← Quay lại trang sách

Chương 37 PHỐ ĐI BỘ CHEYNE, CHELSEA

VIKTOR ORLOV CHẲNG bao giờ miễn cưỡng khi nói tới chuyện tiền tài. Thật vậy, hiếm khi y bàn về chuyện nào khác. Y khoe những bộ com lê của mình giá mười ngàn đô la mỗi bộ, những áo sơ mi lễ phục may tay của y đẹp nhất thế giới, và đồng hồ bằng vàng- nạm-kim cương đeo trên cổ tay y là một trong số những chiếc đắt tiền nhất từng được chế tạo. Đồng hồ hiện y đang đeo là chiếc thứ nhì. Y đã phá hỏng chiếc thứ nhất một cách nổi tiếng ở Thụy Sĩ, vì va đập nó vào một gốc thông trong khi trượt tuyết. “Tôi ngốc quá,” y đã nói với phóng viên của một tờ báo Anh khổ nhỏ sau khi xảy ra vụ va chạm thiệt hại hàng triệu đô la ấy, “nhưng tôi đã quên không cởi cái đồ chết tiệt ấy ra trước khi rời khỏi ngôi nhà gỗ ở miền núi Thụy Sĩ.”

Rượu vang y chọn là Château Pétrus, thứ rượu Pomerol mà y uống như thể đó là nước khoáng Evian. Vẫn còn hơi sớm vào buổi chiều, ngay cả với chủ nhà, nên hai người cùng dùng bữa lỡ. Orlov uống theo kiểu Nga của y, qua một cục đường cắn giữa mấy cái răng cửa. Cánh tay y vung vẩy về phía Gabriel dọc theo lưng của một ghế bành bọc gấm trang nhã, và y đang cầm gọng mắt kính đáng giá của mình quay vòng vòng, điều mà y lúc nào cũng làm khi nói về nước Nga.

Đó không phải là nước Nga thời thơ ấu của y, cũng chẳng phải nước Nga mà y đã phụng sự như một nhà vật lý hạt nhân, mà là nước Nga đã vấp ngã rồi hồi sinh. Đó là học thuyết Darwin xã hội với ý nghĩa đồi bại nhất của nó. Kẻ mạnh cướp của kẻ yếu, kẻ yếu bị đói và bọn đầu sỏ chính trị trị vì ở địa vị tối cao. Họ trở thành những Sa hoàng mới của nước Nga, những ủy viên nhân dân mới. Họ chạy nhanh như gió thổi qua Moscow trong những đoàn xe đạn bắn không thủng vây quanh là những chi đội an ninh trang bị vũ khí hạng nặng. Ban đêm các chi đội an ninh đánh nhau trên đường phố. “Đấy là Phương Đông Hoang dã,” Orlov có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. “Đấy là chuyện điên rồ.”

“Nhưng ông đã yêu mến nó mà.”

“Cái gì không yêu chứ? Chúng tôi đều là thần linh, thật đấy.”

Thời gian đầu trong sự nghiệp của một nhà tư bản, y đã điều hành đế chế mới đâm chồi nảy lộc của y một mình và với một nắm tay sắt. Nhưng sau khi tậu được Ruzoil, y nhận thấy mình cần một chỉ huy thứ nhì. Y tìm được một người như thế ở Gennady Lazarev, một nhà toán học lý thuyết sáng chói cùng làm việc với y trong chương trình vũ khí hạt nhân Xô Viết. Lazarev chẳng biết gì về chủ nghĩa tư bản, nhưng cũng như Orlov hắn ta rất giỏi tính toán. Hắn học kinh doanh từ những người đã đứng vững trên thương trường. Sau đó Orlov giao cho hắn trách nhiệm giải quyết công việc hằng ngày của Ruzoil. Y bảo đó là sai lầm lớn nhất y từng phạm phải trong kinh doanh.

“Tại sao?” Gabriel hỏi.

“Bởi vì Gennady Lazarev là KGB,” y đáp. “Hắn là KGB khi làm việc trong chương trình vũ khí hạt nhân, và cũng là KGB khi tôi giao hắn phụ trách Ruzoil.”

“Ông đã không có bất kỳ nghi ngờ gì sao?”

Gã người Nga lắc đầu. “Hắn rất giỏi... và rất trung thành với thanh kiếm và lá chắn, cái kiểu cách mà bọn KGB ác ôn thích tự xưng danh. Không cần phải nói,” Orlov nói thêm, “hắn đã phản bội tôi. Hắn gửi cho Điện Kremlin hàng đống tài liệu nội bộ... những tài liệu mà sau đấy các công tố viên nhà nước đã sử dụng để bịa ra một vụ án chống lại tôi. Và khi tôi trốn ra khỏi đất nước, Lazarev đã điều hành Ruzoil như thể đấy là tài sản riêng của hắn.”

“Hắn đã hất cẳng ông luôn hay sao?”

“Hoàn toàn.”

“Và khi ông đồng ý từ bỏ Ruzoil để đưa chúng tôi ra khỏi nước Nga thì sao?”

“Khi ấy Lazarev đã đi mất rồi. Hắn điều hành một công ty dầu lửa quốc doanh mới. Rõ ràng Tổng thống Nga đã đích thân chọn tên cho doanh nghiệp này. Ông ta gọi nó là Công ty Dầu khí Volgatek. Có một chuyện cười lan truyền quanh Điện Kremlin hồi ấy, bảo rằng Tổng thống định gọi nó là Công ty Dầu khí KGB nhưng lại nghĩ tên ấy sẽ không có tác dụng tốt ở phương Tây.”

Volgatek, chủ nhà nói tóm tắt, chẳng phải đóng vai trò gì trong ngành sản xuất dầu lửa nội địa Nga, vốn đã phát triển đến một mức độ ổn định rồi. Thay vào đó, mục tiêu duy nhất của nó là mở rộng lợi ích của ngành dầu khí Nga ra quốc tế, như thế sẽ tăng cường quyền lực và ảnh hưởng toàn cầu của Điện Kremlin. Được Điện Kremlin tài trợ, Volgatek cứ tiếp tục mua sắm thả cửa ở châu Âu, tậu một loạt các nhà máy lọc dầu ở Ba Lan, Lithuania và Hungari. Sau đó bất chấp sự phản đối của Mỹ, nó đã ký một hợp đồng khoan dầu sinh nhiều lợi nhuận với Cộng hòa Hồi giáo Iran. Nó còn ký giao ước phát triển kinh doanh với các nước Cuba, Venezuela và Syria.

“Ông có thấy một kiểu mẫu ở đây hay không?” Orlov hỏi.

“Các giao dịch của Volgatek hết thảy đều tiến hành ở các vùng đất của Liên bang Xô Viết cũ hay các nước thù địch với Mỹ.”

“Chính xác,” Orlov nói.

Nhưng y còn nói thêm rằng Volgatek vẫn chưa hài lòng khi dừng lại ở đó. Nó mở rộng hoạt động của mình vào Tây Âu, ký các giao ước về lọc dầu và phân phối ở Hy Lạp, Đan Mạch và Hà Lan. Sau đó nó lại hướng tầm nhìn vào Bắc Hải, ở đó nó muốn khoan hai mỏ dầu mới phát hiện ở bên ngoài các hòn đảo phía Tây Scotland. Các nhà địa chất của Volgatek ước tính sản lượng cuối cùng sẽ lên tới một trăm ngàn thùng mỗi ngày, với một phần lợi nhuận to lớn sẽ chảy thẳng vào két sắt của Điện Kremlin. Công ty đã xin Bộ Năng lượng và Biến đổi Khí hậu Anh một giấy phép, và sau đó Bộ trưởng Năng lượng đã mời Viktor Orlov ghé qua văn phòng của ông ta để bàn chuyện phiếm.

“Và ông nghĩ tôi đã nói gì với ông ấy?”

“Nói Volgatek là một công ty phụ thuộc hoàn toàn vì thuộc quyền sở hữu của Điện Kremlin, điều hành bởi một cựu nhân viên KGB.”

“Và ông nghĩ Bộ trưởng Năng lượng đã làm gì với lá đơn của Volgatek xin khoan dầu trong lãnh hải của Đảo quốc Anh?”

“Ông ấy đã bỏ nó vào máy hủy tài liệu của mình.”

“Ngay trước mắt tôi,” y mỉm cười nói thêm. “Đấy là một âm thanh nghe thật hết sức vừa lòng thỏa dạ.”

“Điện Kremlin có biết ông là người đã ngấm ngầm phá hoại giao dịch ấy không?”

“Theo chỗ tôi được biết thì không,” Orlov đáp. “Nhưng tôi chắc chắn Lazarev và Tổng thống Nga đã nghi ngờ tôi có liên can thế nào đấy. Lúc nào họ cũng sẵn sàng tin điều tồi tệ nhất về tôi.”

“Kế tiếp đã xảy ra chuyện gì?”

“Volgatek đã chờ đợi một năm. Sau đấy nó đã nộp một lá đơn thứ nhì để xin phép khoan dầu. Nhưng lần này sự việc có khác. Họ có một người bạn bên trong Phố Downing, một người họ đã mất cả năm trời để nuôi dưỡng tình cảm.”

“Ai vậy?”

“Tôi không nên nói ra.”

“Tốt lắm,” Gabriel phản ứng lại. “Vậy tôi sẽ nói giùm ông. Người của Volgatek bên trong Phố Downing chính là Jeremy Fallon, trưởng ban tham mưu nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Vương quốc Anh.”

Orlov mỉm cười. “Có lẽ sau tất cả chúng ta nên uống một chai Pétrus.”

Họ đã bơi thuyền vào vùng nước xoáy nguy hiểm. Gabriel biết điều đó, và Orlov chắc chắn cũng biết, vì con mắt trái của y cứ giật giật theo một nhịp điệu giận dữ. Lúc còn nhỏ cái tật máy mắt đã khiến y trở thành mục tiêu để kẻ khác chọc ghẹo và bắt nạt thật tàn nhẫn. Nó đã khiến y sôi sục căm thù, và mối căm thù ấy đã đẩy y tới thành công. Viktor Orlov muốn đánh mọi người. Và tất cả chỉ vì y bị máy mắt trái.

Bây giờ đây con mắt ấy đang nhìn chằm chặp vào một cái ly có chân đầy rượu vang Pomerol màu đỏ thẫm. Y vẫn chưa uống, cũng chưa trả lời câu hỏi khá thẳng thừng mà khách vừa đặt ra trước đó ít lâu. Tại sao lại là Jeremy Fallon?

“Sao không thể là Fallon chứ?” Cuối cùng gã người Nga nói. “Ông ấy là bạn của Thủ tướng cơ mà. Ông ta là chủ của một con rối. Fallon giật một sợi dây, và Lancaster liền vẫy tay. Và còn tốt hơn thế, ông ta có nhược điểm rất dễ tiếp cận.”

“Sao lại như vậy?”

“Ông ta còn không có nổi một cái bô để tè vào trong đấy. Ông ta nghèo xơ nghèo xác.”

“Kẻ nào đã đề nghị nhắm vào ông ta chứ?”

“Tôi được bảo cho biết đề nghị ấy đến từ rezidentura của SVR ở London này.”

Rezidentura là từ mà cục SVR dùng để mô tả các điệp vụ của mình bên trong các tòa đại sứ sở tại. Rezident là trưởng trạm, còn rezidentura chính là trạm liên lạc của chúng. Đó là một trạm lưu nhiệm từ thời KGB. Hầu hết những gì liên quan đến SVR đều vẫn như cũ.

“Họ đã giải quyết việc đó ra sao?”

“Lazarev và Fallon bắt đầu tình cờ đụng phải nhau ở tất cả những nơi không đúng: các tiệc tùng, quán xá, các hội nghị, nơi nghỉ lễ. Nghe đồn Fallon đã qua một kỳ nghỉ cuối tuần dài ngày tại các cơ ngơi của Lazarev ở Gstaad và du ngoạn các đảo của Hy Lạp trên du thuyền của Lazarev. Nghe nói họ nổi tiếng rất ăn cánh với nhau, nhưng điều ấy chẳng đáng ngạc nhiên. Gennady có thể là một tên khốn dễ thương, khi hắn muốn thế.”

“Nhưng còn có nhiều chuyện nữa, chứ không chỉ là chuyện tấn công bằng sức quyến rũ, phải vậy không Viktor?”

“Nhiều hơn thế nữa.”

“Là bao nhiêu?”

“Năm triệu euro trong một tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ, món quà ưu ái của Điện Kremlin. Rất sạch sẽ. Hoàn toàn không thể tìm ra dấu vết. Cục SVR lo thu xếp tất cả.”

“Là ai vậy?”

“Là tôi không nên nói ra.”

“Xem nào, Viktor.”

“Hiển nhiên ông có nguồn tin của mình, ông Allon ạ, và tôi cũng có.”

“Ít ra hãy cho tôi biết thông tin của ông tới từ phương nào.”

“Đến từ phương Đông,” y muốn nói là đến từ một trong nhiều nguồn cung cấp thông tin của y ở Moscow.

“Nói tiếp đi.”

Gã người Nga uống rượu trước. Sau đó, y giải thích Volgatek đã nộp đơn xin giấy phép khoan dầu ở Bắc Hải như thế nào, lần này được người có quyền thế thứ nhì ở Whitehall chống lưng cho. Nhưng Thủ tướng vẫn còn phân vân chưa rõ làm thế nào là tốt nhất, còn Bộ trưởng Năng lượng thì vẫn cực lực phản đối. Fallon thuyết phục bộ trưởng đừng bác đơn ngay lập tức. Và về kỹ thuật nó vẫn còn đó, nhưng có cũng như không.

“Rồi sau đấy,” Orlov giơ một cánh tay lên trần nhà, Bộ trưởng Năng lượng thình lình đồng ý cấp giấy phép, và Jonathan Lancaster bay luôn đến Moscow để nâng những chén rượu champagne chúc mừng trong Điện Kremlin, và người chấp nhận năm triệu euro bằng tiền Nga sắp sửa trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính kế nhiệm.”

“Tôi muốn biết nguồn tin của ông về năm triệu.”

“Cứ hỏi và tự trả lời,” gã người Nga đáp cộc lốc.

Gabriel đổi đề tài. “Quan hệ giữa Volgatek và doanh nghiệp của ông ở London đang trong tình trạng ra sao?”

“Như ông có thể mong đợi, chúng tôi đang trong tình trạng chiến tranh. Gần như một cuộc chiến tranh Lạnh... không tuyên chiến nhưng tồi tệ.”

“Sao lại như vậy?”

“Lazarev đã đạt được nhiều thứ hơn hẳn tôi. Thật dễ dàng với hắn,” y bực tức nói thêm. “Hắn không chơi đùa với tiền của riêng mình. Còn vô cùng thích thú khi thuê người giỏi nhất của tôi nữa. Hắn ném cả đống tiền vào bọn chúng - dĩ nhiên là tiền của Điện Kremlin và bọn chúng ngốn lấy ngốn để một đồng có xanh tươi hơn.”

“Các ông có thỏa thuận miệng nào không?”

“Tôi chẳng thèm đi xa đến thế đâu. Lúc gặp mặt nhau ở nơi công cộng, chúng tôi gật đầu chào theo phép lịch sự và trao đổi những nụ cười lạnh nhạt. Cuộc chiến của bọn tôi hoàn toàn tiến hành trong bóng tối. Thú thật Gennady gần đây đã chiếm ưu thế hơn tôi. Và bây giờ hắn sắp khoan dầu ở vùng biển của một đất nước mà tôi đã đem lòng yêu mến. Điều ấy khiến tôi đau như cắt từng khúc ruột.”

“Như vậy có lẽ ông nên làm gì đó về chuyện ấy.”

“Như cái gì?”

“Giúp tôi làm sáng tỏ giao dịch ấy đi.”

Orlov thôi không xoay vòng vòng cặp mắt kính của y nữa mà chằm chặp nhìn thẳng vào mặt Gabriel trong phút chốc, chẳng nói chẳng rằng. “Ông quan tâm điều gì trong vấn đề này chứ?” sau cùng y hỏi.

“Hoàn toàn vì lý do cá nhân thôi.”

Sao một người như ông đây lại quan tâm đến chuyện một công ty năng lượng Nga có đạt được quyền khai thác mỏ dầu Bắc Hải hay không vậy?”

“Chuyện rất phức tạp.”

“Nếu đến từ ông, tôi không trông mong điều gì kém phức tạp hơn.”

Bất giác Gabriel mỉm cười. Rồi ông khẽ nói, “Tôi tin Điện Kremlin đã tống tiền Jonathan Lancaster để cho Volgatek được quyền khoan dầu.”

“Bằng cách nào?”

Gabriel im lặng.

“Tôi đã từ bỏ một công ty đáng giá mười sáu tỷ đô la để đưa ông và bà nhà ra khỏi nước Nga. Tôi tin điều ấy cho tôi có quyền nhận được một câu trả lời. Họ đã làm việc ấy thế nào?”

“Bằng cách bắt cóc nhân tình của Lancaster từ đảo Corse.”

Orlov không hề nhấp nháy một con mắt nào. “À,” y lại nói, “cuối cùng đã có người để ý.”

Hai người trò chuyện cho tới khi những cửa sổ trong văn phòng tráng lệ của Viktor Orlov đổi màu đen tối, rồi họ bàn thêm một lát nữa. Vào cuối cuộc đàm thoại, Gabriel cảm thấy chắc chắn mình đã hiểu rõ môn thể thao trên sườn đồi đó đã được chơi như thế nào, nhưng chính xác những người chơi đã chia phe ra sao vẫn nằm ngoài tầm nắm bắt của ông. Tuy vậy ông chắc chắn một điều: đã tới lúc phải nói với Graham Seymour đôi điều thầm kín. Ông gọi cho ông ta từ một điện thoại công cộng ở Quảng trường Sloane và thú nhận mình lại một lần nữa vào đất nước này mà không ký vào sổ đăng ký khách mời trước tiên. Sau đó, Gabriel yêu cầu một cuộc gặp mặt. Seymour đọc thời gian và địa điểm, rồi cúp máy không nói thêm một lời nào. Gabriel gác ống nghe rồi bắt đầu cất bước, có Christopher Keller lo việc phát hiện bọn theo dõi cách hơn 90 mét ở đằng sau.