremy Fallon. Tôi chỉ biết ông ấy trong quan hệ nghề nghiệp, nghĩa là ông ấy cho tôi biết những điều ông muốn tôi đăng trên tờ nhật báo của mình. Ông ấy là một tên khốn kiếp quỷ quyệt, vì thế màn trình diễn của ông ấy trong tang lễ của Madeline Hart thật quá đặc sắc. Có nằm mơ tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ông ta có thể nhỏ ngay cả một giọt lệ.” Cô dừng lại, rồi nói thêm. “Tôi cho rằng rốt cuộc đúng là như thế.”

“Là chuyện gì?”

“Chuyện Jeremy đã phải lòng cô ấy.”

Gabriel dừng chân và quay lại nhìn thẳng vào mặt Samantha Cooke. “Cô vừa nói Jeremy Fallon và Madeline Hart có quan hệ yêu đương à?”

“Madeline chẳng có tình cảm lãng mạn với Jeremy đâu,” cô lắc đầu đáp lại. “Nhưng điều ấy không ngăn cản cô lợi dụng ông ấy để thăng tiến trong sự nghiệp. Theo ý kiến của tôi thì cô ta thăng chức quá nhanh. Và tôi nghi ngờ tất cả điều ấy là nhờ Jeremy cả.”

Một khoảnh khắc im lặng buông xuống giữa hai người. Họ đang đứng trên lề đường bên ngoài Phòng tranh Courtauld. Cô phóng viên đang quan sát dòng xe cộ hối hả chạy dọc theo Khu Bờ sông, nhưng ngài đặc vụ lại đang tự hỏi vì sao Jeremy Fallon lại giới thiệu người đàn bà mình yêu cho Thủ tướng. Có lẽ ông ta đã muốn tạo ra một đòn bẩy với con người định kết liễu sự nghiệp chính trị của ông ta.

“Cô có chắc chắn không?” Một lát sau Gabriel hỏi.

“Chuyện Jeremy si tình Madeline sao?”

Gabriel gật đầu.

“Chắc chắn như người ta có thể chắc chắn về chuyện gì đấy y như thế.”

“Nghĩa là sao?”

“Tôi biết được chuyện ấy từ nhiều nguồn tin đa chiều mà tôi tin cậy. Jeremy trước đây thường bịa ra những cái cớ mơ hồ nhất để tiếp xúc với người đẹp. Tất cả đều có vẻ bề ngoài khá lâm ly tha thiết.”

“Tại sao cô không đưa tin khi cô ta biến mất?”

“Bởi vì lúc ấy dường như đấy không phải là một việc làm đúng đắn,” cô đáp. “Còn bây giờ cô ấy đã chết...”

Giọng cô lạc hẳn đi. Họ đi vào phòng tranh mua hai vé, rồi leo lên cầu thang tới các gian phòng triển lãm. Như thường lệ chúng hầu như hoàn toàn vắng khách, ở Phòng số 7, họ dừng chân trước cái khung trống hoác để kỷ niệm vụ đánh cắp bức tranh có chữ ký của Courtauld, Self-Portrait with Bandaged Ear (tạm dịch: Chân dung tự họa với Lỗ tai Băng bó) do Vincent van Gogh vẽ.

“Thật đáng tiếc,” Samantha Cooke nói.

“Phải,” Gabriel nói. ông dẫn cô tới bức Nevermore (Tạm dịch: Không Bao Giờ Nữa) của Gauguin và hỏi cô đã từng gặp Madeline Hart hay chưa.

“Có một lần,” cô vừa đáp vừa chỉ vào người đàn bà trên khung vải như thể đang nói về cô ta chứ không phải một phụ nữ đã chết. “Lúc ấy tôi đang viết một bài về nỗ lực của đảng nhằm liên kết với thiểu số cử tri. Jeremy bảo tôi đến gặp Madeline. Lúc đó tôi nghĩ cô ấy hơi quá xinh đẹp và điều này không có lợi cho cô, nhưng cô ấy lại nhanh nhạy như một chiếc roi. Đôi lúc, dường như cô ấy đang phỏng vấn tôi chứ chẳng phải ngược lại. Tôi có cảm giác như thể mình đã...” Cô chợt nín bặt như thể đang tìm từ đúng. Rồi cô nói, “Tôi có cảm giác như mình đã được tuyển dụng — để làm việc mà mình chẳng có một manh mối nào.”

Khi giọng cô vừa tắt lịm, Gabriel nghe có tiếng bước chân và quay lại thì thấy một cặp đôi trung niên đi vào phòng. Người đàn ông đeo một cặp kính đổi màu và hói đầu, chỉ còn một mớ tóc như thầy tu. Người đàn bà nhỏ tuổi hơn ông ta rất nhiều và cầm một quyển sách hướng dẫn của viện bảo tàng mở ra ngược đầu. Họ di chuyển từ bức tranh này sang bức tranh khác chẳng nói chẳng rằng, dừng lại trước mỗi khung vải chỉ vài giây trước khi di chuyển sang khung vải kế tiếp như hai cái máy. Ông dõi mắt nhìn theo hai người khi họ đi qua gian phòng triển lãm kế bên. Sau đó, ông dẫn cô phóng viên xuống cầu thang tới khoảng sân nội bộ rộng mênh mông ở trung tâm tòa nhà. Lúc thời tiết ấm áp đó là địa điểm tụ tập phổ biến đối với những người dân London làm việc trong các cao ốc văn phòng dọc theo Khu Bờ sông. Nhưng giờ đây, trong cơn mưa lạnh giá, những cái bàn bằng sắt của quán café chẳng có ai ngồi, và vòi phun bắn những tia nước như đang nhảy múa với nỗi buồn của một món đồ chơi trong nhà trẻ không có trẻ em.

“Cô viết rất hay về Madeline sau khi cô ta biến mất,” Gabriel nói khi họ bước chậm quanh chu vi của sân.

“Tôi đã có dụng ý với từng từ trong bài ấy. Cô ta điềm tĩnh và tự tin, thật đặc biệt đối với ai đấy cũng được giáo dục như cô.” Cô phóng viên tạm dừng, nhíu mày như đăm chiêu suy nghĩ. “Tôi chưa bao giờ hiểu nổi cách hành xử của mẹ cô ta trong những ngày sau khi cô ta mất tích, cha mẹ của những người mất tích thường nói với báo chí liên tục. Nhưng bà ta chẳng phải thế. Bà ít nói và không thích giao tiếp suốt thời gian ấy. Còn bây giờ dường như bà ta đã biến mất khỏi bề mặt của quả đất. Cả anh cô ta cũng thế.”

“Ý cô muốn nói gì?”

“Khi tôi định liên lạc với bà để viết bài ấy,” cô hất hàm về phía bài báo đang ở trong túi áo khoác của Gabriel, “Ở ngôi nhà của họ chẳng có ai nghe máy cả. Chưa bao giờ. Tôi từng lái xe tới tận Essex đẫm máu và ngồi trên bậc thềm trước cửa nhà. Một láng giềng cho tôi biết không thấy gia đình Madeline trong một thời gian ngắn sau đám tang.”

Gabriel không nói gì, nhưng trong đầu đang tính toán thời gian lái xe từ trung tâm London tới thị trấn Basildon ở hạt Essex, vào giờ cao điểm lúc tan tầm.

“Tôi đã nói chuyện rất nhiều rồi,” Samantha Cooke vẫn đang nói. “Bây giờ đến lượt ông. Vì lẽ gì mà Gabriel Allon vĩ đại lại quan tâm đến một cô gái người Anh đã chết?”

“Tôi e rằng mình chưa thể cho cô biết.”

“Khi nào đó ông sẽ cho tôi biết chứ?”

“Còn tùy.”

“Ông biết đấy,” cô nói có vẻ khiêu khích, “chính sự kiện ông đến London đặt các câu hỏi hoàn toàn là một câu chuyện đấy.”

“Đúng vậy,” ông thừa nhận. “Nhưng cô sẽ không bao giờ dám tường thuật hay thậm chí đề cập tới cuộc trò chuyện của chúng ta với bất cứ ai.”

“Sao lại không chứ?”

“Vì nó sẽ ngăn cản tôi cho cô một câu chuyện còn hay hơn nhiều trong tương lai.”

Cô phóng viên mỉm cười nhìn đồng hồ đeo tay của mình. “Tôi rất muốn dành chừng một tuần lễ để trò chuyện với ông, nhưng tôi thực sự phải đi rồi. Tôi có một bài đăng trên báo ngày mai.”

“Cô đang viết về đề tài gì vậy?”

“Công ty Dầu khí Volgatek.”

“Công ty năng lượng của Nga à?”

“Rất ấn tượng đấy, ông Allon ạ.”

“Tôi vẫn cố nắm bắt tin tức kịp thời. Giúp ích rất nhiều cho quá trình công tác của tôi.”

“Chắc chắn là thế rồi.”

“Là chuyện gì vậy cô?”

“Những người bảo vệ môi trường và đám đông quan tâm đến sự ấm lên toàn cầu đang tức giận vì giao dịch kinh doanh ấy. Họ đang tiên đoán tất cả các tai họa thường xảy ra: chủ yếu là sự cố tràn dầu, làm tan phần trên các tảng băng ở Bắc cực, quyền sở hữu mặt đại dương ở Chelsea, đại loại là thế. Dường như họ chẳng quan tâm đến việc giao dịch ấy sẽ sinh lợi hàng tỷ đô la tiền bản quyền và đem đến rất nhiều việc làm đang cực kỳ cần thiết cho Scotland.”

“Như vậy bài viết của cô sẽ không nghiêng về bên nào à?”

“Bài tôi viết vẫn luôn như thế đấy,” cô mỉm cười phản pháo. “Các nguồn tin của tôi đều cho biết giao dịch ấy là dự án được tâm đắc nhất của Jeremy, sáng kiến lớn cuối cùng của ông ấy trước khi rời Phố Downing để chạy đua vào Nghị viện. Tôi đã cố bàn với ông ta về chuyện ấy, nhưng ông đã nói hai từ chưa bao giờ thốt ra từ cửa miệng ông ta trước đấy.”

“Là những từ gì vậy?”

“Miễn bàn.”

Nói rồi cô đưa cho ông một danh thiếp làm việc, bắt tay ông rồi biến mất qua lối đi có mái vòm nối khoảnh sân với Khu Bờ sông. Gabriel chờ năm phút rồi mới đi theo. Khi rẽ sang đường phố, ông thấy người đàn ông và đàn bà trong phòng tranh đang cố vẫy gọi taxi. Ông đi ngang qua họ không hề liếc nhìn và tiếp tục đi tới Quảng trường Trafalgar, ở đó một ngàn người phản kháng đang tham gia Hai Phút Hận Thù được tổ chức để chống lại Nhà nước Israel. Ông hòa mình vào đám đông rồi di chuyển thật chậm qua đó, thỉnh thoảng dừng lại để xem có ai đang theo dõi hay không. Cuối cùng, một cơn mưa lớn bất ngờ từ trên trời đổ xuống khiến đám người biểu tình vội chạy tứ tán tìm chỗ trú mưa. Gabriel nhập vào một đám diễn viên và họa sĩ ủng hộ Palestine đang đi về phía các quán rượu ở Khu Soho, nhưng tới Đường Charing Cross ông đột nhiên tách ra rồi lặn nhanh xuống Trạm Tàu điện ngầm ở Quảng trường Leicester. Trong khi đang đi cầu thang cuốn xuống lòng đất ấm áp, ông gọi điện cho Keller.

“Chúng ta cần xe hơi,” ông nói bằng tiếng Pháp thật nhanh.

“Ta sẽ đi đâu đây?”

“Basildon.”

“Có lý do đặc biệt nào không?”

“Tôi sẽ cho anh biết trên đường đi.”