NGƯỜI TẠO RA KÝ ỨC
Đó là một ngày tuyệt đẹp và cô cũng nói thế. Anh huýt sáo khi đi dạo cùng cô, còn cô ngân nga theo một cách hạnh phúc - khúc nhạc được chơi trên đàn dương cầm ở quán bar tối qua, vẫn còn in rõ trong tâm trí họ, đọng lại, giai điệu rung động liên tiếp giống như một cánh bướm rập rờn trong hũ mứt. Tay cô trong tay anh, những ngón tay to lớn của anh bao lấy toàn bộ bàn tay cô, khiến cô cảm thấy mình như một đứa trẻ nhỏ. Mặc dù cô không nghĩ thế, nhưng cô là người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng nhìn thấy, từng chạm vào, từng ngửi thấy. Anh nói với cô điều đó. Cô mỉm cười, cô đã nghe điều đó hàng chục lần cả buổi sáng nay nhưng nó không làm cô phiền lòng; với mỗi lời khen, thậm chí cô càng rạng rỡ hơn. Anh nhìn cô, ánh mặt trời tỏa sáng trên mái tóc vàng hoe của cô và cô như được thắp sáng một thiên thần hoàn hảo. Họ đi xuyên qua quảng trường Merrion, tay trong tay, lắng nghe tiếng la hét thích thú của đám trẻ con, vang vọng trong gió, bị cuốn đi từ một sân chơi gần đó.
.
Một cái gậy nhỏ rơi đánh bộp phía trước chân họ. Cô bật ra một tiếng kêu nho nhỏ sợ hãi, sau đó cười nhạo chính bản thân mình. Anh trêu chọc cô. Có chút xấu hổ, cô tựa đầu trong giây lát lên vai anh. Anh ngửi thấy mùi xà phòng. Mùi cây bông súng Em thật ngôc, cô nói. Anh khen ngợi cô một lần nữa. Cô là người phụ nữ ngây thơ nhất mà anh từng nhìn thấy, từng chạm vào, từng ngửi thấy. Cô nhận lời khen ngợi một lần nữa. Một con chó chạy vụt qua họ trên đường, một con chó lông vàng giống Labrador, to lớn và vụng về như thể chân của nó không còn thuộc về nó nữa,, giống như nó đang mang một đôi giày quá khổ. Con chó lao vào cây gậy vừa rơi xuống, ngấu nghiến ngoạm nó trong miệng và chạy ngược trở lại hướng mà nó bắt đầu. Họ quay lại, quan sát nó chạy vòng vòng hăm hở muốn làm hài lòng ông chủ. Xin lỗi, người đàn ông vẫy tay với họ. Không sao, cô đáp lại. Thật là một ngày đẹp trời, cô nói với anh, và anh đồng ý. Cả hai đều nhất trí. Họ tiếp tục đi dạo. Đã cuối tháng bảy, những cái cây đầy lá và hoa, không khí nhuốm mùi hương của chúng. Mùi hương ấy cù vào mũi anh, kích thích cơn dị ứng của anh. Cô đưa cho anh một chiếc khăn tay mặc dù anh không hắt hơi. Cô hiểu anh rất rõ.
Anh đón lấy chiếc khăn tay trắng tinh, chữ cái viết tắt tên cô màu hồng thêu ở góc. JJ. Món quà từ mẹ cô. Anh xì mũi và tinh nghịch đưa nó trở lại cho cô. Cô cười lần nữa. Những đường nét xuất hiện trên miệng cô giống như sóng gợn trên mặt hồ sau khi ném một viên sỏi. Nhẹ nhàng tự nhiên, xinh đẹp.
Ông không phải là bác sĩ hay nhà khoa học. Một vài người coi ông như là một nhà tâm lý học, nhưng cũng không phải. Ông chỉ đơn thuần là một người đàn ông đã từng yêu, và vì thế có nhiều kinh nghiệm, không chỉ với những thứ ông đang làm hiện nay và được biết đến khắp thế giới, mà còn với cả cuộc đời ông.
Nằm sâu trong tầng hầm một ngôi nhà kiến trúc kiểu Georgian ở Quảng trường Fitzwilliam, những thiết bị dành cho tương lai tìm thấy vị trí của nó trong khung cảnh nhuốm màu xưa cũ. Những căn phòng tối tăm, mặc dù có cánh cửa sổ rất lớn, và đồ nội thất cũng ẩm ướt mặc dù ở đây thường xuyên rất nóng. Khách hàng của ông thường ngạc nhiên khi quan sát xung quanh. Họ không biết mình đang chờ đợi điều gì, nhưng chắc chắn không phải là như thế này. Chỉ một vài người tôn sùng ông, còn lại hầu hết là tức giận bởi họ sợ ông làm ô uế những gì tự nhiên nhất trên thế giới - đó là tâm trí, ký ức. Liệu đó có phải là lý do của cuộc tranh luận mang tính toàn cầu này; lý do làm cho một số người ngưỡng mộ ông và số khác lại chửi rủa ông?
Một thiết bị, thật ra là một cái máy. Họ gọi nó là máy tạo ký ức. Ông không phải là người tạo ra ký ức. Chính tâm trí tạo nên ký ức - theo quan điểm của ông, nó làm việc ấy còn nhiều hơn trái tim nhưng ông không đề cập đến nó lúc này - và một khi tâm trí đã tạo ra ký ức, chiếc máy đóng dấu nó thành những tập tin ký ức như thể chúng có thực, tồn tại, đáng tin và không thể quên được như tất cả các ký ức khác. Ký ức mới tạo ra là những ký ức mà người ta ao ước có được, hoặc những ký ức mà người ta đã quên đi - giờ cần phải làm mới, mặc dù vậy họ không bao giờ thành công tạo ra thứ nguyên bản ban đầu cho dù đã cố gắng tái tạo chúng như thế nào. Tâm trí tự phát minh tất cả. Nó làm thế để tồn tại. Và cái máy giúp người tạo ra cái máy tồn tại. Không, nó không giúp ông. Nó giữ cho ông còn sống. Cho ông lý do để sống. Một thứ mà ông cảm thấy cuộc sống của mình hoàn toàn thiếu.
Ông đến với phát minh này một cách tình cờ. Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, ông không trải qua nhiều năm làm việc với chiếc máy, như một phương tiện để vượt qua những gì đã xảy đến với ông. Ông không bao giờ nói với bất cứ ai về nỗi buồn lớn nhất của mình. Và ông cũng không tin số phận mang ông đến với cuộc sống như bây giờ. Ông không tin vào số phận. Mọi việc xảy ra tình cờ. Chỉ diễn ra như cách của chúng. Tình cờ. Khi ông loanh quanh ở nhà với cái máy và đống dây nhợ, ông đã tìm được cách làm nên chiếc máy biết ra lệnh cho bộ não tạo ra ký ức. Đó là một sự tình cờ. Chỉ đơn giản như vậy. Nhưng đó là một sự tình cờ có lợi. Còn hầu hết thì không.
Ông giờ đã hoàn thiện chiếc máy và khách hàng xa gần tìm đến gặp ông; những tâm hồn vô vọng, kiệt quệ đến tìm kiếm sự bình yên trong tâm trí.
Ông biết khi một nhà báo ngồi trước mặt ông. Ông có thể nhìn thấy điều đó trong mắt họ. Một khát khao, cũng giống như những khách hàng thường xuyên, nhưng đó là ước vọng sai lầm. Mặc dù có những người có ý định viết gì đó mang tính tích cực về cái máy và về ông, ông biết hầu hết bọn họ đang có ý định phá hủy những gì ông tạo dựng nên. Những người này không hiểu nó. Một số sợ nó, còn lại hầu hết họ quá hoài nghi để mở tâm trí mình ra trước cái đẹp. Ông không quan tâm. Ông có thể nhận ra họ ngay khi họ bước qua cánh cửa, nhìn xung quanh với ánh mắt nghi ngờ - đôi mắt soi xét ông, ngôi nhà và cái máy giống như cuộc chất vấn nảy lửa. Những chuyến viếng thăm của họ không nhằm mục đích cải thiện bản thân, mặc dù mỗi người trong bọn họ có thể dành một buổi chất vấn để tìm hiểu tại sao họ lại ghê tởm những thứ không liên quan gì đến họ.
Ông cũng nổi tiếng vì quá khó tính đối với những vị khách của mình, vì hủy những cuộc hẹn quá gấp, đôi khi ngay trước mặt họ, đóng sầm cửa trước những gương mặt lo lắng của người mới đến. Ông có thể cảm nhận sự không trung thực, những người đơn thuần chỉ là tò mò, những người muốn dò hỏi, nhân rộng và phá sạch. Ông không muốn chia sẻ với những người như vậy. Ông không muốn cỗ máy bị sử dụng sai mục đích. Ông chào đón tất cả mọi người - những linh hồn đau buồn, ốm yếu, mất mát, thỉnh thoảng cả những linh hồn không được đặt đúng chỗ.
Ông nhận ra rằng vài năm trước đây ông đã tạo được danh tiếng khá tốt. Lời đồn về cỗ máy lan ra, những tin tức lan truyền về tác giả của nó, ông được biết đến và xuất hiện trên báo; danh sách các khách hàng dài thêm. Nhưng ông đã ngừng hoạt động khi biết cỗ máy của ông chỉ là một xu hưóng thời trang, giận dữ vì công việc của ông giờ chỉ còn là mốt nhất thời. Mong muốn của ông là dành thiết bị này cho những người cần nó, bởi vì chỉ muốn nó thôi thì chưa đủ. Điều đó thể hiện khi ông mang nó đi, ông có nhiều người theo hơn. Ông có danh sách những người chờ đợi dài như Đại lộ Griffith, ông nhận được hàng tá thư mỗi ngày, nhiều hơn số ông có thể giải quyết. Ông miễn cưỡng kết thúc cuộc sống đơn độc của mình và thuê một trợ lý. Một cô gái tự gọi mình là Judith, mặc dù ông nghi ngờ cái tên đó cũng như quần áo trên người cô. Judith. Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ông biết điều đó. Ông không tin rằng còn có nhiều điều ngẫu nhiên hơn thế... Cô không thể biết... nhưng...
Ông gặp cô trên đường Parliament, chỗ Hội trường Thành phố và ba mặt tảng đá Portland nằm phía sau ông, còn dòng sông Liffey và Tòa án Four án ngữ phía trước, khi ông đi bộ với cây gậy trong tay để đến một buổi hầu tòa, chính quyền - những người không hiểu - cố gắng ngăn cản ông. Ông đang đại diện cho chính mình, biết mình phải làm gì, kiến thức còn sót lại từ nghề nghiệp trước đây của ông. Ông vượt qua cô trên đường. Đó là Judith. Một hình thù màu nâu nhỏ nhắn ngồi trên vỉa hè, một cái chăn màu nâu quấn chặt quanh người cô, mái tóc màu nâu sậm dính bết lại, mặt cô đầy tàn nhang như thể mỗi người qua đường lại hất bụi bẩn lên cô. Cô thậm chí không có cả một chiếc ô, mặt đất ẩm ướt lạnh lẽo trơn trượt dưới chân và chỗ cô ngồi, dường như là chỗ khô nhất ở toàn Dublin.
Ông dừng lại bên cạnh cô.
Cô ngước lên.
“Chào ngài.”
“Cô có muốn dùng cái ô của tôi không?”
“Ngài sẽ ướt mất.”
“Nhưng cô cũng đang bị ướt.”
“Đó không phải là ô của tôi.”
“Tôi sẽ đưa nó cho cô.”
“Ngài sẽ bị ướt.”
“Tôi sẽ mua cái khác.”
Ông bước vào cửa hàng và mua một cái ô mới. Một cái ô kẻ sọc màu nâu và màu ô liu bằng sợi tổng hợp với tay cầm bằng nhựa, trông như thể một cơn gió sẽ thổi ngược chiếc ô lên.
.
“Đây.”
Ông đưa cho cô chiếc ô của ông. Nó màu đen, lớn, bằng lụa, với tay cầm bằng bạc thật. Một con đại bàng. Nó từng là một món quà. Từ người mà ông không muốn nói tới. Thậm chí hầu như không nghĩ tới. Ông không nghĩ đến lần thứ hai về việc cho nó đi. Ông đã nghĩ hai lần về việc không nghĩ đến nó lần thứ hai. Điều này hấp dẫn ông, làm ông thắc mắc liệu là ông đã được chữa lành sau một quãng thời gian đằng đẵng. Sau đó ông nghĩ đến gương mặt, mùi cơ thể, sự đụng chạm với cô, tim ông nhói lên và ông biết vết thương vẫn hở, đau đớn như nó vẫn vậy. Cô ấy không phải là chiếc ô, ông không thể cho cô đi.
“Đây là ô của ngài.”
“Nói một cách nghiêm túc, nó là của cả hai ta.”
“Tại sao ngài không đưa cho tôi chiếc ô mới?”
“Tại sao tôi phải làm thế?”
“Cái này quá tốt.”
“Nhưng tôi muốn đưa cho cô cái này.”
“Nhưng tôi không phiền với cái kẻ sọc đâu.”
“Cô thật tốt nhưng tôi là kiểu người nói là làm.”
Cô đặt tay lên tay nắm. Nó quá to trong bàn tay nhỏ bé của cô.
“Tên cô là gì?”
Nghĩ một lúc lâu. Cô đáp: “Judith.”
Một sự tình cờ. Đó là một sự tình cờ. Không có dấu hiệu. Không có những thứ như thế.
“Ừm, chúc một ngày tốt lành, cô...” Ông không thể thốt lên cái tên. Vẫn chưa.
Ông tranh luận tại tòa án ngày hôm đó rằng nhà thôi miên, nhà tâm lý học và những người dùng các phương pháp điều trị thay thế cũng phải bị cấm hoạt động với cùng kiểu “biến đổi tâm trí” mà ông đang bị buộc tội. Ông đặt câu hỏi về thuyết vô thức của Tiến sĩ Freud, cơ chế bảo vệ sự kềm nén, sự di chuyển và thực hành lâm sàng về phân tâm học của ông, cho đến khi tất cả bọn họ mệt mỏi vì phải nghe ông nói. Ông thay đổi tâm trí của mọi người không nhiều hơn họ. Ông trắng án, mặc dù không biết điều đó cho đến vài tuần sau.