Chương 38 HAMPSTEAD HEATH, LONDON
HỌ ĐI BỘ tới góc Công viên Hyde, lên một chiếc xe lửa trên tuyến Piccadilly đến Quảng trường Leicester, rồi sau đó đi một chuyến tàu chậm chạy rất lâu trên Tuyến đường Phía Bắc tới tận Hampstead. Keller vào một quán café nhỏ ở Phố chính* và đợi ở đó trong khi Gabriel đi một mình ngược Đường South End. Ông vào bãi hoang ở Pryors Field, men theo bờ các ao nước của Hampstead Ponds, và sau đó leo lên triền dốc thoai thoải của Đồi Nghị viện (Parliament Hill). Xa xa, tầng mây thấp và sương mù che phủ, rực sáng những ánh đèn của Khu Trung tâm London. Graham Seymour đang ngắm cảnh từ một băng ghế gỗ của công viên. Ông chỉ có một mình ngoại trừ một đôi nhân viên an ninh mặc áo mưa đứng im như hai quân cờ vua dọc theo lối đi nhỏ dành cho người đi bộ ở sau lưng ông ta. Họ ngoảnh mặt đi khi Gabriel lướt nhanh qua, không nói một lời nào, rồi ngồi xuống bên cạnh Seymour, chẳng có dấu hiệu nào chứng tỏ ông MI5 này đã nhận thấy Gabriel đang có mặt. Một lần nữa ông ta đang hút thuốc.
Nguyên bản “High Street”: là một ẩn dụ cho khái niệm về phố kinh doanh chính của các thị trấn hoặc thành phố, đặc biệt là ở Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung.
“Ông phải ngừng hút thôi,” Gabriel nói.
“Và thực sự anh nên cho tôi biết đã trở về đất nước này. Lẽ ra tôi phải sắp xếp một ban đón tiếp.”
“Tôi không muốn một ban đón tiếp đâu.”
“Hẳn là thế rồi.” Ông ta vẫn đang ngắm nhìn những ánh đèn của trung tâm London. “Anh đến nơi bao lâu rồi?”
“Tôi đã tới chiều hôm qua.”
“Để làm gì?”
“Vì một vụ việc chưa kết thúc.”
“Để làm gì chứ?” ông ta hỏi lại.
“Madeline,” Gabriel đáp. “Tôi tới đây vì Madeline.”
Seymour quay đầu lại ngó Gabriel lần đầu tiên. “Madeline đã chết rồi cơ mà,” ông nói chậm rãi.
“Phải, Graham à, tôi biết. Tôi đã ở đó.”
“Xin lỗi,” một lát sau ông ta nói. “Lẽ ra tôi không nên...”
“Quên chuyện đó đi, Graham à.”
Hai người đàn ông nín lặng, không được thoải mái. Đó là tính chất của vụ án không may mắn này, Gabriel thầm nghĩ. Cả hai đều gia nhập ngành tình báo để bảo vệ đất nước và đồng bào của mình, chứ không phải các chính trị gia.
“Chắc hẳn anh đã phát hiện điều quan trọng gì đấy,” cuối cùng Seymour nói, “bằng không anh đã không gọi điện cho tôi.”
“Ông vẫn luôn tài giỏi, Graham à.”
“Không đủ tài giỏi để giữ không cho anh vào nước tôi bất cứ lúc nào anh thích.”
Gabriel im lặng.
“Anh đã nắm được điều gì?”
“Tôi tin mình biết ai đã bắt cóc Madeline Hart. Quan trọng hơn nữa,” Gabriel nói thêm, “tôi tin mình biết tại sao cô ta lại bị bắt cóc.”
“Ai thế?”
“Công ty Dầu khí KGB,” Gabriel đáp.
Đầu Seymour quay ngoắt lại. “Anh nói cái gì thế?”
“Đó là hành vi ám muội của Volgatek, Graham à. Chúng bắt cóc Madeline để bọn Nga có thể trộm cắp dầu lửa của các ông đó.”
Chẳng có cảm giác nào tệ hại hơn với một điệp viên chuyên nghiệp khi được một sĩ quan từ một cục tình báo khác nói cho biết một điều đáng lẽ chính mình phải biết rồi. Graham Seymour chịu đựng điều sỉ nhục này một cách lịch sự thanh nhã hết mức, cằm hất lên và đầu ngẩng cao. Rồi sau khi đã cân nhắc kỹ các hậu quả, ông ta yêu cầu một lời giải thích. Gabriel bắt đầu kể cho ông nghe mọi điều mình biết về Jeremy Fallon. Fallon đã phải lòng Madeline Hart. Fallon không còn được hoan nghênh ở Phố Downing nữa và đáng bị đẩy ra trước khi cuộc bầu cử kế tiếp được diễn ra. Fallon đã chấp nhận một khoản tiền chi trả bí mật tới năm triệu euro từ một gã tên là Gennady Lazarev rồi dùng quyền lực của mình để thúc đẩy đến ký kết hợp đồng ấy vượt qua sự phản đối của Bộ trưởng Năng lượng. Sau chót, Gabriel kể cho ông ta nghe chuyện ả đàn bà nói tiếng Nga mà mình đã gặp lần đầu trong một nhà thờ cổ ở vùng núi Lubéron và sau đó trong một căn nhà hội đồng bỏ không ở thị trấn Basildon.
“Ai là nguồn cung cấp thông tin về Jeremy Fallon và năm triệu?” Seymour hỏi.
“Tôi muốn yêu cầu một vùng bảo mật về người đó, nếu ông không phiền.”
“Chắc chắn rồi, nhưng ai là nguồn cung cấp thông tin chứ?”
Gabriel trả lời thành thật, ông ta lắc đầu chầm chậm.
“Chẳng có khả năng Viktor Orlov đã nói sự thật. Hắn luôn cung cấp cho MI6 những cái gọi là tin tình báo vụn vặt về nước Nga, và chẳng bao giờ có cái nào đạt kết quả cả.”
“Chiara và tôi hẳn không còn sống sót, nếu không nhờ Viktor Orlov cứu giúp,” Gabriel phản ứng lại.
“Như thế không có nghĩa mọi điều hắn nói đều là sự thật.”
“Y biết rõ mặt ngầm bên dưới của nền công nghiệp dầu lửa Nga hơn bất kỳ ai trên thế giới.”
Seymour không phủ nhận lời khẳng định này. “Và anh chắc chắn về người đàn ông và đàn bà đã lái chiếc Mercedes đi mất chứ?” ông ta hỏi. “Anh chắc chắn họ cũng là những kẻ đã theo dõi anh ở phòng tranh chứ?”
“Graham à,” Gabriel nói một cách chán chường.
“Tất cả chúng ta thỉnh thoảng vẫn phạm sai lầm.”
“Một số trong chúng ta mắc lỗi thường xuyên hơn những người khác.”
Seymour tức giận ném điếu thuốc của mình vào bóng tối. “Sao đến bây giờ tôi mới nghe chuyện này? Sao anh không gọi cho tôi đêm hôm qua, khi vẫn còn canh chừng được bọn chúng?”
“Và hẳn ông đã làm gì? Ông có báo động cho trưởng phân cục phản gián Nga của các ông hay không? Ông có báo tin cho Giám đốc của mình không?” Gabriel im lặng một lát. “Nếu tôi tới gặp ông đêm hôm qua, hẳn sẽ khởi động một chuỗi sự kiện dẫn tới hủy hoại Jonathan Lancaster và chính phủ của ông ta.”
“Thế sao bây giờ anh lại đến gặp tôi?”
Gabriel không đáp lại. Seymour bắt đầu châm một điếu thuốc nữa rồi tự ghìm mình lại.
“Thật khá oái oăm, anh không nghĩ thế sao?”
“Là cái gì vậy?”
“Tôi đã nhờ anh tìm hộ Madeline Hart vì cố bảo vệ Thủ tướng của mình tránh khỏi vụ bê bối. Và bây giờ anh lại mang đến cho tôi một thông tin sẽ hủy hoại ông ấy”
“Đó không phải là ý định của tôi.”
“Anh chẳng thể chứng tỏ một lời nào về chuyện ấy, anh biết đây. Chẳng một lời nào cả.”
“Tôi nhận thấy điều đó.”
Seymour thở ra thật nặng nề. “Tôi là Phó Giám đốc cơ quan An ninh của Nữ hoàng Bệ hạ,” ông ta nói với chính mình hơn là nói với Gabriel. “Các Phó Giám đốc của MI5 không hạ bệ chính phủ Vương quốc Anh. Họ bảo vệ chính phủ tránh khỏi thù trong giặc ngoài.”
“Nhưng nếu chính phủ dơ bẩn thì sao?”
“Chính phủ nào không như thế chứ?” ông ta hỏi lại thật nhanh.
Gabriel không trả lời. Ông chẳng có tâm trạng nào để sa vào một cuộc tranh luận chỉ có ý nghĩa tương đối về đạo đức trong chính giới.
“Còn nếu tôi khiến anh bỏ đi và quên luôn chuyện này thì sao?” Seymour hỏi. “Anh sẽ làm gì?”
“Tôi sẽ tuân theo mong muốn của ông và trở về nhà ở Jerusalem.”
“Rồi làm gì nữa?”
“Dường như Shamron đã sắp đặt sẵn cho tôi rồi.”
“Anh không muốn nói với tôi chuyện gì sao?”
“Chưa đâu.”
Rõ ràng Seymour bị khơi gợi tính hiếu kỳ nhưng bây giờ đã để nó rơi mất rồi. “Và anh nghĩ gì về tôi?” một lát sau ông ta hỏi.
“Tôi nghĩ sao có là vấn đề gì đâu chứ?”
“Là vấn đề với tôi đấy,” ông ta nói thật nghiêm chỉnh.
Gabriel lộ vẻ đăm chiêu suy nghĩ. “Tôi nghĩ ông sẽ dành cả quãng đời còn lại để tự hỏi SVR sẽ làm gì với toàn bộ số tiền chúng bòn rút được từ Bắc Hải. Và tôi nghĩ ông sẽ cảm thấy tội lỗi vì đã không làm gì hết để ngăn chặn điều đó.”
Seymour không đáp lại.
“Chúng tôi có một câu châm ngôn trong cơ quan của mình, Graham à. Chúng tôi tin một sự nghiệp không có vụ bê bối nào xảy ra thì hoàn toàn không phải là một sự nghiệp đúng nghĩa.”
“Chúng tôi là người Anh cơ mà,” ông ta đáp. “Chúng tôi không có châm ngôn nào cả, và cũng chẳng thích bất kỳ vụ bê bối nào xảy ra. Quả thật chúng tôi luôn sống trong nỗi lo sợ phạm phải sai lầm ngay cả một lỗi lầm nhẹ nhất.”
“Chính vì vậy ông mới cần có tôi.”
Seymour nhìn Gabriel thật nghiêm trang trong chốc lát. “Chính xác là anh có gợi ý gì thế?”
“Hãy để tôi đi chiến đấu chống lại Volgatek thay mặt cho các ông. Tôi sẽ tìm bằng chứng chúng trộm dầu của các ông.”
“Rồi sau đấy thì sao?”
“Tôi sẽ trộm lại.”
Gabriel và Graham Seymour dùng ba mươi phút kế tiếp để thảo luận thật kỹ lưỡng các chi tiết của một thỏa ước tác chiến có lẽ không chính thống nhất chưa từng đạt được giữa hai cục tình báo đôi khi liên minh với nhau. Về sau nó được biết đến với cái tên thỏa ước Đồi Nghị viện, tuy có một số người trong nội bộ tình báo Anh nhắc đến nó như là thỏa ước Đồi Diều hâu (Kite Hill), là một cái tên khác của ngọn đồi nhỏ ở cực Nam Hampstead Heath. Theo các điều khoản giao ước, Seymour cho Gabriel được phép hoạt động trên đất của Vương quốc Anh khi ông thấy thích hợp, miễn là không có bạo động và không có đe dọa đối với nền an ninh quốc gia Anh. Về phần mình, Gabriel cam kết bất cứ tin tình báo nào phát sinh từ điệp vụ sẽ được chuyển giao cho Seymour, rằng Seymour và chỉ một mình Seymour sẽ quyết định sử dụng nó như thế nào. Giao dịch được chứng thực bằng một cái bắt tay. Sau đó Seymour ra đi, hai cận vệ của ông ta lần bước theo sau.
Gabriel vẫn còn lưu lại trong Hampstead Heath mười phút nữa rồi mới đi bộ trở lại Phố chính Hampstead để gặp lại Keller. Họ cùng đi tàu điện ngầm đến Kensington rồi sau đó cuốc bộ tới Đại Sứ quán Israel. Trạm liên lạc của Văn phòng vắng vẻ, ngoại trừ một viên chức cấp thấp bật dậy đứng nghiêm khi điệp viên huyền thoại bước qua ngưỡng cửa không thông báo trước. Gabriel để Keller ngồi trong phòng đợi bên ngoài rồi đi vào phòng thiết bị liên lạc an toàn, mà một điệp viên kỳ cựu của Văn phòng như ông thường nhắc đến như là nơi Cực Thánh, số điện thoại nhà của Shamron ở Tiberias vẫn còn lưu trong danh bạ liên lạc khẩn cấp. Ông ta đáp máy sau tiếng reng đầu tiên, như thể đã ngồi sẵn bên điện thoại.
Mặc dù cuộc gọi đã được bảo đảm an toàn về mặt kỹ thuật, hai người vẫn nói chuyện bằng đặc ngữ ngắn gọn của Văn phòng, một ngôn ngữ mà chưa bao giờ có dịch giả hay siêu máy tính nào giải mã nổi. Gabriel giải thích thật nhanh những điều đã phát hiện, những việc định làm kế tiếp và những gì ông yêu cầu để tiến hành mọi việc. Các nguồn cung cấp cho một điệp vụ như thế không phải là việc của Shamron. Ông cũng chẳng còn thẩm quyền trong cơ quan để xét duyệt, chỉ Uzi Navot mới có quyền đề xuất một kế hoạch như thế - và chỉ được tiến hành với sự chấp thuận của Thủ tướng.
Và vì thế việc chuẩn bị căn bản thật hết sức khó khăn, điều này được đề cập đến trong các tài liệu ghi chép như là một trong những chuyện tồi tệ nhất trong lịch sử của Văn phòng. Nó bắt đầu lúc 10:18 đêm, giờ Israel, khi Shamron gọi điện tới nhà Navot và cho ông ta biết Gabriel dự định đi chiến đấu chống lại Công ty Dầu khí KGB, và Shamron muốn điệp vụ ấy được tiến hành. Navot nói rõ một dự tính như thế không có trong lịch trình làm việc. Không phải lúc đó. Không bao giờ. Shamron gác máy chẳng nói thêm một lời nào, rồi gọi cho Thủ tướng trước khi Navot có cơ hội gọi trước để ngăn chặn mình.
“Sao tôi lại phải khai chiến với Tổng thống Nga chứ?” Thủ tướng nói. “Chỉ là dầu lửa thôi, Trời ạ.”
“Không phải chỉ là vấn đề dầu lửa, cũng chẳng phải vì Gabriel đâu ạ. Ngoài ra,”
Mặc dù cuộc gọi đã được bảo đảm an toàn về mặt kỹ thuật, hai người vẫn nói chuyện bằng đặc ngữ ngắn gọn của Văn phòng, một ngôn ngữ mà chưa bao giờ có dịch giả hay siêu máy tính nào giải mã nổi. Gabriel giải thích thật nhanh những điều đã phát hiện, những việc định làm kế tiếp và những gì ông yêu cầu để tiến hành mọi việc. Các nguồn cung cấp cho một điệp vụ như thế không phải là việc của Shamron. Ông cũng chẳng còn thẩm quyền trong cơ quan để xét duyệt, chỉ Uzi Navot mới có quyền đề xuất một kế hoạch như thế - và chỉ được tiến hành với sự chấp thuận của Thủ tướng.
Và vì thế việc chuẩn bị căn bản thật hết sức khó khăn, điều này được đề cập đến trong các tài liệu ghi chép như là một trong những chuyện tồi tệ nhất trong lịch sử của Văn phòng. Nó bắt đầu lúc 10:18 đêm, giờ Israel, khi Shamron gọi điện tới nhà Navot và cho ông ta biết Gabriel dự định đi chiến đấu chống lại Công ty Dầu khí KGB, và Shamron muốn điệp vụ ấy được tiến hành. Navot nói rõ một dự tính như thế không có trong lịch trình làm việc. Không phải lúc đó. Không bao giờ. Shamron gác máy chẳng nói thêm một lời nào, rồi gọi cho Thủ tướng trước khi Navot có cơ hội gọi trước để ngăn chặn mình.
“Sao tôi lại phải khai chiến với Tổng thống Nga chứ?” Thủ tướng nói. “Chỉ là dầu lửa thôi, Trời ạ.”
“Không phải chỉ là vấn đề dầu lửa, cũng chẳng phải vì Gabriel đâu ạ. Ngoài ra,” Shamron nói thêm, “ông có muốn anh ta làm người quản lý kế nhiệm hay không?”
“Ông biết tôi cần anh ta mà, Ari.”
“Vậy chúng ta hãy để cho anh ta giải quyết một mối thù xưa với bọn Nga,” Shamron nói, “rồi anh ta sẽ là người của ông.”
“Ai sẽ nói với Uzi?”
“Tôi nghi ngờ anh ta sẽ không nhận cuộc gọi của tôi.” Và thế là chính Thủ tướng Israel hành động theo lời thỉnh cầu của Ari Shamron. Ông đã gọi cho sếp của Vụ tình báo nước ngoài và ra lệnh cho ông ta chấp thuận một điệp vụ mà sếp đó không muốn dự phần. Các nhân chứng về sau chứng thực sự kiện cho biết giọng nói các bên đã cất cao, và có tin đồn Navot đã đe dọa từ chức. Nhưng đó chỉ là tin đồn, vì Navot rất thích làm sếp cũng gần như Shamron trước đó. Trong một dấu hiệu báo trước những việc sẽ xảy ra, Navot từ chối gọi điện cho Gabriel ở London để đích thân thông báo mà giao việc đó lại cho một sĩ quan văn phòng cấp dưới làm thay. Gabriel nhận được đặc quyền điệp vụ chính thức một thời gian ngắn sau nửa đêm giờ London, trong một cuộc gọi điện kéo dài chưa đầy mười giây. Sau khi gác máy, ông cùng Keller rời khỏi tòa đại sứ và đi qua những đường phố tĩnh lặng của London về phía Đại Khách sạn Berkshire.
“Còn tôi thì sao? Keller hỏi. “Tôi ở lại, hay lên chuyến bay kế tiếp về đảo Corse?”
“Tùy anh.”
“Chắc tôi sẽ ở lại.”
“Anh sẽ không thất vọng đâu.”
“Tôi không biết nói tiếng Do Thái.”
“Như vậy cũng tốt.”
“Vì sao?”
“Vì chúng tôi có thể đùa cợt với anh mà anh không bao giờ biết được.”
“Ông sẽ sử dụng tôi thế nào?”
“Anh nói tiếng Pháp y như người Pháp, anh có rất nhiều hộ chiếu sạch sẽ và bắn súng khá giỏi. Tôi chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ tới một điều gì đó.”
“Tôi có thể cho ông một lời khuyên hay không?”
“Chỉ một thôi đó.”
“Ông sẽ cần đến một người Nga đấy.”
“Đừng lo,” Gabriel nói. “Tôi đã có một người rồi.”