Chương 35 THỊ TRẤN BASILDON, HẠT ESSEX-
XE HƠI CỦA ả là một chiếc sedan hình hộp hiệu Volvo đã cũ mèm đang đậu bên kia đường từ tòa chung cư tồi tàn nhất của Khu Lichfields. Ả đi thẳng tới đó, tay phải cầm dù, còn tay trái thì xách cái túi Marks & Spencer màu xanh lá cây. Chiếc dù đơn thuần chỉ để làm dáng thôi, Gabriel thầm nghĩ khi quan sát từ cửa sổ phòng Madeline, vì cơn mưa đã tạnh. Cái túi trông có vẻ nặng nề. Sau khi mở cửa xe, ả quẳng cái túi lên ghế hành khách đằng trước rồi leo vào, vẫn để chiếc dù giương ra cho tới khi đã an toàn vào bên trong. Động cơ chần chừ một hồi rồi mới khục khặc nổ. Ả chờ cho tới khi đến gần ranh chu vi của cư xá mới mở đèn ở đầu xe. Ả lái xe thật nhanh nhưng rất êm, y như một tài xế chuyên nghiệp.
Gabriel nhìn một lần cuối cảnh tàn phá tan hoang mà ả đàn bà đã gây ra cho căn phòng của cô gái rồi vội vã xuống cầu thang. Khi ông vừa bước ra khỏi cửa, Keller đã lái xe vòng lại và đang đợi ngoài đường. Gabriel nhanh chóng leo lên và hất hàm ra hiệu cho y chạy theo ả ta.
“Nhưng phải cẩn thận đó,” ông cảnh báo. “Nó giỏi lắm.”
“Giỏi cỡ nào?”
“Trung tâm Moscow tài giỏi.”
“Ông đang nói gì thế?”
“Tôi có thể lầm,” Gabriel đáp, “nhưng tôi tin ả đàn bà lái xe là KGB đó.”
Về danh nghĩa công khai tất nhiên không có KGB. Nó đã bị giải tán không bao lâu sau khi Xô Viết cũ sụp đổ. Liên bang Nga hiện giờ có hai cơ quan tình báo: FSB và SVR. FSB xử lý các vấn đề bên trong biên giới nước Nga: công tác phản gián, chống khủng bố, bọn mafiya [1] các nhà hoạt động thân dân chủ khá can đảm hay khá ngốc nghếch khi thách thức những người đang cai trị nước Nga từ sau những bức tường của Điện Kremlin. Còn SVR là cơ quan tình báo Nga ở nước ngoài. Nó điều hành mạng lưới gián điệp toàn cầu của mình cũng từ khu trường sở hẻo lánh ở Yasenevo từng được sử dụng làm trụ sở của chánh Giám đốc thứ Nhất của KGB. Các sĩ quan của SVR vẫn gọi tòa nhà đó là Trung tâm Moscow - và cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ngay cả các công dân của nước Nga vẫn nhắc đến SVR bằng cái tên KGB. Và vì những lý do tốt đẹp. Điện Kremlin có thể đã đổi tên cục tình báo Nga, nhưng sứ mạng của SVR vẫn duy trì y như cũ: xâm nhập và làm suy yếu các quốc gia trong liên minh vùng Đại Tây Dương trước đây, với Hoa Kỳ và Đảo quốc Anh ở đầu danh sách ấy.
Nhưng tại sao một gián điệp hoạt động trên thực địa của SVR lại đi theo Gabriel và Keller tới một nhà thờ cổ ở vùng núi Lubéron? Và tại sao cũng chính ả gián điệp đó lại vừa mới sục sạo nhà của gia đình một cô gái người Anh đã chết tên là Madeline Hart? Một cô gái từng là nhân tình của Thủ tướng Anh. Một cô gái từng bị bắt cóc trong khi đang nghỉ hè trên đảo Corse và bị cầm giữ để đòi tiền chuộc. Một cô gái đã bị thiêu đốt đến chết trong cốp của một chiếc Citroën C4 trên bãi biển ở Audresselles.
“Ta chớ nên suy luận quá sớm,” Keller nói.
“Tôi biết những gì đã nghe thấy,” Gabriel đáp.
“Ông đã nghe một phụ nữ nói tiếng Nga.”
“Không,” Gabriel phản đối. “Tôi nghe một con gián điệp của Trung tâm Moscow lục tung một căn phòng.”
Họ đi về hướng Tây trên đường A127. Thời gian đang tới gần tám giờ. Những làn xe đi về phía Đông vẫn dày đặc những xe cộ còn lại sau giờ cao điểm buổi tối của London, nhưng bên đi về hướng Tây lại đang chạy hết ga. Ả đàn bà ở đằng trước, cách chừng hơn 180 mét. Keller không gặp rắc rối gì khi đeo bám theo hai đèn đằng đuôi sáng rõ của chiếc Volvo cũ.
“Cứ cho là ông nói đúng đi,” y vẫn đăm đăm nhìn thẳng về phía trước. “Cứ cho là KGB hay SVR, hoặc ông muốn gọi là cái quái quỷ gì cũng được, có liên quan thế nào đấy với vụ bắt cóc Madeline Hart đi.”
“Khi nào tới đúng lúc tôi sẽ tranh luận, bây giờ sự kiện đó vẫn ở ngoài vòng tranh cãi.”
“Chấp nhận. Nhưng mối liên kết là gì?”
“Tôi vẫn đang suy nghĩ về điều đó. Nhưng nếu phải suy đoán thì tôi sẽ nói đó là một điệp vụ của chúng ngay từ đầu.”
“Điệp vụ ư?” Keller hỏi, có vẻ không tin nổi. “Ông vừa nói là bọn Nga đã bắt cóc nhân tình của Thủ tướng Anh sao?”
Gabriel không đáp. Chính ông cũng chưa hoàn toàn tin chuyện ấy.
“Ông để tôi nhắc vài sự kiện nổi bật, được không?” gã người Anh hỏi.
“Xin anh cứ nói đi.”
“Marcel Lacroix và René Brossard đâu có phải là người Nga, và đâu có làm việc cho SVR. Cả hai đứa đều là người Pháp. Hai tên tội phạm có tổ chức, có tiền án tiền sự từ lâu đã ghi vào hồ sơ của Marseilles và miền Nam nước Pháp.”
“Có lẽ chúng đã không nhận biết mình làm việc cho ai.”
“Còn Paul thì sao?”
“Chúng ta không biết gì về hắn, ngoài việc hắn nói tiếng Pháp như đã học được từ một băng ghi âm - hoặc tên trùm băng đảng vĩ đại của đảo Corse Anton Orsati đã nói như vậy.”
“Cầu cho ông ấy được bình an.”
Gabriel vừa gõ những đốt ngón tay lên tấm kính chắn gió vừa nói, “Nó đang ở quá xa đằng trước anh kìa.”
“Tôi đã thấy được ả rồi.”
“Rút ngắn khoảng cách một chút đi.”
Keller tăng tốc trong vài giây, rồi từ từ giảm tốc độ.
“Ông nghĩ Paul là người Nga à?”
“Điều đó giúp giải thích tại sao cảnh sát Pháp không tài nào gắn được một cái tên vào gương mặt hắn ta.”
“Nhưng vì sao hắn lại thuê bọn tội phạm Pháp bắt cóc Madeline thay vì tự làm việc ấy?”
“Anh có bao giờ nghe nói tới một điệp vụ cờ giả chưa?” Gabriel hỏi. “Các cơ quan tình báo vẫn thường xuyên điều khiển các điệp vụ sẽ gây tổn hại về ngoại giao hay chính trị nếu có khả năng bị lộ. Vì vậy họ ngụy trang các hoạt động đó dưới một lá cờ giả mạo. Đôi khi họ làm ra vẻ như thể mình là đặc vụ từ một cơ quan khác. Đôi khi họ làm ra vẻ như mình làm một nghề hoàn toàn khác.”
“Như bọn tội phạm hình sự Pháp?”
“Anh sẽ bị bất ngờ đó.”
“Chỉ còn một vấn đề với lập luận của ông.”
“Chỉ một thôi sao?”
“SVR đâu có cần tiền chứ.”
“Tôi rất ngờ vực chuyện này là vì tiền.”
“Ông đã đưa cho bọn chúng hai va li đấy ắp mười triệu euro cơ mà.”
“Phải, tôi biết.”
“Nếu không phải vì tiền, thế thì tất cả việc chi trả ấy là vì cái gì chứ?”
“Chúng phất lá cờ giả cho tới kết thúc.”
Gã người Anh im lặng một lát. Sau cùng y hỏi, “Nhưng vì sao bọn chúng lại giết Madeline?”
“Tôi không biết.”
“Gia đình cô ấy đang ở đâu?”
“Tôi không biết.”
“Làm thế nào bọn Nga lại khám phá ra chuyện của Madeline và Lancaster?”
“Chuyện đó tôi cũng không biết.”
“Có ai đấy có thể biết.”
“Là ai?”
“Ả đàn bà lái chiếc xe hơi kia,” Keller đáp, chỉ tay ngang qua tay lái về phía hai đèn đuôi của chiếc Volvo.
“Thà làm thằng móc túi còn hơn đi cướp giật.”
“Thế nghĩa là gì?”
“Rút ngắn khoảng cách đi,” Gabriel gõ đốt ngón tay lên mặt kính. “Nó đang ở quá xa phía trước anh kìa.”
Ả chạy ngang bên dưới đường vòng cung M25, tăng tốc vượt qua một cảnh quan gồm các trang trại và cánh đồng, rồi đi vào vùng ngoại ô của Thủ đô London. Sau ba mươi phút vùng ngoại ô nhường chỗ cho các thị tứ của Khu Đông và cuối cùng đến các tháp văn phòng của Khu Trung tâm. Từ đó ả băng qua Holborn và Soho tới Mayfair, ở đó ả tấp vào lề một khu sầm uất trên Phố Duke, ngay phía Nam Phố Oxford. Sau khi cài các đèn chớp lóe tự động báo tình trạng khẩn cấp, ả leo ra khỏi xe và xách cái túi Marks & Spencer đi về phía một chiếc sedan hiệu Mercedes đậu cách đó chừng gần một mét. Khi ả tới gần chiếc xe, nắp cốp xe tự động nâng lên, mặc dù Gabriel không thấy được bằng chứng ả đàn bà đã mở nó ra. Ả đặt cái túi vào bên trong, sập nắp rầm một cái rồi trở về chiếc Volvo. Mười giây sau ả từ từ rời khỏi vỉa hè một cách thận trọng rồi chạy về phía Phố Oxford.
“Tôi nên làm gì đây?” Keller hỏi.
“Cứ để nó đi.”
“Vì sao?”
“Vì kẻ đã mở cốp xe Mercedes đang quan sát xem ả đó có đang bị ai bám theo đuôi hay không.”
Keller đảo mắt nhìn kỹ khắp đường phố, và Gabriel cũng thế. Có các nhà hàng ở cả hai bên, tất cả đều nhằm phục vụ cho du khách, và trên các vỉa hè rất đông những người đi bộ. Bất cứ ai trong bọn họ cũng có thể mang theo chìa khóa mở chiếc xe Mercedes.
“Bây giờ làm gì đây?” Keller hỏi.
“Chúng ta chờ.”
“Chờ gì?”
“Khi thấy rồi tôi mới biết.”
“Bọn móc túi và cướp giật à?”
“Cái gì đó tương tự như vậy.”
Keller cứ nhìn chằm chặp chiếc Mercedes, nhưng Gabriel đang ngó quanh cơn ác mộng ẩm thực ở đầu Phố Duke: Pizza Hut, Garfunkel’s, cái gì đó gọi là Pure Waffle, nghĩa là gì cũng thế thôi. Tốt đẹp hơn cả ở phố này là Bella Italia, một chuỗi nhà hàng với những chi nhánh nằm rải rác khắp thành phố và đó là nơi cái nhìn chăm chú của đặc vụ dừng lại. Một gã đàn ông và một ả đàn bà tuổi tác cách biệt rất nhiều lúc ấy đang bước ra khỏi cửa, có lẽ vừa dùng bữa xong. Gã đàn ông đội một chiếc mũ đánh sáp ong để che cơn mưa phùn nhẹ, còn ả đàn bà thì đang nhìn chằm chặp vào trong cái ví xách tay như thể đã bỏ nhầm chỗ cái gì đó. Trước đó trong ngày, trong các gian triển lãm của Phòng tranh Courtauld ả đã cầm quyển sách hướng dẫn mở ra ở một trang ngược đầu, còn gã đàn ông đã đeo kính đổi màu. Giờ đây hắn hoàn toàn không đeo kính. Sau khi đỡ ả đàn bà ngồi vào ghế trước dành cho hành khách của chiếc Mercedes, hắn vòng sang bên dành cho tài xế và leo lên ngồi sau tay lái. Động cơ khi khởi động dường như làm cả con phố rung lên. Sau đó chiếc xe lao nhanh khỏi hè phố với một tiếng kêu ken két nhỏ đột ngột của các lốp xe rồi vọt qua Phố Oxford ngay lúc đèn tín hiệu giao thông chuyển sang màu đỏ.
“Chơi hay thật,” Keller nhận xét.
“Đúng vậy,” Gabriel đáp lại.
“Tôi có nên theo bọn chúng hay không?”
Gabriel lắc đầu chầm chậm, chúng giỏi lắm, ông thầm nghĩ. Trung tâm Moscow tài giỏi.
Đại Khách sạn Berkshire thật ra chẳng to đại gì, cũng chẳng lớn lao là mấy trong hạt Berkshire làm say mê lòng người của nước Anh. Nó đứng sừng sững cuối một nền cao của khu nhà thời vua Edward rải rác trên Đường Tây Cromwell, kế bên là một cửa hàng điện tử bán giảm giá và một quán café có Internet khả nghi ở bên kia. Gabriel và Keller đến lúc nửa đêm. Họ không đặt chỗ trước, cũng không mang theo hành lý; hành lý vẫn còn để trong nhà an toàn ở Bayswater mà Gabriel cho rằng giờ đây đang bị bọn Nga rình mò theo dõi. Ông trả tiền lưu trú hai đêm bằng tiền mặt và bảo nhân viên trực đêm rằng mình và anh bạn đồng hành không muốn tiếp bất kỳ một vị khách nào, cũng không muốn ai làm gián đoạn sinh hoạt của mình bất cứ kiểu nào kể cả việc phục vụ của các cô hầu phòng. Nhân viên trực đêm thấy lời dặn dò đó không có gì bất thường cả. Đại Khách sạn Berkshire - hay GHB như nhân viên quản lý thường gọi tắt - cung cấp dịch vụ dành cho những du khách chẳng biết đi đường nào nữa.
Phòng họ ở tầng bốn trên cùng, và có thể nhìn rõ dưới đường thích hợp để bắn tỉa. Gabriel khăng khăng bảo Keller đi ngủ trước. Sau đó, ông ngồi bên khung cửa sổ, đặt khẩu súng trong lòng và gác hai bàn chân nghỉ ngơi trên bệ cửa, năm câu hỏi cứ lởn vởn mãi không thôi trong tâm trí ông. Tại sao cục tình báo Nga lại quá liều lĩnh tới nỗi bắt cóc nhân tình của Thủ tướng Anh? Tại sao lại có việc trả tiền chuộc khi chắc chắn tiền không phải là thứ bọn Nga cần? Tại sao chúng lại giết Madeline? Gia đình cô ta đang ở đâu? Jonathan Lancaster và Jeremy Fallon đã biết được bao nhiêu? Ông không thể tìm được một câu trả lời thỏa đáng. Ông có thể suy đoán và suy luận dựa trên kinh nghiệm dày dạn của mình, nhưng chẳng có gì hơn. Ông nghĩ mình cần móc thêm vài cái túi nữa, và nếu cần thiết sẽ thực hiện một hay hai vụ cướp giật nữa. Rồi sau đó là gì? Ông nghĩ tới mụ signadora già và những lời tiên tri của mụ về một kẻ cựu thù và thành phố dị giáo ở phương Đông.
Anh không bao giờ được đặt chân tới đó. Nếu tới anh sẽ chết.
Ngay lúc đó một chiếc xe tải đi giao báo kêu rít lên khi dừng lại trước tòa soạn báo Tesco Express ở bên kia đường. Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Gần bốn giờ, đã tới lúc đánh thức Keller rồi ngủ vài tiếng đồng hồ. Thay vì vậy, ông lại cầm lên quyển tiểu thuyết của E. M. Forster lấy từ phòng Madeline và giở ra ở một trang ngẫu nhiên rồi bắt đầu đọc:
^qHọ đã chơi một môn thể thao phức tạp gì đấy lên lên xuống xuống sườn đồi suốt cả buổi chiều. Đó là môn thể thao gì và người chơi chính xác đã chia phe thế nào, Lucy từ từ khám phá ra…
Gabriel gấp quyển sách lại và dõi mắt nhìn theo chiếc xe tải giao báo chạy đi trên đường phố tối tăm ẩm ướt. Rồi sau đó, ông đã hiểu ra, nhưng làm sao chứng minh điều ấy? Ông cần sự giúp đỡ của ai đó hiểu biết thế giới kinh doanh và chính trị tăm tối của nước Nga. Ai đó cũng tàn nhẫn y hệt những người trong Điện Kremlin.
Ông cần đến Viktor Orlov.
Chú thích:
[1] Tương tự mafia của Ý theo cách viết của Nga khi đã được chuyển sang mẫu tự latinh.