Chương 44 COPENHAGEN, ĐAN MẠCH
NGÀY THỨ NHÌ của diễn đàn tái diễn lại ngày đầu tiên một cách buồn chán. Mikhail vẫn trung thành ở bên cạnh Viktor Orlov suốt, mỉm cười với vẻ vui tươi quá mức của một kẻ sắp sửa phạm tội ngoại tình. Trong tiệc rượu cocktail, lại một lần nữa cậu đeo bám quanh hai người Brazil đang vui vẻ chè chén, dường như tiu nghỉu khi cậu từ chối lời mời cùng tham gia với họ vào một cuộc nô đùa ầm ĩ ở một số hộp đêm sống động tại Copenhagen. Từ biệt rồi, cậu lôi Viktor ra khỏi những bàn tay nắm chặt của bộ trưởng dầu lửa Kazakhstan rồi đẩy y vào đằng sau chiếc limousine thuê. Cậu đợi tới khi hai người cách Khách sạn Anglettere vài khối nhà rồi mới nói mình chẳng còn hơi sức nào để dùng bữa tối. Cậu nói như thế với một giọng vừa đủ to để các máy truyền dẫn của bọn Nga hiện diện có thể thu được.
“Cô ấy tên gì thế?” Orlov hỏi, đã biết kế hoạch của cậu ta buổi tối hôm ấy rồi.
“Không phải thế, ông Viktor ạ.”
“Thế thì là gì?”
“Tôi bị nhức đầu kinh khủng.”
“Hy vọng chẳng có gì nghiêm trọng.”
“Chắc chắn chỉ là một khối u trong đầu thôi.”
Lên lầu và vào phòng, Mikhail gọi vài cú điện thoại về London để bảo đảm vỏ bọc của mình và gửi một thư điện tử hư đốn cho cô thư ký riêng của cậu để bọn mật thám không gian mạng ở Trung tâm Moscow biết dù sao đi nữa cậu cũng là một con người. Sau đó cậu tắm vòi sen và thay y phục để dự buổi dạ tiệc, đây không chỉ là một thách thức đơn giản như cậu nghĩ lúc ban đầu. Người ta thường mặc gì, cậu thầm nghĩ, khi đang phản bội ông chủ bị phế bỏ của mình bằng cách đi gặp nhà quản trị của một công ty dầu lửa thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi tình báo Nga? Cậu khoác một bộ com lê đơn giản, màu xám Xô viết và một áo sơ mi lễ phục có cổ tay áo giả của Pháp. Cậu quyết định không đeo cà vạt vì sợ sẽ khiến mình trông có vẻ nhiệt tình quá mức. Ngoài ra, nếu chúng có ý định giết cậu thì cậu không muốn đeo một món phụ kiện có thể dùng làm hung khí giết người.
Theo chỉ dẫn của Gabriel, cậu để mọi bóng đèn trong phòng cháy sáng và treo bảng XIN ĐỪNG QUẤY RẦY trên chốt cửa trước khi đi tới thang máy. Đại sảnh khách sạn là cả một biển đại biểu. Khi tiến về phía cửa, cậu thấy Yossi, phóng viên mới được tạo ra của tờ Energy Times không hề tồn tại, đang phỏng vấn một trong những người Iran không đeo cà vạt. Bên ngoài những hạt tuyết cứng đang thổi như một cơn bão cát qua phần mở rộng của Quảng trường King’s New. Một chiếc sedan hiệu Mercedes dòng S màu đen chờ sẵn ở sát vỉa hè. Đứng cạnh cửa sau xe đang mở ra một gã người Nga cao 2,4 mét. Người ta gọi gã là Igor.
“Ta đi đâu đây?” Mikhail hỏi khi chiếc xe lao vọt tới trước với một cái lắc lư.
“Ăn tối,” Igor tài xế làu bàu.
“À,” Mikhail khẽ nói, “tôi rất vui vì chúng ta đã giải quyết việc ấy ổn thỏa.”
Gã tài xế Nga không nghe lời Mikhail nhận xét, nhưng Gabriel nghe thấy. Gabriel ngồi sau tay lái một chiếc sedan hiệu Audi đậu trong một ngõ hẻm quanh góc phố gần lối vào khách sạn. Keller ngồi bên cạnh ông, một máy tính bảng để trên đầu gối. Trên màn hình là bản đồ Copenhagen, với vị trí của Mikhail được miêu tả bằng một đốm sáng xanh lơ nhấp nháy. Ngay giây phút đó, đốm sáng đang nhanh chóng rời khỏi Quảng trường King’s New hướng về một khu vực chưa biết rõ của Copenhagen để đến các nhà hàng. Gabriel vặn chìa khóa, chẳng có gì phải gấp gáp cả. Rồi ông nhìn đốm sáng xanh lơ và thận trọng theo sau nó.
Hiển nhiên, Mikhail và Gennady Lazarev sẽ không ăn tiệc ở Copenhagen buổi tối hôm ấy. Bởi vì trong nhiều phút rời khỏi khách sạn, chiếc Mercedes to lớn màu đen phóng hết tốc lực ra khỏi khu phố chợ, cho thấy Igor đã quen lái xe trong thời tiết có tuyết rơi. Gabriel chẳng cần bắt kịp tốc độ liều mạng của chiếc xe ấy. Đốm sáng xanh lơ trên màn hình vi tính của Keller đã cho ông biết rõ mọi điều mình cần biết rồi.
Sau khi ra khỏi các quận phía Nam thủ đô, đốm sáng di chuyển trên xa lộ E20 tiến về phía Nam vào một vùng của Đan Mạch gọi là Zealand, và khi từ quốc lộ rẽ vào nội địa về phía khu phố chợ Ringsted cổ kính, đốm sáng tách rời ra và trôi đi về phía bờ biển. Gabriel và Keller cũng làm như vậy và chẳng bao lâu đã thấy mình chạy trên một con đường hẹp có hai làn xe với mặt nước đen ngòm của Vịnh Koge ở bên trái và những cánh đồng tuyết bên phải. Họ theo con đường đó rất nhiều dặm cho tới khi gặp một khu định cư gồm những căn nhà nhỏ mùa hè xếp đặt lộn xộn dọc theo một bãi biển lộng gió đầy sỏi đá, và chính ở đó đốm sáng nhấp nháy ngừng di chuyển. Gabriel từ từ tấp vào lề đường rồi tăng âm lượng cho tai nghe của mình, ông nghe tiếng cửa xe mở, những bước chân trên các phiến đá lát đường phủ tuyết và nhịp tim như búa đóng cọc không kiềm chế nổi của Mikhail.
Căn nhà nhỏ ấy ở trong số những căn đẹp nhất của cả khu. Nó có một lối đi nhỏ dành cho xe hơi hình chữ U, một nhà xe lợp ngói đỏ bốn bề trống hoác và một khu vườn trên nền đất cao trước nhà đóng khung trong một hàng rào được cắt xén và những vách tường bằng gạch nhỏ kiên cố. Mười hai nấc thang dẫn lên một hiên nhà có lan can trắng. Hai chậu cây đứng như hai tên lính gác hai bên cửa kính. Khi khách tới gần, cánh cửa chợt mở toang và Gennady Lazarev bước ra hiên nhà để chào đón khách. Hắn mặc một áo pull tròng đầu có cổ lận xuống và một áo len đan thật dày kiểu Bắc Âu. “Nicholas!” hắn gọi như thể khách là một người bà con bị điếc. “Vào trong đi, kẻo bị nhiễm lạnh đến chết rét đấy. Xin lỗi vì đã đưa cậu đi cả quãng đường dài đến tận đây, nhưng tôi chưa bao giờ thấy thoải mái khi bàn việc kinh doanh trong các nhà hàng và khách sạn.”
Hắn chìa tay ra cho cậu rồi kéo qua ngưỡng cửa như thể lôi một kẻ sắp chết đuối từ dưới biển lên. Rồi sau khi đóng cửa thật nhanh, hắn cởi áo khoác cho cậu và trong phút chốc ngắm kỹ báu vật vừa bắt được. Mặc dù có quyền hành và của cải, trông Lazarev vẫn có vẻ như một khoa học gia làm việc cho chính phủ. Với cặp mắt kính tròn và cặp lông mày nhíu lại, hắn có dáng dấp của một người mãi cố hết sức giải một phương trình toán học.
“Cậu bỏ Viktor mà đi có gặp rắc rối gì không?” hắn hỏi.
“Không có,” Mikhail đáp. “Thực sự tôi nghĩ ông ấy vui vì tống khứ tôi đi vài giờ.”
“Dường như hai người rất ăn ý với nhau, phải không?”
“Đúng thế?
“Nhưng bất kể trường hợp nào cậu cũng đã đến rồi,” Lazarev chỉ rõ.
“Tôi đã cảm thấy mình phải thế?
“Vì sao?”
“Bởi vì khi một người như Gennady Lazarev yêu cầu gặp gỡ, nhận lời thường là một ý hay.”
Lời Mikhail nói hiển nhiên khiến Lazarev hài lòng. Rõ ràng gã người Nga không miễn nhiễm với những lời nịnh bợ.
“Và cậu đã không cho anh ta biết cậu đi đâu chứ?” hắn hỏi.
“Dĩ nhiên là không.”
“Tốt lắm,” hắn kẹp chặt bàn tay thanh mảnh của mình lên vai khách. “Hãy đến uống một ly. Gặp những người khác nữa.”
Lazarev hộ tống Mikhail vào trong một gian phòng rộng lớn có các cửa sổ nhìn ra mặt biển. Hai gã đàn ông chờ ở đó, nín lặng một cách khó chịu thường tiếp theo sau là một cuộc tranh cãi. Một gã đang rót một ly rượu ở chiếc xe đẩy; gã kia đang sưởi ấm trước lò lửa. Gã ở xe đẩy có bóng dáng của một con gấu phục phịch, mái tóc đen lưa thưa chải sát da đầu. Mikhail không thể thấy nhiều chi tiết về gã đàn ông ở lò lửa vì lưng gã quay lại với gian phòng.
“Đây là Dmitry Bershov,” chủ nhà chỉ vào gã đàn ông ở xe đẩy. “Tôi chắc chắn cậu từng nghe cái tên ấy rồi. Dmitry là nhân vật số hai của tôi đấy.”
“Vâng, dĩ nhiên là thế,” khách bắt lấy bàn tay chìa ra. “Thật vui thích khi gặp ông.”
“Cũng thế,” Bershov phát âm thật đúng ngữ điệu.
“Còn người đàn ông ở đằng kia,” Lazarev trỏ vào hình dáng ở lò lửa, “là Pavel Zhirov. Anh ấy lo công tác an ninh của công ty và làm bất cứ việc bẩn thỉu nào cần phải làm. Chẳng đúng thế sao, Pavel?”
Gã đàn ông ở lò lửa xoay vòng chầm chậm cho tới khi chằm chặp nhìn thẳng vào mặt Mikhail. Gã mặc một áo len dài tay màu đen và một quần dài màu xám tro.
Đầu tóc vàng hoe hoa râm cắt ngắn; khuôn mặt trơ xương nổi lên một cái miệng nhỏ trông có vẻ tàn bạo. Mikhail nhận ra ngay tức khắc mình đã trông thấy gương mặt này trước đó. Nó ở trên tấm hình chụp bữa tiệc trưa xảy ra trên đảo Corse vài giờ trước khi Madeline Hart biến mất. Giờ đây, gương mặt đó ra khỏi ánh lửa và tiến về phía cậu, cái miệng nhỏ tạo hình gì đó như là một nụ cười.
“Chúng ta đã từng gặp nhau chưa nhỉ?” Zhirov vừa hỏi vừa siết chặt bàn tay Mikhail.
“Chưa, tôi không nghĩ thế.”
“Trông cậu có vẻ quen thuộc với tôi.”
“Rất nhiều người đã nói thế đấy.”
Nụ cười phai nhạt đi, cặp mắt nheo lại. “Cậu có mang theo điện thoại đấy không?” hắn hỏi.
“Tôi vẫn gọi và nhận các cuộc điện thoại tới tấp.”
“Xin cậu cảm phiền tắt máy, có được không?”
“Có thực sự cần thiết không?”
“Có đấy,” hắn đáp. “Gỡ pin ra luôn đi. Có thể thời buổi này như thế chẳng hề quá cẩn thận đâu.”
Ba mươi giây sau đốm sáng xanh lơ trên máy tính bảng vụt tắt. Gabriel gỡ tai nghe ra và nhăn nhó.
“Chuyện gì vừa xảy ra thế?” Keller hỏi.
“Mikhail đã ngoài tầm kiểm soát.”
“Điều đó có ý nghĩa gì?”
Đội trưởng giải thích. Rồi ông rút điện thoại di động từ túi áo khoác và gọi cho Eli Lavon ở nhà an toàn. Họ nói trong vài giây bằng tiếng Do Thái ngắn gọn dùng trong các điệp vụ.
“Chuyện gì đang diễn ra thế?” Keller hỏi sau khi Gabriel đã ngắt kết nối.
“Hai tên côn đồ SVR từ rezidentura ở Copenhagen đang lục soát phòng của Mikhail tại Khách sạn Angleterre.”
“Đấy có phải việc tốt lành không?”
“Đó là một việc rất tốt.”
“Ông chắc chắn điều ấy chứ?”
“Không.”
Gabriel đút điện thoại trở vào túi rồi đăm đăm ngó ra ngoài cửa kính, nhìn gió thổi những con sóng vỗ vào bãi biển đã đóng băng, chờ đợi, ông thầm nghĩ. Lúc nào cũng chờ đợi.