Chương 4 Ngày 20 tháng mười một
Edwin Needham, tên thường gọi Ed the Ned, không phải là chuyên viên bảo mật được trả lương cao nhất nước Mỹ, nhưng có lẽ anh ta là người giỏi nhất và ngạo mạn nhất. Sinh trưởng ở South Boston, Dorchester, Ed có người bố đúng nghĩa là một tạo vật xấu xí của Chúa, một gã nát rượu sống lay lắt qua ngày trên bến cảng nhờ những công việc vặt vãnh và tìm quên trong những cuộc chè chén liên miên, với điểm dừng là phòng cấp cứu hoặc nhà tù, một việc chẳng làm ai thích thú.
Thế nhưng những cuộc nhậu của ông bố lại là những khoảnh khắc dễ thở nhất của cả nhà. Khi ông ta đi uống rượu, bà Rita được nghỉ xả hơi đôi chút. Bà có thể ôm hai đứa con vào lòng để an ủi chúng rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thỏa. Những khi Sammy chịu ở nhà, ông ta thường xuyên thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ. Nhiều lần bà nhốt mình hàng giờ, thậm chí cả ngày trong phòng vệ sinh để khóc lóc và run sợ.
Trong những lần ăn đòn nặng nhất, bà còn bị nôn ra máu. Do vậy không ai quá ngạc nhiên khi bà chết vì bị xuất huyết nội khi mới bốn mươi sáu tuổi, cũng như khi chị gái của Ed bập vào ma túy. Họ càng không ngạc nhiên khi người cha và hai đứa con đứng trước tình cảnh phải khăn gói ra đường.
Tuổi thơ của Ed hứa hẹn một cuộc sống xào xáo, và ở tuổi thiếu niên anh ta đã gia nhập băng nhóm có biệt hiệu Bọn Khốn. Băng nhóm này là nỗi kinh hoàng của Dorchester, chuyên tham gia các cuộc chiến tranh băng đảng, tấn công và cướp phá các tiệm tạp hóa. Người bạn thân nhất của Ed, một gã tên là Daniel Gottfried, đã bị đập chết bằng dùi cui và treo xác trong lò mổ. Thời kỳ đó, Ed đã ở bên bờ vực thẳm.
Ngay từ lúc còn trẻ, Ed đã có vẻ bặm trợn và thô lỗ. Việc anh ta không bao giờ cười và bị khuyết hai cái răng ở hàm trên chỉ càng làm mọi thứ tệ thêm. Ed thuộc loại to con, cơ bắp và lì lợm. Khuôn mặt của anh ta thường xuyên mang thương tích, hoặc từ những trận cãi nhau với bố, hoặc từ những lần thanh toán giữa các băng đảng. Hầu hết thầy cô trong trường đều sợ Ed ra mặt. Họ tin chắc anh ta sẽ kết thúc trong tù hoặc với một viên đạn găm trong sọ. Tuy vậy, cũng có một vài người lớn quan tâm đến trường hợp của Ed – chắc hẳn vì ngoài vẻ hung hãn và tính cách bạo lực, đôi mắt xanh thẳm của anh ta còn cho thấy một điều khác.
Ed có một khao khát khám phá không thể thỏa mãn được, một năng lượng cho phép anh ta ngốn ngấu những cuốn sách với cùng một sự hăng hái như khi nghiền ra bã mọi thứ trong các chuyến xe buýt ở địa phương. Thay vì về nhà sau giờ học, anh ta thường ngồi lại hàng giờ trong phòng máy của nhà trường, nơi có vài chiếc máy tính để bàn. Một thầy giáo vật lý người Thụy Điển tên Larsson đã nhận ra năng khiếu tin học của Ed, và cùng với sự can thiệp của cơ quan bảo trợ xã hội, Ed đã được nhận một học bổng cho phép anh ta chuyển đến một ngôi trường có các học sinh tích cực hơn.
Kết quả học tập của Ed ngày càng tốt, anh ta có thêm những học bổng và thành tích mới. Sau đó, anh ta theo học Kỹ thuật điện và Khoa học máy tính tại MIT, Học viện công nghệ Massachusetts, Ed làm luận án tiến sĩ về những mối lo lắng liên quan đặc biệt với hệ thống mã hóa bất đối xứng như thuật toán RSA, trước khi đạt được những vị trí cao cấp tại Microsoft và Cisco. Cuối cùng, anh ta được tuyển dụng vào NSA với trụ sở đặt tại Căn cứ Meade, bang Maryland.
Thật ra mà nói, lí lịch của Ed không thực sự đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của vị trí công việc, không chỉ vì những sai lầm hồi còn trẻ. Hồi học trung học anh ta từng hút cần sa và bày tỏ cảm tình với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí là vô Chính phủ. Anh ta cũng từng bị bắt hai lần vì hành vi bạo lực do ẩu đả trong quán bar. Tính nết của Ed khá cộc cằn, và tất cả những người quen biết đều tránh đối đầu với anh ta.
Tuy thế, tại NSA, người ta đánh giá cao những phẩm chất khác của Ed. Ngoài ra, đó là thời điểm mùa thu năm 2001, bộ phận tình báo Mỹ đang có nhu cầu rất lớn về chuyên gia tin học, nên họ tuyển dụng gần như bất kỳ ai. Những năm sau đó, không còn ai đặt câu hỏi về sự trung thành và lòng yêu nước của Ed. Nếu có người nào tỏ ra thắc mắc, năng lực của anh ta luôn thắng thế trước các khuyết điểm.
Ed không chỉ có một năng lực vượt trội, anh ta còn là một kẻ vô cùng kỹ tính, ám ảnh bởi công việc, và năng suất kinh khủng. Những điều đó hoàn toàn phù hợp cho nhiệm vụ giám sát an ninh thông tin của những cơ quan cao cấp nhất. Và anh ta sẽ không để cho ai đột nhập hệ thống của mình, đó là danh dự cá nhân của anh ta. Ed nhanh chóng trở thành nhân vật không thể thiếu tại Căn cứ Meade, các đồng nghiệp thường xuyên xếp hàng trước cửa phòng làm việc của anh ta để tham khảo ý kiến. Rất nhiều người còn nể sợ anh ta vì Ed không ngần ngại mắng chửi đồng nghiệp khi có bất đồng ý kiến. Ngay cả đô đốc Charles O'Connor huyền thoại, giám đốc của NSA, cũng từng bị anh ta chửi thẳng mặt.
“Dùng cái đầu đầy chữ chết tiệt của ông để hiểu đi”. Ed từng gầm lên như thế khi đô đốc tìm cách nhận xét công việc của anh ta.
Cũng như những người khác, Charles O'Connor mặc kệ. Họ biết Ed la lối và quát mắng là đúng – khi người ta không tuân thủ các điều khoản bảo mật, hoặc phát ngôn những chuyện mà mình chưa nắm bắt được hết. Ed chưa bao giờ xen vào những công việc khác của cơ quan tình báo, mặc dù đặc quyền cho phép anh ta tự do tiếp cận những thông tin tối mật và từ vài năm nay, cơ quan An ninh Quốc gia là tâm điểm của những cuộc đấu đá: những người tả khuynh lẫn hữu khuynh đều coi nó như hiện thân của quỷ dữ, của Anh lớn trong tác phẩm 1984 của Orwell. Đối với Ed, cơ quan sẵn sàng làm bất cứ điều gì anh ta muốn, miễn là hệ thống bảo mật của anh ta chặt chẽ và nguyên vẹn.
Chưa từng lập gia đình nên Ed gần như ăn ngủ tại cơ quan. Anh ta là một người mà họ có thể tin tưởng, và mặc dù anh ta từng là đối tượng của một số cuộc điều tra về tính trung thực, người ta chưa bao giờ tìm được điểm gì đáng phàn nàn ở Ed, ngoại trừ vài lần say xỉn mới đây, trong đó anh ta trở nên khá đa cảm và huyên thuyên về quá khứ của mình. Tuy vậy, ngay cả trong những lúc đó, không có gì cho thấy anh ta từng hé răng với người ngoài về công việc của mình. Nói cách khác, đối với bên ngoài, Ed im lặng như nấm mồ. Nếu bị ai đó đặt câu hỏi về nghề nghiệp, Ed luôn trả lời bằng một câu chuyện bịa đặt đã thuộc nằm lòng, và người ta luôn tìm được bằng chứng khẳng định nó trên mạng hoặc trong các kho dữ liệu.
Không phải ngẫu nhiên, cũng không phải nhờ chạy chọt mà Ed thăng tiến và có được vị trí chuyên viên bảo mật cao cấp nhất tại NSA. Sau đó, anh ta đã siết chặt giám sát nội bộ để “tránh bị những cảnh báo bất ngờ đập thẳng vào mặt”, và sau những đêm thức trắng triền miên, họ đã thiết lập một thứ được gọi là “bức tường không thể phá vỡ”, hoặc “bầy chó săn cực kỳ thính nhạy”.
“Không thằng cha nào có thể xâm nhập, và không thằng chó nào có thể sục sạo ở đây nếu không được phép”, Ed luôn tự hào khẳng định như thế. Mọi thứ suôn sẻ cho đến cái buổi sáng tháng Mười một chết tiệt ấy. Đó là một ngày trời quang mây tạnh. Hoàn toàn khác hẳn thứ thời tiết tồi tệ đang chụp xuống châu Âu, Mọi người đi làm trong trang phục sơ-mi và áo vest nhẹ nhàng. Ed với vòng bụng đã trở nên đẫy đà theo năm tháng tiến đến chiếc máy bán cà phê trên những bước chân nặng nề đặc trưng.
Do cấp bậc của mình, anh ta bỏ ngoài tai mọi quy định trang phục. Ed mặc một chiếc quần jean cùng với áo sơ-mi carô đỏ bỏ ngoài thùng, và thở phì phò khi ngồi vào máy tính. Anh ta cảm thấy không khỏe, lưng và đầu gối phải đau nhói. Ed rủa thầm Alona Casales, một nữ đồng nghiệp từng là nhân viên FBI, vì đã thuyết phục anh ta chạy bộ cùng hai ngày trước đó. Cái đồ ác phụ!
May mắn là Ed không có việc gì gấp gáp phải xử lý. Anh ta chỉ phải soạn một thông báo nội bộ đề ra các quy định mới dành cho những người phụ trách COST – một chương trình hợp tác với các công ty tin học lớn. Nhưng anh ta không kịp làm xong điều đó. Tín hiệu báo động xuất hiện ngay khi Ed đang gõ dòng mở đầu thường lệ:
<Để mọi người không bị cám dỗ bởi việc quay lại với những thói quen ngớ ngẩn, mà thay vào đó tiếp tục giữ cảnh giác như một chuyên viên bảo mật đa nghi cực độ, tôi muốn lưu ý rằng...> Ed không quá lo lắng. Hệ thống báo động của anh ta nhạy đến nỗi cảnh báo ngay khi có bất kỳ biến động nhỏ nào trong luồng dữ liệu. Đây có thể là một sự cố bất thường vặt vãnh, không hơn. Hoặc là cảnh báo về một nhân viên đang cố gắng vượt quá giới hạn thẩm quyền của mình. Nói tóm lại là một sự cố vặt.
Nhưng hóa ra Ed không kịp kiểm tra. Ngay sau tín hiệu báo động, một chuyện kỳ lạ diễn ra khiến anh ta vài giây sau mới tin nổi mắt mình. Anh ta ngồi sững người, nhìn chằm chằm màn hình máy tính dù bộ não vẫn tiếp tục suy nghĩ. Một con RAT đã xâm nhập vào mạng nội bộ NSAnet, và trong những tình huống khác có lẽ Ed đã chửi thầm trong bụng: “Bọn khốn, tao sẽ nghiền chúng mày ra bã”. Nhưng hiện tại, trong cái hệ thống vững chắc và được kiểm soát nghiêm ngặt mà anh ta và đồng đội đã rà soát hàng ngàn lần chỉ trong một năm vừa qua để phát hiện từng khe hở nhỏ nhất thì, không, không thể nào, chuyện này không thể xảy ra.
Ed bất giác nhắm mắt lại, như thể thầm mong sự việc sẽ đâu vào đấy nếu anh ta nhắm mắt đủ lâu. Nhưng khi anh ta nhìn vào màn hình trở lại, dòng chữ đang viết dở đã được hoàn tất như sau:
<... rằng các người nên chấm dứt những hoạt động bất hợp pháp. Những kẻ do thám người khác rốt cuộc sẽ bị người ta theo dõi lại. Đó là một nguyên tắc cơ bản của tính dân chủ.>
— Khốn khiếp. – Ed lầm bầm chửi.
Ít ra đó là dấu hiệu cho thấy anh ta đang định thần trở lại. Nhưng dòng chữ tiếp tục hiện ra thêm:
Đến đây thì Ed gầm lên. Cái từ root đó khiến cho thế giới của anh ta sụp đổ hoàn toàn. Trong vài giây, khi trên màn hình máy tính của anh ta loang loáng hiện ra những phần được bảo mật kỹ nhất của hệ thống, Ed tưởng mình sắp lên cơn đau tim. Anh ta lờ mờ nhận ra mọi người bắt đầu tập trung quanh bàn làm việc của mình.
Hanna Balder đáng lẽ phải ra ngoài đi chợ. Trong tủ lạnh không còn bia, và cũng chẳng còn nhiều thứ để ăn. Lasse có thể về bất cứ lúc nào, anh ta sẽ không hài lòng nếu không có lấy một lon bia để uống. Nhưng thời tiết xấu khiến chị ngần ngại và gác lại chuyện đi mua hàng. Chị ngồi trong bếp chọc chọc cái điện thoại và hút thuốc, mặc dù nó không tốt cho làn da và nói chung là không tốt cho mọi thứ.
Hanna kiểm tra danh bạ hai, ba lần với hi vọng nhìn thấy một cái tên mới. Nhưng chị chẳng tìm được gì. Chỉ toàn những cái tên cũ xì của những người đã ngán chị đến tận cổ. Cuối cùng chị gọi cho Mia dù biết đó là một ý tồi. Mia là người đại diện của chị. Đã có lúc hai người rất thân thiết và mơ ước cùng nhau chinh phục thế giới. Nhưng giờ Hanna là mặc cảm tội lỗi của Mia và không còn đếm nổi những cái cớ cũng như những lời giải thích vớ vẩn mà chị được nghe dạo sau này. “Một diễn viên nữ có tuổi sẽ gặp nhiều khó khăn”, đại loại thế. Sao Mia không nói huỵch toẹt rằng: “Trông chị mệt mỏi quá, Hanna. Công chúng hết yêu thích chị rồi”?
Y như rằng, Mia không nghe máy. Càng tốt. Cuộc nói chuyện sẽ chẳng có lợi cho ai cả. Hanna bất giác nhìn vào phòng của August, chỉ để cảm thấy một sự thiếu vắng đau nhói, như lời khẳng định rằng chị đã làm hỏng thứ quan trọng nhất của đời mình: trọng trách làm mẹ. Ngược đời thay, chuyện đó khiến chị mạnh mẽ hơn đôi chút. Không hiểu thế quái nào mà sự thương hại bản thân lại khiến chị ta cảm thấy được an ủi phần nào. Hanna đứng dậy định bất chấp gió bão đi mua bia thì vừa hay điện thoại đổ chuông.
Người gọi là Frans Balder. Hanna nhăn mặt. Suốt cả ngày chị đã nghĩ đến việc gọi cho ông ta nhưng không dám. Ý định của chị là muốn đón August về lại nhà mình. Không phải vì nhớ thằng bé, càng không phải vì chị nghĩ nó sẽ thoải mái hơn khi sống với mẹ. Đơn giản là chị muốn tránh một thảm họa. Không hơn.
Lasse muốn giành lại August để tiếp tục nhận được tiền trợ cấp. Có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ta đến Saltsjöbaden để đòi lại quyền lợi, Hanna nghĩ bụng. Anh ta có thể dùng vũ lực để đoạt lấy August, lôi nó ra khỏi nhà, làm thằng bé sợ xanh mặt và đánh Balder một trận nhừ tử. Chị cần phải cảnh báo Frans. Nhưng khi Hanna nghe máy, chị không tài nào nói được nửa lời, vì Frans cứ thao thao bất tuyệt về một chuyện “cực kỳ tuyệt vời và vô cùng thú vị”, hay đại loại thế.
— Em xin lỗi anh, Frans, nhưng em chẳng hiểu gì cả. Anh đang nói gì thế?
— August là một đứa trẻ thông thái. Một thiên tài!.
— Anh mê sảng đấy à?
— Ngược lại, cưng à. Cuối cùng anh đã tỉnh ra. Em phải đến đây, phải, ngay lập tức! Đó là cách duy nhất giúp em hiểu ra, anh tin chắc như thế. Nếu không thì em không hình dung được đâu. Anh sẽ trả tiền taxi cho. Anh xin hứa, em sẽ ngã ngửa vì bất ngờ. Anh không biết nữa, hẳn là thằng bé phải có một khả năng ghi nhớ hình ảnh, hoặc đó là một phép màu, nhưng thằng bé đã thành công trong việc nắm bắt các bí quyết vẽ phối cảnh. Nó đẹp lắm, Hanna, chính xác lắm. Nó rực sáng như thể đến từ một thế giới khác.
— Cái gì rực sáng cơ?
— Cái đèn giao thông của August. Em không nghe anh nói à? Cái trụ đèn mà bố con anh đi ngang qua hôm nọ và được thằng bé vẽ một loạt tranh. Chúng còn trên cả hoàn hảo ấy chứ...
— Trên cả hoàn hảo?
— Biết nói thế nào nhỉ? August không chỉ sao chép nó, Hanna, thằng bé không chỉ nắm bắt nó một cách chính xác, và còn thêm vào một thứ khác, một chút nghệ thuật. Có một sự lấp lánh lạ lùng trong điều mà thằng bé đã làm, và nghịch lý là trong đó cũng có một chút toán học. Như thể thằng bé biết khái niệm trục lượng.
— Trục gì cơ?
— Đừng bận tâm, Hanna! Em đến đây mà xem. – Balder lặp lại, và Hanna dần dần hiểu ra.
Không hề báo trước, August đã bắt đầu vẽ như một họa sĩ kỳ tài, theo lời Frans. Nếu đó là sự thật thì tuyệt vời quá. Nhưng Hanna chẳng thấy vui vẻ gì cả và thoạt đầu chị chưa hiểu lý do của cảm giác đó. Nhưng rồi chị bắt đầu nhận ra. Chị không vui vì nó xảy ra ở nhà Frans. Thằng bé đã sống nhiều năm với Lasse và chị mà chẳng có chút tiến bộ nào, suốt ngày chỉ chơi ghép hình hoặc xếp các thứ mà không nói một lời, thỉnh thoảng lên cơn thì hét điếc tai và quăng quật cơ thể tới lui. Vậy mà đùng một cái, chỉ sau vài tuần ở với bố, nó đã trở thành một thiên tài.
Chuyện này thật quá đáng. Tất nhiên Hanna thấy hài lòng cho thằng bé, nhưng nó khiến chị đau nhói. Tệ nhất là chị không ngạc nhiên nhiều như lẽ ra phải thế. Ngược lại, chị có cảm giác mình đã chờ đợi chuyện này. Không phải chuyện August vẽ được một cái trụ đèn giao thông, mà là chuyện thằng bé có một năng khiếu tiềm ẩn.
Hanna đã đoán được điều đó trong đôi mắt của August, trong cái ánh mắt dường như ghi nhận mọi chi tiết xung quanh những lúc thằng bé kích động. Hanna đã đoán được điều đó trong cái cách mà August chăm chú lắng nghe thầy cô, háo hức lật giở những trang sách toán được mẹ mua cho, và trên hết chị đoán được điều đó qua những con số. Không gì đặc biệt cho bằng những con số của August. Nó có thể ngồi hàng giờ viết ra những chuỗi số lạ lùng dài dằng dặc. Hanna đã cố tìm cách hiểu chúng, nhưng bất chấp mọi nỗ lực, chị vẫn chẳng hiểu được gì. Giờ đây, Hanna tự nhủ có lẽ chị đã bỏ lỡ một điều gì đó quan trọng. Phải chăng chị đã quá bất hạnh và quá vị kỷ, đến nỗi không cảm nhận được những thứ diễn ra trong đầu con trai mình?
— Em không biết. – Hanna đáp.
— Em không biết gì kia? – Balder bực bội hỏi lại.
— Em không biết liệu có đến được không. – Hanna đáp đúng lúc nghe thấy tiếng cửa căn hộ bật mở.
Lasse đã về cùng gã bạn nhậu của anh ta, Roger Winter. Theo bản năng, Hanna co rúm người lại, lí nhí xin lỗi Frans, và một lần nữa tự nhủ mình là một người mẹ tồi.
Balder chửi rủa nhặng xị vào chiếc điện thoại trên tay trong căn phòng ngủ với sàn lát gạch kiểu bàn cờ. Ông đã chọn kiểu lát gạch này vì nó phù hợp với tư duy trật tự toán học của ông và tự lặp lại vô tận trong hai cái cánh tủ gương ở hai bên giường. Có những ngày ông tưởng tượng trong sự nhân lên đó một bí ẩn to lớn, một thứ gì đó sống động sinh ra từ những hình ảnh ba chiều và đều đặn, cũng giống như những suy nghĩ và giấc mơ sinh ra từ các nơron của bộ não, hoặc những chương trình máy tính bắt nguồn từ các mã nhị phân.
Tuy nhiên, hiện tại Balder chìm đắm trong những suy nghĩ khác.
— Con ơi, mẹ con đã thành ra cái quái gì thế này?
Ngồi dưới sàn bên cạnh bố, miệng nhai một cái sandwich kẹp phô mai và dưa chuột muối, August ngước lên nhìn ông với ánh mắt quan tâm. Balder bỗng có cảm giác lạ lùng là con trai ông sắp sửa nói điều gì đó rất người lớn và hợp lý. Nhưng tất nhiên suy nghĩ đó thật nực cười, thằng bé vẫn chẳng nói chẳng rằng, và chẳng quan tâm gì đến việc một người phụ nữ trở nên héo tàn và bị vứt bỏ. Chính những bức vẽ của thằng bé đã gieo vào đầu ông hi vọng hão huyền đó.
Những bức vẽ hiện giờ – có cả thảy ba bức – ngoài việc chứng tỏ thằng bé có năng khiếu nghệ thuật và toán học còn là biểu hiện của một dạng thông thái. Với một sự chính xác như của hình học không gian, Balder nhận thấy chúng rất trưởng thành và phức tạp, một điều mà ông không tài nào liên hệ được với những khuyết tật trí tuệ của August. Hay nói đúng hơn là ông không muốn. Vì ông đã đoán ra chuyện này là gì, không chỉ vì cũng như mọi người, ông đã từng xem bộ phim Người đi trong mưa.
Là cha của một đứa trẻ tự kỷ, Balder đã nhanh chóng quan tâm đến hội chứng thông thái. Những người bị mắc hội chứng này theo mô tả vẫn có khiếm khuyết nặng về nhận thức, nhưng lại cho thấy năng lực ấn tượng trong những lĩnh vực cụ thể. Đó là những tài năng mà theo cách này hay cách khác có liên quan với trí nhớ, hoặc khả năng ghi nhận chi tiết một cách phi thường. Balder biết nhiều bậc cha mẹ vẫn hi vọng vào một chẩn đoán hội chứng thông thái, như thể đó là một giải thưởng an ủi, nhưng xác suất của nó không cao. Theo ước lượng, chỉ có một trên mười đứa trẻ tự kỷ mắc hội chứng này. Và trong phần lớn trường hợp, chúng không phải là dạng tài năng xuất chúng như trên phim ảnh mô tả. Chẳng hạn như, có những người tự kỷ có thể nói chính xác một ngày tháng cụ thể rơi vào thứ mấy trong tuần, với khoảng dự đoán kéo dài vài trăm năm – thậm chí bốn mươi ngàn năm ở một số trường hợp đặc biệt.
Những người khác lại có trí nhớ siêu đẳng về một lĩnh vực rất hẹp, chẳng hạn như giờ xe buýt, hoặc số điện thoại. Một số người có thể tính nhẩm với những con số cực lớn trong đầu, hoặc nhớ chính xác thời tiết từng ngày trong suốt cuộc đời mình, hoặc nói giờ chính xác đến từng giây mà không cần xem đồng hồ. Có rất nhiều năng khiếu ít nhiều lạ lùng như thế. Theo như Balder được biết, những cá nhân có năng lực kiệt xuất như vậy được gọi là những “nhà thông thái”. Những con người có thành tích xuất sắc trong một lĩnh vực nào đó và tương phản với khuyết tật của họ.
Tiếp theo là một nhóm người còn hiếm gặp hơn nữa, và Balder tin August thuộc vào nhóm này. Đó là nhóm những người “thông thái phi thường”. Họ có những tài năng xuất chúng, dưới bất kỳ góc độ đánh giá nào. Giống như Kim Peek, người đã là nguồn cảm hứng để xây dựng nhân vật Người đi trong mưa và vừa qua đời gần đây sau một cơn đau tim. Kim không thể tự mặc quần áo và bị khuyết tật trí tuệ nặng. Tuy nhiên, ông ta nhớ được mười hai ngàn quyển sách và có thể đưa ra câu trả lời nhanh như chớp cho gần như bất kỳ câu hỏi về sự kiện nào. Ông đúng là một ngân hàng dữ liệu. Người ta gọi ông là Kimputer.
Ngoài ra còn có những nhạc công như Leslie Lemke, một người mù bị chậm phát triển trí tuệ, nhưng khi choàng tỉnh trong một buổi tối khuya vào năm mười sáu tuổi, Leslie bắt đầu chơi bản concerto số 1 dành cho dương cầm của Tchaikovski một cách điêu luyện, sau khi nghe nó duy nhất một lần trên ti vi và không hề học đàn trước đó, Đặc biệt nhất là trường hợp của Stephen Wiltshire, một người Anh bị tự kỷ với cung cách đặc biệt khép kín, người chỉ nói được từ đầu tiên vào năm sáu tuổi – từ “giấy”. Đến năm lên bảy, Stephen đã có thể vẽ những bản phác họa kiến trúc cực kỳ tỉ mỉ chỉ sau khi nhìn thoáng qua nó. Một ngày nọ, anh đã bay qua London trên trực thăng, quan sát nhà cửa đường phố bên dưới, và sau khi xuống máy bay, anh đã vẽ một bức tranh toàn cảnh thành phố với sự chính xác đáng kinh ngạc. Nhưng anh không chỉ vẽ những thứ đã có sẵn: anh có một khả năng sáng tạo độc nhất vô nhị và hiện tại được xem là một họa sĩ lớn. Họ là nam giới, giống như August.
Chỉ có một trên sáu người thông thái là nữ, điều này có thể liên quan với một trong những nguyên nhân chính của bệnh tự kỷ: một nồng độ testosterone quá cao trong dịch ối của người mẹ. Testosterone có thể làm hư hại mô não của bào thai. Gần như lúc nào cũng là bán cầu não trái bị ảnh hưởng, do nó phát triển chậm hơn và mỏng manh hơn bán cầu não phải. Hội chứng thông thái là sự bù đắp của bán cầu não phải cho các tổn thương nơi bán cầu não trái.
Do hai bán cầu não có vai trò khác nhau – bên trái là nơi chủ yếu dùng để tư duy trừu tượng và phân tích logic – nên kết quả của sự mất cân bằng này là một cách thức quan sát mới mẻ, với khả năng ghi nhận chi tiết đáng kinh ngạc. Nếu Balder hiểu đúng thì August và ông đã nhìn cái trụ đèn giao thông kia theo hai cách hoàn toàn khác nhau. Không chỉ vì thằng bé rõ ràng có khả năng tập trung hơn hẳn, mà còn vì bộ não của ông đã nhanh chóng lọc bỏ những thứ được coi là không quan trọng để tập trung vào cái cốt lõi, ở đây là sự an toàn và thông điệp được ngọn đèn truyền tải: đi hay dừng. Rất có thể sự quan sát của ông cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là những mộng tưởng về Farah Sharif. Vạch sang đường dành cho người đi bộ đã bị pha trộn với một loạt những ký ức và hi vọng mà ông vừa có trong đầu, trong khi với August, nó hiện lên một cách chính xác như bản thân nó vốn thế.
August đã đồng thời quan sát vạch sang đường và người đàn ông đi đối diện với hai bố con ở thời điểm đó, ghi nhận mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Sau đó, thằng bé đã lưu giữ hình ảnh như một bức tranh khắc trong trí nhớ, và cảm thấy có nhu cầu thổ lộ nó vài tuần sau đó. Kỳ lạ hơn, thằng bé không chỉ bằng lòng với việc vẽ lại một cách chính xác trụ đèn giao thông và người đàn ông, mà còn thêm vào một thứ ánh sáng đáng lo ngại. Balder không thể gạt bỏ suy nghĩ rằng August muốn nói với ông điều gì đó chứ không chỉ là: “Nhìn xem con làm được gì này!” Một lần nữa ông quan sát bức tranh với một sự chú ý cao độ. Và lần này, ông cảm thấy như quả tim mình vừa bị một mũi gai đâm xuyên qua.
Balder cảm thấy lo sợ. Có điều gì đó nơi người đàn ông trong bức vẽ. Đôi mắt ông ta cứng rắn và long lên. Quai hàm căng cứng, đôi môi mỏng gần như không thấy được. Tất nhiên ta không nên trông mặt mà bắt hình dong, nhưng càng nhìn, Balder càng thấy ông ta đáng ngại, nỗi sợ hãi chiếm lấy ông như thể ông vừa có một linh cảm.
— Bố yêu con, – Balder thì thào, gần như không nhận ra mình đang nói gì.
Ông lặp lại câu nói đó một, hai lần, vì những từ ngữ đó nghe thật khác lạ đối với ông. Với một nỗi đau chưa từng cảm thấy, ông nhận ra mình chưa bao giờ nói câu vừa rồi. Sau khi cơn choáng váng ban đầu qua đi, ông tự nhủ chuyện này có một điều gì đó thật đáng khinh bỉ. Con trai ông phải thể hiện một năng khiếu ngoại hạng để được nhận tình yêu của bố nó ư? Xét cho cùng, chuyện này cũng không đáng ngạc nhiên. Suốt cả đời ông chỉ tập trung vào thành tích.
Trong công việc, ông chỉ quan tâm đến những thứ mang tính cách mạng và thiên tài. Khi rời Thụy Điển sang Silicon Valley, gần như ông không nghĩ đến August nữa. Về cơ bản, con trai ông là một nguồn kích ứng khó chịu trên lộ trình của những khám phá nổi bật mà Balder đang bận rộn đi tìm.
Nhưng giờ đây, mọi thứ đã thay đổi, ông tự hứa với lòng mình như thế. Ông sẽ gác lại việc nghiên cứu và tất cả những rắc rối trong vài tháng vừa qua, để tập trung hoàn toàn cho con trai mình.
Ông sẽ trở thành một con người mới.
← Thuật ngữ chỉ việc chiếm quyền điều khiển cấp cao để can thiệp vào tập tin hệ thống.