← Quay lại trang sách

Chương 39 LÀNG GRAYSWOOD, HẠT SURREY

NGÔI NHÀ CỔ thời Tudor được mở rộng đứng sừng sững cách một dặm đường từ nhà thờ Giáo khu Grayswood cổ kính, ở ven Knobby Copse. Con đường dành cho xe hơi trải ván sồi bị lún dẫn vào ngôi nhà đó, những lớp hàng rào dày đặc che kín không thể nhìn thấy nó. Có một khu vườn um tùm để trầm tư mặc tưởng, một nghĩa trang tư nhân để vật lộn với những con quỷ và một cái ao dự trữ nhiều năm chẳng hề đánh bắt cá. Bầy cá để làm thức ăn quậy tung mặt ao đen ngòm giờ đây đã to bằng lũ cá mập. Bộ phận Quản lý Nhà của Văn phòng có nhiệm vụ tậu và duy trì các cơ ngơi an toàn gọi nó là hồ Loch Ness.

Gabriel và Keller đến cơ ngơi đó ít lâu sau giữa trưa ngày hôm sau trong một chiếc Land Rover bốn bánh được Bộ phận Vận tải cung cấp. Đằng sau xe có hai cái sọt inox đựng thiết bị thông tin liên lạc bảo mật lấy từ phòng an toàn của tòa đại sứ, cùng với rất nhiều túi hàng tạp hóa và thực phẩm phụ mua từ siêu thị Sainsbury ở Guildford. Sau khi chất thức ăn vào tủ, họ kéo hết tấm vải phủ khỏi các bàn ghế giường tủ, thổi hết các mạng nhện khỏi các mái hiên và sục sạo cả ngôi nhà cổ từ đầu này tới đầu nọ để tìm xem có thiết bị nghe lén hay không. Sau đó họ ra vườn và ngồi bên bờ ao cá. Những vây lưng cá vạch những đường rạch trên mặt nước đen ngòm.

“Bọn chúng đang chơi đùa đấy,” Keller nói.

“Không đâu,” Gabriel nói.

“Bọn chúng ăn gì thế?”

“Chúng đã ngấu nghiến một trong những sĩ quan giỏi nhất của tôi khi chúng tôi tới đây lần trước.”

“Có thiết bị chuyên dùng không?”

“Ở trong sảnh tiền phòng đó.”

Keller đi vào bên trong và tìm thấy một đôi cần câu dựng ở góc phòng, bên cạnh một mái chèo cũ mèm đã bể nát. Trong khi lục tìm một miếng mồi câu, y chợt nghe có tiếng khục không rõ, như tiếng gãy đổ của một cành cây lớn. Bước ra ngoài y ngửi thấy mùi thuốc súng không lẫn vào đâu được trong không khí. Sau đó y thoáng thấy Gabriel ngược lối mòn của khu vườn, một tay lăm lăm khẩu Beretta hãm thanh, còn tay kia thì cầm một con cá dài hơn 60 cm.

“Có vẻ gần như không có tinh thần thể thao nhỉ,” y nhận xét.

“Tôi đâu còn thời gian để chơi thể thao nữa,” Gabriel nói. “Tôi phải nghĩ ra cách có được một gián điệp bên trong một công ty dầu lửa Nga. Và tôi có nhiều cái miệng phải nuôi ăn.”

Xế chiều hôm ấy, khi những lớp hàng rào hòa lẫn dần vào bóng tối như bưng và không khí trở nên bức bối khó chịu vì giá lạnh, có một đoàn ba chiếc xe hơi tới ngôi nhà thời Tudor biệt lập ở ven Knobby Copse. Những chiếc xe có các hiệu và kiểu dáng khác nhau, cũng như chín đặc vụ từ trong đó leo ra, mệt đứ đừ sau cả một ngày lữ hành bí mật dài đằng đẵng. Bên trong các hành lang và phòng họp của Đại Lộ King Saul, các đặc vụ này được biết đến với cái tên Barak, tiếng Do Thái nghĩa là ánh chớp, vì họ có khả năng tập hợp và tấn công cực nhanh. Người Mỹ ghen tỵ vì đơn vị này đã hoàn thành một loạt điệp vụ không có đối thủ, họ thường được nhắc đến như là “đội quân của Thượng Đế.”

Chiara đi vào nhà trước tiên, theo sau là Rimona Stern và Dina Sarid. Vóc dáng nhỏ nhắn mảnh dẻ và tóc đen, Dina là nhà phân tích tâm lý bọn khủng bố hàng đầu của Văn phòng, nhưng cô sở hữu một óc phân tích xuất sắc khiến cô trở thành vốn quý trong bất cứ kiểu điệp vụ nào. Rimona là một phụ nữ Rubenesque tóc màu sa thạch, đã bắt đầu sự nghiệp của mình trong ngành tình báo quân đội nhưng bây giờ là một thành viên của đơn vị thuộc Văn phòng tập trung đặc biệt vào chương trình hạt nhân của Iran. Ngẫu nhiên cô cũng là cháu gái của Shamron. Thật vậy, ký ức trìu mến nhất của Gabriel về Rimona, đó là một đứa trẻ không biết sợ cưỡi trên một chiếc xe trượt đồ chơi của trẻ con, di chuyển không kiểm soát lao xuống lối mòn dốc vào ngôi nhà nổi tiếng của chú mình ở Tiberias.

Đến kế đó một cặp điệp vụ thực địa đa năng tên Oded và Mordecai, theo sau là Yaakov Rossman và Yossi Gavish.

Yaakov, dáng người rắn rỏi với mái tóc đen và gương mặt rỗ chằng chịt, là một nhân viên chuyên lo chạy việc tuyển mộ và duy trì các điệp viên Ả Rập. Yossi là một sĩ quan cao cấp từ Bộ phận Nghiên cứu, là bộ phận chuyên phân tích tình hình của Văn phòng. Sinh ra ở London và theo học tại Đại học Oxford, anh ta vẫn nói tiếng Do Thái lơ lớ giọng London.

Từ chiếc xe cuối cùng leo ra hai người đàn ông: một người đã ở cuối thời trung niên, còn người kia vẫn còn tuổi thanh xuân. Người lớn tuổi hơn chẳng phải ai khác mà chính là Eli Lavon: nhà khảo cổ có tiếng tăm, người săn lùng bọn tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã cùng với các của cải bị cướp bóc trong cuộc Đại Thảm sát, và là một chuyên viên kiệt xuất đã nâng công tác theo dõi giám sát lên hàng một bộ môn nghệ thuật. Như thường lệ ông ta mặc nhiều lớp áo quần không cân xứng với nhau. Mái tóc lưa thưa bất chấp mọi kiểu chải bới và đôi mắt màu nâu luôn đề cao cảnh giác y hệt loài chó nhỏ chuyên săn mồi dưới hang hốc. Đôi giày lười bằng da mượt như nhung không gây ra một âm thanh nào khi ông ta băng qua tiền sảnh sà vào trong vòng tay ấm áp của Gabriel. Hầu như Eli Lavon luôn làm mọi việc trong im lặng, Shamron có lần đã nói rằng người chuyên theo dõi huyền thoại của Văn phòng có thể biến mất khi đang bắt tay ta.

“Anh có chắc chắn mình đã sẵn sàng làm việc này chưa?” Gabriel hỏi.

“Tôi sẽ không bỏ lỡ vụ này vì cả thế giới. Ngoài ra,” Lavon nói thêm, “chỉ huy của anh đã nói ông ta sẽ không đi đâu gần bọn Nga nếu không có tôi canh chừng sau lưng ông ta.”

Gabriel nhìn cái dáng người cao lớn đứng ngay đằng sau hai vai nhỏ xíu của ông. Tên anh ta là Mikhail Abramov. Vừa ốm vừa cao lêu nghêu với khuôn mặt gầy gò mà thanh tú và một cặp mắt lạnh lùng băng giá, anh ta đã di tản tới Israel từ nước Nga lúc vẫn còn là một cậu choai choai và gia nhập Sayeret Matkal, đơn vị điệp vụ đặc biệt tinh nhuệ của IDF. Từng được Shamron mô tả là “Gabriel vô lương tâm”, Mikhail đã đích thân ám sát rất nhiều tên trùm khủng bố hàng đầu từ tổ chức Hamas và Thánh chiến Jihad của người Palestine theo đạo Hồi. Hiện nay anh ta đang tiến hành các sứ mạng tương tự thay mặt cho Văn phòng, mặc dù tài năng lớn lao của anh là hoàn toàn không bị giới hạn với súng đạn. Chính Mikhail đã cùng làm việc với một sĩ quan CIA tên là Sarah Bancroft thâm nhập vào đám tùy tùng quanh một gã tên là Ivan Kharkov, do đó đã nảy sinh một cuộc chiến dai dẳng đẫm máu giữa Văn phòng và đội quân tư nhân của Ivan. Nếu như Viktor Orlov không chịu giao nộp Ruzoil cho Điện Kremlin, Mikhail hẳn đã bỏ mạng ở nước Nga cùng với Gabriel và Chiara rồi. Thật vậy, trên xương cằm như gốm sứ của anh ta có một vết sẹo sâu hoắm do cú đấm như búa bổ của Ivan.

“Anh không cần phải làm việc này đâu,” giờ đây Gabriel sờ vết sẹo đó và nói. “Chúng tôi có thể tìm người khác.”

“Như là ai vậy?” Mikhail vừa hỏi vừa liếc mắt ngó quanh phòng.

“Yossi có thể làm được.”

“Yossi nói bốn thứ tiếng,” cậu ta nói, “nhưng tiếng Nga lại không có trong bốn ngôn ngữ ấy. Bọn chúng có thể đang nói về việc cắt cổ anh ta, nhưng anh ấy lại tưởng chúng gọi món thịt gà Kiev.”

Các thành viên của đội công tác huyền thoại của Gabriel đã lưu trú trong nhà này trước đó, nên cũng yên vị trong phòng mình với những chuyện cãi vã vặt vãnh trong lúc Chiara đi vào nhà bếp để nấu một bữa ăn đoàn tụ thịnh soạn. Món khai vị chính là con cá to tướng mà nàng nướng với rượu vang trắng và rau thơm. Gabriel đặt Keller ngồi bên phải mình trong bữa ăn tối, đối với những người khác là một dấu hiệu cố ý cho thấy ít nhất bây giờ đây, gã người Anh phải được đối xử như một thành viên trong gia đình. Lúc đầu, một số người khác không thoải mái vì sự hiện diện của y, nhưng dần dần rồi cũng có thiện cảm. Phần lớn họ vẫn nói tiếng Anh trong bữa ăn để tiện lợi cho y. Nhưng khi bàn luận về điệp vụ vừa qua của mình, họ lại chuyển sang nói tiếng Do Thái.

“Họ đang bàn chuyện gì thế?” Keller khẽ hỏi Gabriel.

“Một chương trình mới trên truyền hình Israel.”

“Ông có nói thật với tôi không đấy?”

“Không.”

Tâm trạng của họ có vẻ chán nản hơn thường lệ, vì cái bóng của Ivan treo lơ lửng trên đầu họ. Họ không nhắc đến tên hắn trong bữa ăn. Thay vào đó họ bàn về matsav, tức là tình hình. Yossi vốn đọc rất chuyên sâu về văn học cổ điển và lịch sử, hướng dẫn giúp họ. Anh ta nhìn thấy một thế giới đang biến chuyển rất nhanh và rất nguy hiểm, vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Những hứa hẹn của cuộc Thức tỉnh Ả Rập vĩ đại đã bị phô bày ra như những điều dối trá, anh ta nói, và chẳng bao lâu nữa sẽ có một vầng trăng lưỡi liềm Hồi giáo cấp tiến trải dài từ Bắc Phi tới Trung Á. Mỹ đã bị phá sản, mệt mỏi và không còn có khả năng lãnh đạo nữa. Có thể cục diện của thế giới mới đầy biến động này sẽ sản sinh một phe trục của thế kỷ hai mươi mốt do Trung Quốc, Iran và tất nhiên cả nước Nga lãnh đạo. Và đứng một mình, bị cả một biển kẻ thù vây hãm sẽ là Israel và Văn phòng.

Bàn tới đây họ dọn dẹp chén đĩa rồi trở ra phòng khách, ở đó Gabriel cuối cùng đã giải thích lý do tại sao lại đưa tất cả bọn họ tới nước Anh. Họ đã biết từng đoạn của chuyện ấy rồi. Giờ đây đứng trước mặt họ với một ngọn lửa ga bừng cháy sau lưng, Gabriel nhanh chóng hoàn tất bức tranh. Ông kể cho họ nghe mọi chuyện đã tiết lộ, bắt đầu từ cuộc lùng kiếm vô vọng Madeline Hart bên Pháp và kết thúc bằng cuộc giao dịch mà ông đã ký kết với Graham Seymour buổi tối hôm trước ở Hampstead Heath. Tuy nhiên, có một khía cạnh của vụ việc mà ông thuật lại các chi tiết không được liên tục. Đó là cuộc gặp mặt ngắn ngủi với cô gái người Anh trong những giờ phút trước khi cô chết. Ông đã hứa với cô sẽ đưa cô về nhà an toàn. Thất bại rồi nhưng ông vẫn có ý định giữ lời hứa ấy bằng cách phá hoại một điệp vụ Nga từ đầu tới cuối. Gabriel nói để hoàn thành việc đó, họ sẽ cài Mikhail vào Công ty Dầu khí KGB. Và sau đó họ sẽ tìm các chứng cứ Madeline Hart đã bị sát hại như một phần âm mưu của bọn Nga nhằm trộm cắp dầu lửa của Vương quốc Anh ở Bắc Hải.

“Bằng cách nào chứ?” Eli Lavon hỏi tỏ vẻ không tin tưởng khi Gabriel nói xong. “Nhân danh Thượng Đế xin hỏi làm cách nào để đưa Mikhail vào một công ty dầu lửa thuộc sở hữu của Điện Kremlin do tình báo Nga điều hành chứ?”

“Chúng ta sẽ tìm ra cách,” Gabriel đáp. “Chúng ta vẫn luôn làm như vậy mà.”

Công việc thực sự khởi động vào sáng hôm sau khi các thành viên trong đội của Gabriel bắt đầu bí mật điều tra về công ty năng lượng quốc doanh Nga gọi là Dầu khí Volgatek. Lúc khởi sự, phần lớn tư liệu của họ đến từ các nguồn công khai như các tạp chí kinh doanh, các bản tin báo chí và các bài viết có tính chất hàn lâm của các chuyên gia trong ngành công nghiệp dầu lửa Nga còn thô sơ và hỗn loạn. Ngoài ra Gabriel còn yêu cầu hỗ trợ từ Đơn vị 1400, cơ quan nghe trộm điện tử của Israel. Như mong đợi, Đơn vị đã phát hiện mạng vi tính và thông tin liên lạc của Volgatek đặt căn cứ tại Moscow được những tường lửa chất lượng cao của Nga bảo vệ - thật đáng chú ý, đó cũng là những tường lửa đủ dùng cho Điện Kremlin, giới quân sự Nga và SVR. Tuy nhiên vào cuối ngày, Đơn vị đã thâm nhập được vào hệ thống máy vi tính của một văn phòng dã chiến của Volgatek ở Gdansk, tại đó công ty sở hữu một nhà máy lọc dầu quan trọng sản xuất nhiều xăng dầu cho Ba Lan. Tư liệu được chuyển trực tiếp tới nhà an toàn ở hạt Surrey. Mikhail và Eli Lavon là hai thành viên duy nhất của đội nói tiếng Nga nên lo việc dịch thuật. Mikhail chê công tác tình báo như là một cái hố khô khan, nhưng Lavon lạc quan hơn. Ông bảo khi đặt chân vào Gdansk, họ sẽ biết được nhiều điều về cách thức Volgatek hoạt động tình báo bên ngoài biên giới của mẫu quốc Nga.

Theo bản năng, họ tiếp cận mục tiêu như thể đó là một tổ chức khủng bố. Và nhiệm vụ công tác đầu tiên khi đối đầu với một nhóm hay tổ chức cơ sở khủng bố, Dina nhắc nhở một cách không cần thiết, là nhận biết cơ cấu tổ chức và nhân sự chủ chốt. Cô bảo thật cám dỗ để ta cứ tập trung vào bọn ăn trên ngồi trốc, nhưng các nhân viên quản trị bậc trung, đám lính quèn, các giao liên, bồi bếp và tài xế rốt cuộc thường có giá trị hơn rất nhiều. Bọn họ là những kẻ bị làm ngơ, bị bỏ bê quên lãng. Họ mang nặng hận thù, nuôi trong lòng những mối căm phẫn và thường xuyên tiêu xài nhiều hơn tiền kiếm được. Điều này khiến họ trở thành mục tiêu để tuyển mộ dễ dàng hơn rất nhiều so với bọn vẫn bay đi trên máy bay tư nhân, nốc hàng xô rượu champagne và có cả một bầy gái điếm Nga ngoan ngoãn phục tùng, bất kể bọn chúng ở nơi nào trên thế giới.

Đứng đầu sơ đồ tổ chức này là Gennady Lazarev, trước đó là nhà khoa học hạt nhân Nga và mật báo viên của KGB từng làm đại diện cho Viktor Orlov ở Ruzoil. Kẻ được hắn tin tưởng ủy quyền cho là Dmitry Bershov, và đội trưởng điệp vụ của hắn ở châu Âu là Alexei Voronin. Cả hai đều là cựu sĩ quan KGB, tuy trong hai gã Voronin nổi trội hơn rất nhiều. Gã nói lưu loát rất nhiều ngôn ngữ châu Âu kể cả tiếng Anh, điều hắn đã đạt được trong lúc làm việc tại rezidentura của KGB ở London trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Lạnh.

Phần còn lại trong hệ thống các cấp của Volgatek tỏ ra khó nhận biết hơn, chắc chắn không có chuyện tình cờ biết được. Yaakov thấy có những điểm giống nhau giữa các gương mặt của công ty ấy và của Văn phòng. Tên của các thủ trưởng đều được công chúng biết đến, nhưng tên của các đại diện chủ chốt và nhiệm vụ họ thực hiện được giữ bí mật hay được che đậy dưới các lớp vỏ bọc lừa bịp hay đánh lạc hướng. Thật may mắn, đường truyền thư điện tử của văn phòng dã chiến ở Gdansk lại cho phép đội công tác nhận diện rất nhiều đấu thủ chủ chốt khác bên trong công ty, kể cả đội trưởng an ninh Pavel Zhirov. Tên hắn không hề xuất hiện trên các tài liệu của công ty, và tất cả các nỗ lực xác định một hình chụp đều không có kết quả. Trên sơ đồ tổ chức do đội thiết lập, Zhirov là một gã đàn ông không có danh tính.

Khi nhiều ngày trôi qua, mọi thứ đã trở nên rõ ràng với đội công tác, doanh nghiệp mà Zhirov bảo vệ còn lo nhiều việc hơn là khai thác dầu lửa. Công ty ấy là bộ phận của một sách lược rộng lớn hơn của Điện Kremlin nhằm biến nước Nga thành một siêu cường năng lượng toàn cầu, một Ả Rập Saudi của lục địa Á-Âu, và nhằm phục hồi Đế quốc Nga. Cả Đông Âu và Tây Âu đều công khai lệ thuộc vào khí đốt thiên nhiên của nước Nga. Sứ mạng của Volgatek là mở rộng tầm ảnh hưởng chi phối của nước Nga đối với thị trường năng lượng châu Âu, thông qua việc tậu các nhà máy lọc dầu. Và giờ đây nhờ Jeremy Fallon nó đã có chỗ đứng vững chắc ở Bắc Hải, cuối cùng sẽ gửi hàng tỷ lợi nhuận từ dầu lửa phun ào ào vào Điện Kremlin.

Thế nhưng làm cách nào để cấy một nội gián vào một tổ chức như thế? Chính Eli Lavon đã tìm ra một giải pháp khả thi mà ông giải trình cho Gabriel khi họ đi dạo trong khu vườn cây cối um tùm. Sau khi mua công ty lọc dầu ở Gdansk, ông ta nói, Volgatek đã thuê một cảnh sát địa phương làm giám đốc trên danh nghĩa của nhà máy. Thực tế gã người Ba Lan tuyệt đối chẳng dính dáng gì với việc điều hành nhà máy lọc dầu ngày này qua ngày khác. Hắn được lộng kính trưng bày, một bó hoa có ý đồ xoa dịu cảm giác bị tổn thương của người Ba Lan với việc con gấu Nga ngốn ngấu một tài sản có giá trị sống còn đối với nền kinh tế. Hơn thế nữa, Lavon giải thích, Ba Lan không phải là nơi duy nhất Volgatek đã thuê người giúp việc ở địa phương. Chúng cũng làm như vậy ở Hungari, Lithuania và Cuba. Chẳng có ai trong đám quản lý đó làm ăn giỏi hơn gã ở Gdansk. Đối với một người, cả lũ chúng nó đều bị loại ra khỏi vòng quyền lực, bị lơ là và bị loại trừ quyền được thông tin và quyết định công việc.

“Bọn nó là những tách cà phê biết đi,” Lavon nói.

“Nghĩa là chúng không nắm bắt được thứ thông tin bảo mật mà chúng ta đang tìm kiếm,” Gabriel chỉ rõ.

“Đúng vậy,” Lavon đáp lại. “Nhưng nếu một người được thuê mướn ở địa phương tình cờ còn ra đời hay có tổ tiên ở nước Nga, có thể bọn chỉ huy ở trung tâm Volgatek sẽ ưu ái với cậu ta hơn, nhất là khi cậu ta ngẫu nhiên là một con dao sắc bén nhất trong ngăn kéo. Nếu đúng là trường hợp ấy, chúng có thể bị xui khiến để giao cho cậu ta những trách nhiệm hiện thời. Ai biết được? Thậm chí, chúng có thể để cho cậu vào tận chốn linh thiêng dành riêng cho nội bộ ở Moscow nữa đó.”

“Ý đó thật xuất sắc, ông Eli à.”

“Phải đó,” Lavon thừa nhận. “Nhưng nó có một vấn đề nghiêm trọng.”

“Là vấn đề gì?”

“Làm sao chúng ta khiến Volgatek để ý tới cậu ta ngay từ đầu?”

“Dễ thôi mà.”

“Thật vậy sao?”

“Phải,” Gabriel mỉm cười. “Thật vậy đó.”

Gabriel không tham dự bữa ăn gia đình đêm hôm đó. Thay vì vậy, ông lái xe tới Phố đi bộ Cheyne ở Chelsea, nơi đó ông dùng bữa một mình với Viktor Orlov. Kế hoạch mới nảy sinh của ông chẳng hề gặp sự phản đối của gã người Nga; thật vậy Orlov đóng góp rất nhiều ý kiến chủ yếu để nó hay hơn. Khi bữa ăn kết thúc, Gabriel trao cho Orlov tài liệu cũ rích nhàm chán dành cho hết thảy các cá nhân không phải của Văn phòng nhưng lại tham gia các điệp vụ của Văn phòng. Nó ngăn cản y đừng bao giờ để lộ vai trò của mình trong vụ việc này, và không để y cậy nhờ đến pháp luật nếu bản thân hay việc kinh doanh của y bị tổn hại bất cứ cách nào. Y không chịu ký tên. Gabriel cũng chẳng trông mong điều gì tệ hơn thế.

Sau khi rời khỏi ngôi nhà rộng lớn của Orlov, Gabriel lái xe thẳng tới Hampstead rồi đi bộ đến Đồi Nghị viện. Graham Seymour đang ngồi đợi trên băng ghế, canh gác hai bên hông là hai cận vệ của ông. Họ rời khỏi tầm nghe ngóng khi Gabriel nói về điệp vụ mình sắp nhận và những điều ông yêu cầu theo cách thức hỗ trợ không chính thức của người Anh. Nghe nói, Seymour không khỏi mỉm cười. Vụ này không chính thống, nhưng hầu hết điệp vụ của Văn phòng đều như vậy, nhất là khi đã được Gabriel và đội của ông nhận làm.

“Anh biết đấy,” Seymour nói, “có thể có tác dụng thực sự đấy.”

“Sẽ có tác dụng, Graham à. Vấn đề là,” Gabriel nói thêm, “ông có muốn tôi tiếp tục tiến hành vụ này hay không?”

Seymour im lặng một lát. Sau đó ông đứng dậy và quay lưng về phía những ánh đèn của London. “Anh mang đến cho tôi chứng cứ về việc người Nga ở đằng sau vụ bắt cóc và sát hại Madeline đi,” ông ta nói thật bình thản, “rồi tôi sẽ bảo đảm lũ khốn nạn trong Điện Kremlin ấy sẽ chẳng bao giờ thấy được một giọt dầu nào của chúng tôi.”

“Cứ để tôi làm việc đó giùm các anh, Graham à! Làm cách đó ông sẽ không...”

“Đây là điều duy nhất tôi có thể làm,” Seymour nói. “Ngoài ra, một người rất khôn ngoan từng bảo tôi một sự nghiệp không có bất kỳ một vụ bê bối nào thì hoàn toàn không phải là một sự nghiệp đúng nghĩa cơ mà.”

“Ông cứ đánh tên tôi vào một ô của Google đi, rồi sau đó hãy cho tôi biết ông có nghĩ tôi có khôn ngoan như vậy hay không.”

Seymour mỉm cười. “Anh chẳng có ý gì khác, phải không?”

“Không có,” Gabriel đáp.

“Anh là một người rất giỏi. Nhưng hãy ghi nhớ một điều.”

“Là điều gì vậy?”

“Anh có thể dễ dàng gài Mikhail vào trong Volgatek, nhưng đưa cậu ta trở ra có lẽ hoàn toàn là một chuyện khác hẳn đấy”

Nói xong ông ta quay trở lại với hai cận vệ cùng đi và biến mất vào bóng tối. Gabriel vẫn còn ngồi lại trên băng ghế thêm năm phút nữa. Sau đó, ông đi tới xe hơi của mình và trở về ngôi nhà ở ven Knobby Copse.