Chương 34 THỊ TRẤN BASILDON, HẠT ESSEX-
THỊ TRẤN NÀY đã được tạo dựng nên sau Thế chiến thứ Hai như một phần của một kế hoạch lớn lao nhằm giảm bớt tình trạng quá đông dân cư trong các khu nhà ổ chuột bị bom tàn phá ở Khu Đông London. Kết quả là cái mà các nhà hoạch định trung ương gọi là một Thị trấn Mới: một thị trấn không có lịch sử, không có linh hồn, không có mục đích nào khác ngoài việc chứa chấp các tầng lớp lao động. Trung tâm thương mại của nó, khu thương mại thị trấn Basildon, một tuyệt tác rất gần với kiến trúc Xô Viết. Tòa nhà gồm các căn nhà hội đồng cũng vậy, lờ mờ hiện ra với vẻ đe dọa ở bên hông của cao ốc đó như một lát bánh mì nướng khổng lồ bị cháy khét.
Nửa dặm đường xa hơn về phía Đông tọa lạc một cư xá kiểu mẫu gồm các tòa chung cư và các ngôi nhà có nền cao đằng trước gọi là khu Lichfields. Các đường phố đều có tên dễ thương - Đường Avon, Phố đi bộ Norwich, Đường mòn Southwark - nhưng các vết nứt nẻ làm tách vỡ các vỉa hè và cỏ dại mọc um tùm trong các sân nhà. Vài ngôi nhà có bãi cỏ nhỏ ở đằng trước, nhưng căn nhà nhỏ xíu ở cuối Đường Blackwater chỉ có một khoảnh đất lát bê tông bị vỡ, nơi thường đậu một chiếc xe hơi tàn tạ. Mặt tiền ốp sỏi ở tầng trệt, và xây bằng gạch nâu trên tầng hai. Có ba cửa sổ nhỏ, tất cả đều kéo màn tối tăm kín mít. Không có bóng đèn nào cháy sáng phía trên cánh cửa trước nho nhỏ không hoan nghênh khách đến viếng thăm.
“Có người nào đi làm việc không?” Keller hỏi trong khi họ lái xe chầm chậm ngang qua căn nhà lần thứ nhì.
“Bà mẹ làm mỗi tuần vài giờ ở nhà thuốc Boots trong trung tâm thương mại,” Gabriel trả lời. “Thằng anh chỉ uống rượu, không chịu làm việc để kiếm sống.”
“Và ông chắc chắn chẳng có ai ở trong đấy chứ?”
“Anh thấy có vẻ như có người ở sao?”
“Có lẽ họ thích bóng tối.”
“Hay có lẽ họ là ma cà rồng.”
Gabriel lái xe lướt nhẹ vào một khu vực đậu xe quanh góc phố rồi tắt máy. Ngay bên ngoài cửa kính của Keller có một tấm bảng cảnh báo toàn khu vực được đặt dưới sự giám sát của hệ thống CCTV suốt hai mươi bốn giờ.
“Tôi có cảm giác không hay về chuyện này.”
“Anh vừa giết một người để kiếm tiền kia mà.”
“Nhưng không bị thu hình.”
Gabriel không nói gì.
“Ông định ở lại trong ấy bao lâu?” Keller hỏi.
“Cần ở bao lâu thì ở.”
“Chuyện gì sẽ xảy đến nếu cảnh sát xuất hiện?”
“Có lẽ rất hay nếu anh báo cho tôi biết.”
“Còn nếu họ để ý thấy tôi đang ngồi ở đây thì sao?”
“Anh cứ trình hộ chiếu Pháp và nói bị lạc đường.”
Không nói thêm một lời nào, Gabriel mở cửa xe và leo ra ngoài. Khi ông bắt đầu băng qua đường, một con chó cất tiếng sủa ở nơi nào đó trong khu nhà. Chắc phải là một con chó to lớn, vì tràng âm thanh sâu thẳm đó rền vang từ những mặt tiền đang bể nát của các chung cư như tiếng đại bác nổ. Trong phút chốc, ông tính quay lại chỗ chiếc xe - chắc chắn, ông buồn rầu thầm nghĩ, con vật đã cố ý lớn tiếng tru tréo. Thay vì quay lại, ông im lặng đi qua cái vườn bê tông cứng và xuất hiện trước cửa nhà họ.
Không có hốc tường hay nơi ẩn nấp để trú cơn mưa đang rơi đều đều. Gabriel kéo thử chốt cửa và như đã đoán trước, ông thấy nó đã khóa chặt. Sau đó, ông rút từ trong túi ra một dụng cụ bằng kim loại thật mỏng và đút vào ổ khóa, chỉ cần mất vài giây - thật vậy, một người lạ có lẽ đã cho rằng đơn giản chỉ là ông đang mò tìm chìa khóa của mình trong bóng tối. Khi ông thử kéo chốt cửa lần thứ nhì, nó nhượng bộ không hề kháng cự. Ông từ từ mở cửa ra, bước vào căn nhà bỏ không tối đen rồi nhanh chóng đóng cửa lại. Bên ngoài con chó tuôn ra một tràng dài những tiếng sủa cuối cùng rồi mới chịu im hơi lặng tiếng. Ông đút ổ khóa trở vào trong túi, lôi ra một đèn pin Maglite nhỏ, rồi bấm nút bật đèn lên.
Ông đang đứng trong một tiền sảnh chật hẹp. Sàn nhà lót vải sơn vương vãi những thư từ không ai đọc, và bên phải ông có rất nhiều áo khoác bằng len và vải dầu rẻ tiền treo trên móc. Ông lôi hết ra những thứ có trong các túi áo khoác - đó những kẹp diêm trong bìa cứng đã quẹt hết, nhũng biên lai và danh thiếp làm việc - rồi mới theo chùm tia sáng đi vào phòng khách. Đó là một không gian nhỏ hẹp tù túng, chừng 2,4 X 3 mét, có ba cái ghế bành tả tơi xếp xung quanh một ti vi. Chính giữa phòng là một cái bàn thấp có hai gạt tàn thuốc đầy ắp, và trên một vách tường treo những ảnh chụp đóng khung của Madeline. Madeline lúc còn là một thiếu nữ đang đuổi theo một quả bóng qua khoảnh sân ngập nắng. Madeline nhận bằng tại Đại học Edinburgh. Madeline chụp hình chung với Thủ tướng Jonathan Lancaster ở Phố Downing. Còn có một tấm hình chụp cả gia đình Hart đang đứng dọc theo một bờ biển buồn tẻ với vẻ không vui. Gabriel nhìn chằm chặp khuôn mặt rộng bèn bẹt của cha mẹ cô và cố hình dung họ đã kết hợp thế nào để sản sinh ra khuôn mặt xinh đẹp của cô. Cô ta là một sai sót của tạo hóa, ông thầm nghĩ. Cô là con của một Thượng Đế khác.
Ông rời phòng khách rồi vào nhà bếp sau khi đi qua một phòng ăn nhỏ. Hàng đống chén đĩa bẩn để đầy các mặt bàn nhà bếp và trong chậu đầy nước có váng mỡ. Không khí nặng mùi ôi thiu hôi hám. Gabriel mở một trong các ngăn tủ sát đất và thấy một thùng rác đầy ắp thức ăn hư thối. Còn có nhiều hơn nữa trong tủ lạnh. Gabriel tự hỏi điều gì có thể đã ám ảnh họ tới nỗi phải bỏ nhà ra đi trong tình trạng hỗn độn như thế này.
Gabriel trở ra tiền sảnh rồi leo cầu thang hẹp lên tầng thứ nhì. Có ba phòng ngủ: hai phòng nhỏ xíu ở bên trái của căn nhà và một phòng lớn hơn ở bên phải mà ông bước vào trước tiên. Đó là phòng của mẹ cô gái. Cái giường đôi bị bỏ mặc không trải khăn giường mới và một luồng không khí lạnh tràn vào qua khung cửa sổ mở rộng, ngó xuống mảnh đất dơ bẩn là khu vườn sau nhà. Ông mở cửa tủ ngầm trong tường mỏng như giấy và chiếu chùm tia sáng quanh khắp bên trong. Trên sào treo những y phục từ đầu này sang đầu nọ, và còn có quần áo xếp thành đống ngăn nắp trên cái kệ phía trên đó. Kế tiếp ông đi tới bàn trang điểm. Tất cả các ngăn kéo đều để đầy đồ hết mức, trừ ngăn kéo bên trái trên cùng - ngăn kéo đó, ông nghĩ, là nơi một phụ nữ điển hình thường cất giấy tờ cá nhân và những vật lưu niệm của mình. Cúi người xuống, ông rọi ánh sáng dưới gầm giường nhưng chẳng thấy gì ngoài bụi bặm. Sau đó, ông tới chỗ máy điện thoại. Nó được để trên một cái bàn kê sát giường ngủ, cạnh một cái ly không. Ông nhấc ống nghe lên tai, nhưng chẳng nghe tín hiệu nào. Sau đó ông nhấn nút ‘phát lại’ trên máy trả lời. Không có lời nhắn nào cả.
Gabriel băng qua sảnh và thò đầu vào một trong hai phòng ngủ nhỏ hơn. Trông nó giống như tàn tích của một vụ gài bom trên xe hơi. Chỉ có các vách tường vẫn còn nguyên vẹn. Chúng được dán đầy những hình ảnh giải trí thông thường: các ngôi sao bóng đá, các siêu người mẫu, các xe hơi mà người ở trong phòng này không đủ khả năng để mua. Không khí phảng phất mùi nước hoa đàn ông khó ngửi mà thật cảm ơn, ông chưa từng gặp phải từ khi rời quân đội. Ông sục sạo trong phòng thật nhanh, nhưng không phát hiện điều gì bất thường - không có gì kể cả ngoại trừ căn phòng này chẳng chứa một đồ vật hay một mảnh giấy nhỏ nào có đề tên của kẻ đang cư trú trong đó.
Căn phòng ông vào sau cùng là phòng ngủ của Madeline, chẳng phải là cô Madeline từng là người yêu của ông Thủ tướng, cũng không phải di vật của cô Madeline Ông đã gặp ở bên Pháp, nhưng là cô Madeline bằng cách nào đó đã sống sót qua thời thơ ấu trong căn nhà nhỏ buồn tẻ này. Dường như với ông, cô đã hoàn tất điều ấy cùng một kiểu cách cô đã sống sót qua một tháng bị cầm tù, mọi thứ đều ngăn nắp và trật tự. Giường cô được trải khăn thật đẹp; cái bàn viết của nữ học sinh bé tí sẵn sàng để được kiểm tra. Trên đó kê đứng một hàng tiểu thuyết cổ điển Anh: Dickens, Austen, Forster, Lawrence. Các quyển sách trông như thể đã đọc đi đọc lại nhiều lần, và các trang sách đầy những đoạn văn được gạch dưới và những ghi chú viết tay với nét chữ nhỏ rõ ràng. Gabriel vừa định nhét quyển A Room with a View (tạm dịch: Một Gian phòng với một Khung cảnh) vào túi áo khoác thì điện thoại di động khẽ rung lên. Ông bấm nút nhận cuộc gọi rồi nhanh chóng đưa điện thoại lên tai.
“Có đứa đi cùng bọn ta đấy,” Keller nói.
“Mấy đứa?”
“Trông có vẻ như chỉ một đứa thôi, nhưng tôi không thể chắc chắn.”
Gabriel hé mở tấm màn mỏng manh che kín cửa sổ phòng ngủ của Madeline và trông thấy một ả đàn bà đang bước đi trên Đường Blackwater dưới một chiếc dù che mưa. Khi ả đi ngang qua một ánh đèn sáng hình nón màu vàng, ông liếc nhìn khuôn mặt thật nhanh và nhận ra ngay lập tức trước đó từng trông thấy nó ở đâu đó. Câu trả lời đến với ông khi ả đổi hướng, đi vào lối mòn trải bê tông dành cho xe hơi. Chuyện đã xảy ra trong một nhà thờ cổ kính ở vùng núi Lubéron. Ả chính là con đàn bà làm dấu thánh giá như thể không quen làm như thế. Và vì một lý do nào đó, giờ đây ả đang đút một chìa khóa vào cửa trước nhà Madeline Hart.
Gabriel tắt điện thoại rồi rút khẩu súng từ thắt lưng ra. Ông định lẻn xuống cầu thang và đối đầu với ả đàn bà ngay lập tức, nhưng rồi quyết định tốt hơn hết nên chờ đợi. Cuối cùng, ông nghĩ, ả đàn bà sẽ cho ông biết ả là ai và tại sao lại tới đây, điều này sẽ tốt hơn việc chẳng hề hay biết gì về hành vi của ả. Đó vẫn luôn là cách hay nhất để thu thập một tin tình báo mà không cần biết đến mục tiêu. Như Shamron vẫn luôn thuyết giảng, đối với một điệp viên thì làm một tên móc túi vẫn tốt hơn làm một kẻ cướp giật nơi công cộng.
Và thế là Gabriel đứng im như tượng đá trong căn phòng thời thơ ấu của Madeline Hart, nòng súng áp chặt vào má mình cho yên lòng vững dạ, trong khi ả đàn bà bước vào tiền sảnh rồi lặng lẽ đóng cửa lại. Ả phát ra một âm tiết duy nhất không quen thuộc với ông. Rồi đến một loạt những tiếng lào xào sột soạt, có thể ả đang nhặt thư từ lên và bỏ vào một túi xốp. Kế tiếp ả di chuyển vào phòng khách và ở đó chừng hai phút. Sau đó ả đi vào nhà bếp và lại thốt ra cùng một âm tiết duy nhất ấy. Gabriel nghi đó là một lời chửi tục từ một ngôn ngữ không phải là tiếng Anh, tiếng Do Thái, tiếng pháp, tiếng Ý hay tiếng Đức. Ông còn nghi ngờ một chuyện khác nữa. Ả đàn bà dù là ai cũng đang sục sạo căn nhà như ông đã làm trước khi ả tới.
Khi tiếng bước chân của ả đã tới tận chân cầu thang, Gabriel trong phút chốc lưỡng lự không quyết. Nếu ông đoán đúng ý đồ của ả đàn bà - ả đang sục sạo tìm cái gì đó - chắc chắn ả sẽ sục sạo phòng ngủ của Madeline, ông liếc nhìn xung quanh tìm chỗ ẩn nấp nhưng chẳng thấy chỗ nào thích hợp; gian phòng chắc chắn không rộng lớn hơn cái xà lim nơi cô gái bị cầm tù bên Pháp. Khi tiếng bước chân của ả đàn bà trở nên lớn hơn, ông không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc quyết định bỏ đi. Nhưng đi đâu? Phòng tắm ở ngay bên kia sảnh. Trong khi đi vào đó không một tiếng động, ông tự hỏi Shamron sẽ nghĩ gì nếu ông thấy được người quản lý tương lai của ngành tình báo Israel vào giờ phút này. Ông sẽ đồng tình, Gabriel nghĩ. Thật vậy, ông biết chắc Ari Shamron vĩ đại từng lẩn trốn ở những nơi còn làm giảm uy tín nghề nghiệp hơn rất nhiều so với phòng tắm của một căn nhà hội đồng ở thị trấn Basildon.
Ông để cửa hơi he hé - 6 cm, không hơn không kém - rồi cầm khẩu súng trong hai bàn tay duỗi dài ra khi ả đàn bà hoàn tất hành trình đi lên cầu thang. Ả đi vào phòng ngủ rộng lớn nhất trước tiên và cứ phán đoán theo tiếng mở các ngăn kéo và đóng sập các cánh cửa thì ả đang lục lọi khắp nơi. Năm phút sau ả đi ra và bước thẳng một mạch ngang qua phòng tắm, có vẻ không hề hay biết một khẩu súng trong giây phút ấy đang chĩa thẳng vào đầu ả. Ả mặc cũng chiếc áo mưa màu vàng nâu từng mặc ở bên Pháp, nhưng đầu tóc được chải bới lại hơi khác đi một chút. Tay trái ả xách một cái túi mua sắm của hãng Marks & Spencer. Có vẻ như nó chứa đựng nhiều hơn, chứ không phải chỉ có những thư từ không ai đọc.
Khi ả vào phòng Madeline, cuộc lục soát đột nhiên trở nên dữ dội. Đó là một cuộc khám xét chuyên nghiệp, Gabriel nghĩ bụng, chú ý lắng nghe. Một cuộc khám xét ầm ĩ... Ả xé quần áo từ cái tủ ngầm trong tường, xé toạc khăn trải giường, đổ hết đồ trong các ngăn kéo ra sàn nhà. Cuối cùng có tiếng kêu răng rắc đột ngột như tiếng gỗ bể nát, tiếp theo là một khoảnh khắc im lặng nặng nề. Một lát sau, khoảnh khắc im lặng đó bị giọng nói của ả phá tan đi. Giọng đó trầm trầm bình thản, thứ giọng nói người ta thường dùng để báo tin cho cấp trên nhờ một thiết bị phát một tín hiệu qua làn sóng truyền đi trong không gian rộng mở. Gabriel không hiểu nổi ả đang nói gì. Ông không nghe nổi hệ ngôn ngữ Slav - nhưng ông chắc chắn một điều.
Ả đang nói tiếng Nga.