Chương 36 CHELSEA, LONDON
VIKTOR ORLOV LÚC NÀO cũng giỏi tính toán. Sinh ra ở Moscow trong những ngày đen tối nhất của chiến tranh Lạnh, y đã theo học tại Học viện cơ học Chính xác và Quang học Leningrad đầy uy tín, và đã làm việc như một nhà vật lý trong chương trình vũ khí hạt nhân của Liên Xô.
Khi Liên Xô tan rã, y chẳng hề rơi một giọt nước mắt. Thật vậy, y đã uống rượu vodka Xô Viết rẻ tiền đến say sưa man dại, rồi vừa chạy qua các đường phố Moscow vừa la hét, “Sa hoàng đã chết rồi.” Sáng hôm sau, hoàn toàn ngầy ngật vì say xỉn, y thôi không làm cho chương trình vũ khí hạt nhân Xô Viết nữa, và thể sẽ trở nên giàu có. Trong vòng vài năm, y đã kiếm được một tài sản kếch xù nhờ nhập khẩu máy vi tính, các chương trình ứng dụng và những hàng hóa khác của phương Tây cho thị trường Nga sơ khai. Về sau, y dùng tài sản đó để mua được công ty thép quốc doanh lớn nhất của nước Nga, cùng với công ty dầu lửa Ruzoil khổng lồ của Siberia theo giá cả thỏa thuận. Chẳng bao lâu sau, Viktor Orlov trước đó là một nhà vật lý của chính quyền từng chia chung một căn hộ với hai gia đình Xô Viết khác, đã là một tỷ phú có rất nhiều tỷ, và người giàu có nhất nước Nga. Y là một trong các đầu sỏ chính trị ngay từ đầu, một tên trùm băng cướp đầy quyền thế thời hiện đại, xây dựng đế chế của mình bằng cách cướp bóc những viên ngọc đính trên vương miện của nhà nước Xô Viết. Y thường tỏ ra hối lỗi vì cách mình làm giàu. “Giá như tôi sinh ra là người Anh,” có lần y đã nói với một nhà báo Anh phỏng vấn y, “có lẽ tiền đã đến với tôi một cách sạch sẽ. Nhưng tôi lại sinh ra là người Nga. Và tôi kiếm được một gia tài ở nước Nga.”
Nhưng ở nước Nga hậu Xô Viết, tài sản của Orlov khiến y bị để ý tình nghi. Y sống sót thoát khỏi ít nhất ba vụ mưu sát, và nghe đồn y đã ra lệnh giết rất nhiều người để báo thù. Nhưng mối đe dọa lớn nhất với y lại đến từ người kế nhiệm Boris Yeltsin làm Tổng thống của nước Nga. Ông ta tin rằng Viktor Orlov và các đầu sỏ chính trị khác đã trộm những tài sản có giá trị nhất của đất nước, và ông ta có ý định cướp đoạt lại. Sau khi yên vị trong Điện Kremlin, tân Tổng thống cho gọi y tới và đòi hai thứ: công ty thép và Ruzoil của y. “Và chớ có chõ mũi vào chính trị,” ông ta nói như báo trước một điểm gở. “Bằng không tôi sẽ triệt ngay tức khắc đấy.”
Orlov đồng ý từ bỏ mối lợi sắt thép nhưng chẳng chịu giao nộp Ruzoil. Tổng thống không được vui. Ông ta lập tức ra lệnh cho các công tố viên mở một cuộc điều tra về gian lận và hối lộ, và trong vòng một tuần ông đã có trong tay một trát bắt giữ. Orlov khôn ngoan bỏ trốn tới London, ở đó y trở thành một trong những người lớn tiếng chỉ trích Tổng thống Nga rất hữu hiệu. Trong rất nhiều năm, Ruzoil vẫn cứ bị đóng băng về mặt pháp lý, ngoài tầm tay của cả Orlov lẫn các chủ nhân mới của Điện Kremlin. Sau cùng, y bị thuyết phục và từ bỏ nó như một phần của một giao dịch bí mật nhằm bảo đảm việc phóng thích bốn người bị một lái buôn vũ khí người Nga tên là Ivan Kharkov bắt làm con tin. Để đổi lại, chính phủ Anh thưởng công cho y được làm thần dân của vương quốc, và ban cho y một cuộc triều kiến ngắn ngủi và thân mật với Nữ hoàng Bệ hạ. Văn phòng đã gửi y một lá thư ngắn tỏ lòng biết ơn do Chiara đọc chính tả cho Gabriel viết tay. Ari Shamron đích thân giao lá thư, rồi đốt ngay khi gã người Nga vừa đọc xong.
Lúc đó y đã hỏi, “Tôi có dịp may được gặp tận mặt con người phi thường ấy không?”
“Không,” Shamron đã đáp lại.
Không hề nao núng, y đã cho ông số điện thoại riêng tư nhất, và ông đã đưa lại cho Gabriel, ông đã gọi số ấy cuối buổi sáng hôm đó từ một điện thoại công cộng gần Đại Khách sạn Berkshire, và ngạc nhiên khi chính Orlov trả lời.
“Tôi là một trong những người được ông cứu bằng cách từ bỏ Ruzoil,” Gabriel không nhắc tới tên mình. “Người viết lá thư mà ông già đã đốt khi ông đọc xong.”
“Ông ấy là một trong những kẻ khó chịu nhất tôi từng gặp.”
“Xin chờ đợi cho tới khi ông hiểu ông ta rõ hơn một chút.”
Orlov bật ra một tiếng cười ngắn ngủn, khô khốc. “Tôi có vinh dự được mang ơn ông vì điều gì thế?”
“Tôi cần ông giúp đỡ.”
“Lần trước các ông nhờ tôi giúp đỡ, tôi đã phải trả giá bằng một công ty dầu lửa đáng giá ít nhất mười sáu tỷ đô la đấy.”
“Lần này ông không tốn kém gì đâu.”
“Chiều nay tôi rảnh rỗi lúc hai giờ.”
“Ở đâu vậy?”
“Số Bốn mươi Ba,” y đáp.
Và rồi đường dây tắt lịm.
Số Bốn mươi Ba là số ngôi nhà lớn khang trang của y trên Phố đi bộ Cheyne ở Chelsea. Gabriel lội bộ tới đó trong khi Keller lo phát hiện theo dõi cách hơn 90 mét ở đằng sau. Ngôi nhà cao và hẹp, phủ kín trong những dây đậu tía. Cũng như các nhà lân cận, bị ngăn cách với đường phố sau một hàng rào sắt. Một chiếc limousine bọc thép hiệu Bentley đậu bên ngoài, một tài xế ngồi đằng sau tay lái. Ngay phía sau xe đó là một chiếc Range Rover màu đen, trong có bốn nhân viên thuộc chi đội bảo an của Orlov. Tất cả đều là cựu thành viên trung đoàn cũ của Keller: Đơn vị Đặc nhiệm Không quân SAS.
Đám vệ sĩ dõi mắt nhìn theo với vẻ tò mò thấy rõ khi Gabriel vào trên lối đi bộ qua vườn hoa rồi xuất hiện ở cửa trước nhà Orlov. Ông nhấn chuông, một cô hầu gái mặc đồng phục hai màu đen và trắng có hồ cứng đi ra. Sau khi tìm hiểu cho rõ lai
“Lần này ông không tốn kém gì đâu.”
“Chiều nay tôi rảnh rỗi lúc hai giờ.”
“Ở đâu vậy?”
“Số Bốn mươi Ba,” y đáp.
Và rồi đường dây tắt lịm.
Số Bốn mươi Ba là số ngôi nhà lớn khang trang của y trên Phố đi bộ Cheyne ở Chelsea. Gabriel lội bộ tới đó trong khi Keller lo phát hiện theo dõi cách hơn 90 mét ở đằng sau. Ngôi nhà cao và hẹp, phủ kín trong những dây đậu tía. Cũng như các nhà lân cận, bị ngăn cách với đường phố sau một hàng rào sắt. Một chiếc limousine bọc thép hiệu Bentley đậu bên ngoài, một tài xế ngồi đằng sau tay lái. Ngay phía sau xe đó là một chiếc Range Rover màu đen, trong có bốn nhân viên thuộc chi đội bảo an của Orlov. Tất cả đều là cựu thành viên trung đoàn cũ của Keller: Đơn vị Đặc nhiệm Không quân SAS.
Đám vệ sĩ dõi mắt nhìn theo với vẻ tò mò thấy rõ khi Gabriel vào trên lối đi bộ qua vườn hoa rồi xuất hiện ở cửa trước nhà Orlov. Ông nhấn chuông, một cô hầu gái mặc đồng phục hai màu đen và trắng có hồ cứng đi ra. Sau khi tìm hiểu cho rõ lai lịch, cô dẫn ông lên một tầng cầu thang rộng và trang nhã tới văn phòng của chủ nhân. Căn phòng ấy sao chép y hệt phòng làm việc riêng của Nữ hoàng trong Cung điện Buckingham - tất cả trừ bức tường truyền thông tinh thể lỏng khổng lồ đang tỏa sáng lung linh khi phát những bản tin tài chính và các dữ liệu thị trường từ khắp nơi trên thế giới. Khi Gabriel đi vào, Orlov đang đứng trước nó như thể đã xuất thần. Như thường lệ, y mặc một bộ com lê Ý sẫm màu và một chiếc cà vạt hồng đậm thật hoang phí thắt nút theo kiểu Windsor to tướng. Mái tóc hoa râm lưa thưa của y được xịt keo và chải phồng lên. Những con số phản chiếu hơi rực sáng trên cặp mắt kính sang trọng. Y không nhúc nhích, ngoại trừ con mắt bên trái cứ giật giật với vẻ bồn chồn lo lắng.
“Hôm nay ông kiếm được bao nhiêu rồi, Viktor?”
“Thật ra,” y vẫn nhìn chằm chặp bức tường màn hình,”Tôi nghĩ mình đã bị mất mười hay hai mươi triệu gì đấy.”
“Tôi rất tiếc khi nghe tin đó.”
“Ngày mai là một ngày khác rồi.”
Orlov quay lại, im lặng ngó kỹ khách một hồi lâu rồi sau cùng mới chìa ra một bàn tay được cắt sửa móng. Da của y mát mẻ khi đụng tới và đặc biệt mềm mại. Y hệt bắt tay một đứa trẻ nhỏ.
“Bởi tôi là người Nga,” y nói, “nên chẳng dễ dàng bị sốc. Nhưng tôi phải thừa nhận mình thực sự ngạc nhiên khi thấy ông đứng ở đây trong văn phòng của tôi. Tôi cứ tưởng bọn ta sẽ không bao giờ gặp nhau chứ.”
“Xin lỗi ông, Viktor. Đáng lẽ tôi phải tới trước đây rất lâu rồi.”
“Tôi hiểu vì sao ông chẳng đến.” Orlov mỉm cười buồn bã. “Bọn ta có một điểm chung nào đấy, ông và tôi. Cả hai ta đều ở trong tầm ngắm của Điện Kremlin. Cả hai ta đều cố gắng để sống sót và đã thoát chết.”
“Một số trong chúng ta sống sót tốt đẹp hơn người khác,” Gabriel liếc nhìn xung quanh gian phòng tráng lệ.
“Tôi đã gặp may. Và chính phủ Vương quốc Anh đã đối xử rất tốt với tôi,” Orlov nói thêm một cách chua xót, “bởi thế tôi chẳng muốn làm gì có thể gây rối loạn quyền lực trong Whitehall.”
“Chúng ta có cùng một mối quan tâm.”
“Tôi rất vui khi nghe điều ấy. Thế thì, ông Allon ạ, sao ông không cho tôi được biết tất cả mọi chuyện?”
“Công ty Dầu khí Volgatek.”
Orlov mỉm cười. “À,” y nói, “tôi rất vui vì cuối cùng đã có người để ý.”