← Quay lại trang sách

Chương 42 COPENHAGEN, ĐAN MẠCH

SAU NĂM NGÀY bồn chồn lo lắng, các lãnh chúa dầu lửa bắt đầu đổ vào Copenhagen từ bốn phương trên thế giới: Ả Rập Saudi và các nước Hồi giáo, Azerbaijan và Kazakhstan, Brazil và Venezuela, Mỹ và Canada. Các nhà hoạt động vì sự ấm lên toàn cầu như tiên đoán đã kinh hoàng vì cuộc tụ tập này, có một nhóm đã đưa ra một tuyên cáo cuồng loạn, rằng lượng carbon thải ra từ chính hội nghị đó cuối cùng sẽ gây ra hiện tượng đại dương nuốt chửng một ngôi làng ở Bangladesh. Các phái đoàn dường như chẳng hề để ý. Họ đến Copenhagen trên những máy bay phản lực tư nhân và gào rú qua các đường phố kỳ quái ở đó trên những chiếc xe limousine bọc thép thật mạnh bạo nhờ các động cơ đốt trong. Có lẽ một ngày kia dầu lửa sẽ cạn kiệt và hành tinh sẽ quá khó khăn chẳng duy trì được cuộc sống của loài người. Nhưng ít ra bây giờ đây những kẻ khai thác hóa thạch vẫn ngự trị trên ngôi vị tối cao.

Cuộc tranh giành tài nguyên ở Copenhagen thật gay gắt. Việc đặt trước các bữa ăn tối chẳng thể nào thực hiện được, và Khách sạn Angleterre là một cao ốc có mặt tiền trang trí y hệt một tàu khách màu trắng vô cùng sang trọng, trông ra Quảng trường King’s New cây cỏ mọc um tùm, các phòng ốc đều đầy khách. Viktor Orlov và Mikhail đã tới cửa vào thanh lịch của khách sạn trong cơn bão tuyết mịt mùng và được quản lý hộ tống lên hai dãy phòng ở gần nhau trên một tầng lầu. Phòng Mikhail có một đĩa gỗ lớn đựng các món ăn Đan Mạch và một chai Dom Pérignon ướp lạnh trong xô đá. Lần trước, khi lưu trú trong một khách sạn để làm nhiệm vụ Văn phòng giao cho, cậu đã dùng một chai rượu champagne được chiêu đãi để tự gây thương tích ở đầu gối nhằm bảo vệ vỏ bọc của mình. Cậu nghĩ chắc chắn vỏ bọc của cậu trong điệp vụ này đòi hỏi phải uống một hay hai ly. Trong lúc đang lôi nút bần ra, cậu nghe có một tiếng gõ cửa thận trọng. Thật kỳ lạ, vì cậu đã treo bảng XIN ĐỪNG QUẤY RẦY trên chốt cửa trước khi gửi tiền boa cho nhân viên gác cửa khách sạn. Cậu từ từ mở hé cửa và nhìn kỹ qua chốt an toàn một người đàn ông có chiều cao và tầm vóc trung bình đang đứng ngoài hành lang. Người ấy mặc một áo khoác len dài vừa phải với cổ áo kiểu Đức và đội một cái mũ phớt Tyrol. Mái tóc dày lóng lánh ánh bạc, đôi mắt màu nâu có đeo mắt kính. Một cặp đựng giấy tờ bọc da mềm đã trầy trụa hao mòn và bạc màu vì dãi dầu mưa nắng lủng lẳng trong tay phải của người ấy.

“Tôi làm thế nào mới giúp được ông ạ?” Mikhail hỏi.

“Bằng cách mở cửa,” Gabriel khẽ đáp.

Mikhail kéo chốt an toàn rời ra, bước sang một bên để Gabriel có thể đi vào rồi lại nhanh tay đóng cửa. Xoay người lại, cậu thấy Gabriel đang từ từ di chuyển khắp gian phòng khách sạn, tay phải giơ tới trước điện thoại cá nhân BlackBerry của mình. Một lát sau, ông gật đầu với Mikhail chỉ rõ phòng này không có thiết bị nghe lén. Mikhail bước tới chỗ xô champagne và tự rót cho mình một ly Dom Pérignon.

“Ông uống không?” cậu vừa hỏi vừa vung vẩy chai rượu về phía Gabriel.

“Nó làm tôi nhức đầu.”

“Tôi cũng thế.”

Cậu hạ thân hình vừa ốm vừa cao lêu nghêu xuống ghế bành, rồi gác hai bàn chân lên cái bàn salon, một nhà quản trị bận rộn đã mệt đừ vì một ngày dài du hành và hội họp. Gabriel nhìn quanh khắp cả dãy các gian phòng được chọn trước quá xa hoa, rồi lắc đầu.

“Tôi rất vui vì Viktor thanh toán hóa đơn thuê phòng ở nơi này,” ông nói. “Uzi vẫn theo sát sườn các khoản chi phí.”

“Hãy bảo Uzi tôi cần giữ gìn phong độ đã quen thuộc.”

“Thật tốt khi biết tất cả thành công này không khiến cậu vênh vang.”

Mikhail uống thêm rượu champagne, chẳng nói gì hết. “Cậu phải cạo đi.”

“Tôi đã cạo sáng nay rồi,” Mikhail xoa cằm mình.

“Không phải ở đó đâu,” Gabriel đáp lại.

Cậu ta vuốt một lòng bàn tay lên cái đầu bóng loáng. “Ông biết không, thật tình tôi đã trở nên quen thuộc với nó rồi. Quả thật tôi đang nghĩ mình sẽ chấp nhận nó như hình dáng của mình khi điệp vụ này kết thúc.”

“Cậu giống hệt một người ngoài hành tinh, Mikhail à.”

“Thà làm người ngoài hành tinh còn hơn làm nhân vật trong phim The Sound of Music.” Cậu ta chộp lấy một cái bánh sandwich kẹp tôm nhỏ từ cái đĩa gỗ lớn rồi nhai ngấu nghiến hết cả.

“Cậu ăn tôm cua từ lúc nào vậy?”

“Từ lúc tôi trở thành một người Anh gốc Nga và làm việc cho, một công ty đầu tư thuộc sở hữu của một gã đầu sỏ chính trị tên là Viktor Orlov.”

“Với một chút may mắn,” Gabriel nói, “đó chỉ mới là một phiến đá lót chân để bước tới những điều to lớn hơn, tốt đẹp hơn mà thôi.”

“Inshallah (còn tùy ý Chúa),” Mikhail nâng ly rượu champagne lên giả vờ chúc mừng, “ông chủ tương lai sẽ thuê tôi đã đến chưa?”

Gabriel moi từ trong cái cặp giấy tờ tàn tạ của mình, lôi ra một bao hồ sơ bằng giấy manila. Bên trong là ba tấm hình màu mới in ra mà ông xếp trên cái bàn salon trước mặt Mikhail theo đúng thứ tự đã được chụp nhanh. Chúng miêu tả cảnh ba gã đàn ông bước xuống thang của một máy bay phản lực tư nhân nhỏ rồi leo lên đằng sau một chiếc limousine đợi sẵn. Chúng được chụp từ một khoảng cách khá xa bằng một máy ảnh gắn ống kính dài. Tuyết rơi làm mờ đi hình ảnh.

“Ai chụp ảnh thế?” Mikhail hỏi.

“Yossi.”

“Làm thế nào anh ấy vào được bãi đáp máy bay chứ?”

“Cậu ta có một giấy mời báo chí tham dự diễn đàn,” Gabriel đáp. “Rimona cũng vậy.”

“Họ làm cho ai thế?”

“Một bản tin công nghiệp gọi là Enegy Times.”

“Cứ vào thẳng chẳng cần thông báo nhỉ.”

“Săn tin mà cậu.”

Mikhail mỉm cười, cầm tấm hình đầu tiên lên, cho thấy ba gã đang đi thành một hàng duy nhất xuống thang máy bay. Dẫn đầu là Gennady Lazarev, hoàn toàn chẳng giống một nhà toán học chỉ biết vùi đầu vào sách vở như trước đó hắn từng làm. Bước theo sau là Dmitry Bershov, Phó Giám đốc điều hành Volgatek, và đằng sau hắn là một gã đàn ông lùn nhưng rắn chắc, khuôn mặt tối đi vì cái vành mũ phớt mềm.

“Hắn là ai thế?” Mikhail hỏi.

“Chúng ta chưa thể hình dung ra điều đó.”

Mikhail cầm lên tấm hình thứ nhì, rồi thứ ba. Chẳng có tấm nào thấy rõ mặt gã đàn ông ấy.

“Hắn khá giỏi, phải không?” Mikhail hỏi.

“Cậu cũng để ý điều đó.”

“Thực sự khó chụp trượt. Hắn biết máy ảnh ở nơi nào và bảo đảm không ai chụp rõ ảnh hắn.” Cậu ta buông mấy tấm hình xuống cái bàn salon. “Ông nghĩ vì sao hắn lại làm thế?”

“Cũng cùng lý do như tôi và cậu đã làm.”

“Hắn làm việc cho Văn phòng à?”

“Hắn là dân chuyên nghiệp, Mikhail à. Thật vậy đó. Có lẽ hắn đã thôi việc ở SVR và chỉ làm như vậy vì thói quen thôi. Nhưng dường như với tôi hắn vẫn còn thi hành nhiệm vụ.”

“Bây giờ hắn đang ở đâu?”

“Khách sạn Imperial, cùng với mấy gã còn lại trong bọn. Gennady khá thất vọng vì các tiện nghi phục vụ cho hắn.”

“Làm thế nào các ông biết được điều ấy chứ?”

“Vì Mordecai và Oded đã tới thăm phòng hắn một giờ trước khi máy bay của Volgatek hạ cánh, và họ đã bỏ một vật nho nhỏ bên dưới tủ đầu giường của hắn.”

“Làm thế nào các ông biết phòng nào là phòng Lazarev chứ?”

“Đơn vị đã xâm nhập vào hệ thống đặt phòng của khách sạn đó.”

“Còn cửa phòng thì sao?”

“Mordecai có một chìa khóa thẻ thần kỳ mới. Thực tế cửa đã tự động mở ra.” Gabriel bỏ mấy tấm hình trở vào bao hồ sơ, rồi bỏ cái bao đó trở vào cặp giấy tờ. “Cậu nên biết Gennady còn nói nhiều hơn chứ không chỉ than phiền về chất lượng của căn phòng,” một lát sau ông nói. “Hiển nhiên hắn rất mong được gặp cậu đó.”

“Có ý kiến gì không khi hắn ngỏ lời đề nghị?”

“Không có,” đội trưởng lắc đầu. “Nhưng cậu nên mong chuyện đó sẽ xảy đến thật tế nhị.”

“Tôi có biết hắn không?”

“Biết tên nhưng không biết mặt.”

“Còn nếu hắn sỗ sàng với tôi thì sao?”

“Tôi vẫn thấy tốt hơn hết nên cố diễn hết sức mình để đạt được mục đích.”

“Và ông hãy theo dõi xem nơi nào thích hợp để làm việc ấy.” Mikhail rót thêm một ít rượu champagne vào ly của mình nhưng chẳng nói thêm gì nữa.

“Có điều gì cậu muốn nói với tôi không, Mikhail?”

“Tôi nghĩ đã đến lúc chúc mừng ông.”

“Vì điều gì?”

“Thôi nào, Gabriel. Đừng bắt tôi lớn tiếng nói ra điều ấy.”

“Nói gì?”

“Mọi người cứ bàn tán, Gabriel ạ, nhất là các điệp viên. Và quanh khắp Đại lộ King Saul họ bàn chuyện ông sẽ là sếp kế tiếp đây.”

“Tôi chưa hề đống ý gì hết.”

“Đấy chẳng phải là điều tôi nghe thấy. Nghe nói mọi việc đã thỏa thuận rồi mà.”

“Không phải vậy đâu.”

“Ông nói gì cũng thế thôi, ông chủ ạ.”

Gabriel thở ra thật nặng nề. “Uzi biết được bao nhiêu rồi?”

“Uzi đã biết ngay từ lúc mới nhậm chức mình chỉ là chọn lựa thứ nhì của mọi người.”

“Tôi đâu có thấy chuyện đó.”

“Tôi biết. Và tôi ngờ rằng Uzi cũng biết điều ấy,” Mikhail nói tiếp. “Nhưng có biết cũng chẳng làm cho dễ dàng hơn một chút nào khi mà Thủ tướng nói với ông ấy sẽ không cho một người hạng nhì làm sếp.”

Mikhail nâng ly lên ánh đèn và ngắm bọt sủi lên mặt rượu champagne.

“Cậu đang nghĩ chuyện gì vậy?” Gabriel hỏi.

“Thời gian chúng ta ở Zurich, trong cái quán café nhỏ xíu gần Paradeplatz. Đấy là lúc chúng ta đang cố cứu Chiara trở về từ chỗ Ivan, ông có nhớ chỗ ấy không, Gabriel? Ông có nhớ đã nói gì với tôi chiều hôm ấy hay không?”

“Tôi tin có lẽ mình đã bảo cậu hãy cưới Sarah Bancroft và rời khỏi Văn phòng.”

“Ông có trí nhớ tốt thật.”

“Cậu muốn nói tới điểm nào đấy?”

“Tôi đang thắc mắc liệu ông vẫn còn nghĩ tôi nên rời khỏi Văn phòng hay không.”

Đội trưởng lưỡng lự một lát rồi mới trả lời. “Tôi sẽ không làm như vậy nếu tôi là cậu,” cuối cùng ông nói.

“Sao lại không?”

“Vì nếu tôi trở thành sếp kế tiếp, cậu sẽ có một tương lai sáng sủa, Mikhail à. Rất sáng sủa.”

Mikhail xoa da đầu mình. “Tôi cần phải cạo.”

“Phải, cậu cần cạo đó.”

“Ông chắc chắn sẽ không dùng đôi chút rượu champagne này chứ?”

“Nó làm tôi nhức đầu.”

“Tôi cũng thế,” Mikhail vừa nói vừa rót thêm một ly nữa.

Trước khi rời khỏi dẫy phòng khách sạn đó, Gabriel cài đặt một phần mềm của Văn phòng trên điện thoại di động của Mikhail để biến nó thành một máy truyền dẫn toàn thời gian tự động chuyển tiếp tất cả các cuộc gọi, các thư điện tử và các văn bản nhắn tin của cậu ta tới máy vi tính của đội công tác. Sau đó, ông đi xuống hành lang và dùng vài phút để lùng sục các khuôn mặt quen thuộc giữa đám đông những kẻ kinh doanh dầu lửa bóng loáng.

Bên ngoài cơn bão tuyết buổi chiều đã ngừng hẳn, nhưng vài bông tuyết vẫn rơi dày đặc qua các ánh đèn đường một cách lười nhác. Gabriel tiến về phía Tây xuyên qua thành phố, dọc theo một phố đi bộ mua sắm ngoằn ngoèo gọi là Stroget, tới tận Radhuspladsen. Chuông trong tháp đồng hồ đang điểm sáu giờ. Ông định ghé thăm Khách sạn Imperial một chuyến, tọa lạc không xa quảng trường, ở ven vườn Tivoli. Thay vì vậy, ông cuốc bộ tới một khu chung cư trông thật chán nản trên một đường phố mà tên chỉ có người Đan Mạch mới phát âm được. Khi bước vào căn hộ nhỏ trên tầng thứ nhì, ông thấy Keller và Eli Lavon đang khom mình trên máy tính bảng. Từ hai loa phát ra tiếng ba gã đàn ông đang khe khẽ chuyện trò bằng tiếng Nga.

“Anh có hình dung ra là ai nói hay không?” Gabriel hỏi. Lavon lắc đầu. “Thật buồn cười,” ông ấy nói, “nhưng mấy thằng Volgatek này chẳng có tên tuổi lớn lao gì.”

“Anh thường không nói như vậy.”

Lavon sắp sửa đáp nhưng bị chặn lại bởi một trong ba giọng nói. Hắn đang nói bằng giọng khe khẽ thì thào, như thể đang đứng trên một nấm mồ mở rộng.

“Đó là cái thằng chúng ta muốn biết,” Lavon nói. “Hắn luôn nói chuyện như vậy. Như thể cho rằng có người đang lắng nghe.”

“Thì có người đang lắng nghe thật đây.”

Lavon mỉm cười. “Tôi đã gửi một mẫu giọng nói của hắn về Đại lộ King Saul và bảo họ cho chạy qua hệ thống máy vi tính.”

“Rồi sao?”

“Không khớp.”

“Chuyển mẫu đó tới cho Adrian Carter ở Langley đi.”

“Và nếu Carter yêu cầu giải thích thì sao?”

“Cứ nói dối với ông ta.”

Ngay lúc đó, ba gã người Nga điều hành công ty dầu lửa chợt cười rống lên. Trong lúc Lavon rướn người tới trước để lắng nghe, đội trưởng từ từ di chuyển ra cửa sổ và chăm chú nhìn xuống con phố. Nó trống vắng, ngoại trừ một phụ nữ trẻ đang bước đi trên hè phố phủ đầy tuyết. Cô ta có làn da trắng trong như trứng gà bóc và hai gò má cao của Madeline. Quả thật họ giống nhau như đúc khiến ông quá sửng sốt tới nỗi trong phút chốc ông cảm thấy bị thúc ép phải chạy theo cô ta. Bọn người Nga vẫn đang cười. Gabriel nghĩ chắc chắn chúng đang chế nhạo ông. Ông hít vào một hơi thật dài để làm chậm lại nhịp tim đang đập thình thình của mình và dõi mắt nhìn theo hồn ma của Madeline đi ngang qua dưới chân mình. Sau đó bóng tối đòi lại cô ta và cô ta đã đi mất.