Chương 5 Ngày 20 tháng Mười một
Làm thế nào Gabriella Grane vào làm trong Säpo, chuyện đó không ai có thể hiểu nổi, bản thân chị lại càng không. Chị từng là cô gái mà ai cũng dự đoán một tương lai xán lạn. Đám bạn cũ ở khu Djursholm lo ngay ngáy vì đã bốn mươi ba tuổi đầu mà chị vẫn chưa nổi tiếng hay giàu có, chưa cưới được một đấng phu quân hoàn hảo, hoặc ít ra là vớ đại một tấm chồng.
“Mày bị sao thế, Gabriella? Mày định suốt đời làm cớm à?” Họ thường xuyên hỏi Grane như thế.
Trong đa số trường hợp, chị không buồn cãi lại hoặc nhấn mạnh rằng chị không phải là cớm, mà chỉ là một chuyên viên phân tích đã vượt qua vòng tuyển chọn gắt gao, và hiện tại chị viết những báo cáo sâu sắc hơn hẳn so với hồi còn làm ở Bộ Ngoại giao hoặc trong những dịp hè ngồi biên tập cho tờ Svenska Dagbladet. Ngoài ra, chị cũng không được quyền tiết lộ thông tin. Do đó Grane chỉ im lặng, mặc kệ những lời xét đoán thiếu căn cứ về địa vị xã hội của mình và chấp nhận rằng, việc đi làm cho Säpo là một thất bại hoàn toàn trong mắt đám bạn bè trưởng giả lẫn trí thức.
Đối với họ, Säpo là một bọn ăn hại hữu khuynh, chuyên săn lùng người Kurd và Ả rập vì những lý do phân biệt chủng tộc không buồn che giấu, không ngần ngại gây ra những tội ác nghiêm trọng hoặc làm trái luật để bảo vệ đám cựu gián điệp Liên Xô. Quả thật, đôi khi Grane cũng đồng tình với họ. Säpo có một số kẻ bất tài và những thứ không lành mạnh, minh chứng bởi vết nhơ không thể gột rửa sau vụ Zalachenko. Nhưng Säpo không hoàn toàn tệ hại. Những công việc đầy thách thức và rất quan trọng vẫn được thực hiện tại đây, đặc biệt là kể từ chiến dịch làm trong sạch nội bộ sau vụ bê bối. Thỉnh thoảng Grane còn cảm thấy mình nghe được nhiều ý tưởng thú vị hơn tại Säpo, chứ không phải trong các hội trường hay phòng biên tập, và đây cũng là nơi mà người ta hiểu một cách thấu đáo nhất những biến cố xảy ra trên thế giới. Nhưng tất nhiên chị cũng thường xuyên tự hỏi mình rằng: làm thế nào mình vào được đây, và tại sao mình ở lại?
Rõ ràng là bên cạnh những lý do khác, chị đã xiêu lòng trước những lời tâng bốc. Chính Helena Kraft, sếp mới của Säpo, đã đích thân liên hệ với Grane, cho chị biết là sau những vụ bê bối và những bài báo chỉ trích liên tiếp, Säpo phải thay đổi quy trình tuyển dụng. “Chúng tôi phải làm giống như người Anh, tìm đến những sinh viên có thực tài trong các trường đại học, và phải nói thật, Gabriella, cô là ứng viên tốt nhất. Chỉ cần câu nói đó là đủ.
Grane đã được tuyển dụng làm công việc phân tích chống gián điệp, trước khi chuyển sang ban bảo mật công nghiệp. Cho dù không thực sự phù hợp với tiêu chuẩn của vị trí công việc do là một phụ nữ trẻ, hấp dẫn theo nghĩa tích cực, Grane đáp ứng hoàn hảo mọi tiêu chí khác. Một số người thỉnh thoảng vẫn gây ra va chạm không đáng có khi gọi Grane là “gái cưng” hoặc “cô nàng sang chảnh”, nhưng chị là một tân binh xuất sắc. Nhanh nhẹn, dễ tiếp thu, và có lối suy nghĩ thoáng. Ngoài ra, chị nói được tiếng Nga.
Grane đã học tiếng Nga song song với việc theo học tại Trường Kinh tế Stockholm. Là một sinh viên gương mẫu tuy không phải xuất sắc, Grane vẫn mơ ước một điều gì đó cao cả hơn là lăn lộn trên thương trường, nên sau khi tốt nghiệp, chị đã xin vào làm ở Bộ Ngoại giao. Tất nhiên Grane được chấp nhận một cách dễ dàng, nhưng công việc tại đó không làm chị cảm thấy hào hứng. Các nhà ngoại giao quá cứng nhắc và khuôn phép. Đúng lúc đó thì Helena Kraft liên lạc. Hiện giờ thì Gabriella Grane đã làm việc tại Säpo được năm năm và dần được chấp nhận và năng lực không thể chối cãi, mặc dù công việc không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng.
Ngày hôm đó, mọi việc không hề thuận lợi, không chỉ vì thời tiết xấu. Trưởng phòng Ragnar Olofsson xuất hiện ở phòng làm việc của Grane với vẻ mặt cáu kỉnh và nghiêm khắc. Ông ta nói chị không nên đong đưa trong khi đi làm nhiệm vụ.
— Đong đưa? – Grane hỏi lại.
— Người ta gửi hoa đến tận đây cho cô đấy.
— Hóa ra là lỗi của tôi ạ?
— Phải, tôi cho rằng cô cũng có một phần trách nhiệm. Chúng ta phải cư xử một cách đúng đắn và nghiêm túc ngoài thực địa. Chúng ta đại diện cho một cơ quan nhà nước rất quan trọng.
— Hay quá sếp! Ông luôn dạy cho chúng tôi nhiều điều hay lẽ phải. Cuối cùng tôi đã nhận ra mình phải chịu trách nhiệm cho việc giám đốc chuyên môn của Ericsson không thể phân biệt được sự khác biệt giữa phép lịch sự và trò ve vãn. Cuối cùng tôi cũng hiểu mình nên tự trách bản thân khi một số đàn ông cứ tưởng bở đến độ xem một nụ cười đơn giản là một lời mời gọi lên giường.
— Đừng có ngu ngốc. – Ragnar nói trước khi bỏ đi.
Ngay sau đó Grane cảm thấy hối tiếc vì sự đáp trả của mình. Nói chung loại phản ứng kiểu này chẳng đưa tới điều gì tốt đẹp cả. Nhưng ngược lại, chị đã bị ức hiếp quá lâu. Con giun xéo lắm cũng quằn. Grane nhanh chóng dọn dẹp bàn làm việc và lấy ra một báo cáo của GCHQ bên Anh về gián điệp công nghiệp của Nga tại các công ty phần mềm châu Âu mà chị chưa có thời gian để đọc. Đúng lúc đó điện thoại reo vang. Người gọi là Helena Kraft, một điều khiến Grane vui hẳn lên. Helena chưa bao giờ gọi cho chị để than phiền hay trách móc. Ngược lại thì có.
— Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. – Kraft lên tiếng. – Tôi đang có một cuộc gọi từ bên Mỹ, chuyện này có lẽ khá cấp bách. Cô có thể tiếp nhận nó trên điện thoại Cisco được không? Chúng tôi đã mở một kênh an toàn.
— Tất nhiên là được ạ.
— Tốt. Tôi muốn cô diễn dịch thông tin và đánh giá tình hình. Chuyện này có vẻ nghiêm trọng, nhưng tôi thấy người báo tin có vẻ hơi kỳ quặc. Mà này, chị ta nói là có biết cô đấy.
— Chị cứ nối máy cho tôi.
Đầu dây bên kia là Alona Casales của NSA, và quả thực hai người có biết nhau, nhưng Grane nhanh chóng tự hỏi liệu có đúng là Alona Casales mình quen hay không. Lần cuối cùng hai người gặp nhau là tại một hội thảo ở Washington. Alona tỏ ra là một báo cáo viên tự tin và đầy sức hút trong lĩnh vực được chị gọi trại đi là “chủ động theo dõi tín hiệu”, nói trắng ra là tin tặc. Sau buổi hội thảo, hai người đã đi uống với nhau một chầu. Phải nói là Grane đã mê tít bà chị này. Alona hút xì gà điếu nhỏ, trò chuyện với một chất giọng trầm mê hoặc, cố tình đế thêm những câu pha trò dí dỏm và những từ ngữ bóng gió khá bậy bạ. Nhưng ngày hôm nay, trên điện thoại, chị ta tỏ ra bối rối đến mức không thể nói chuyện mạch lạc.
Alona Casales không phải là người dễ mất tinh thần. Bình thường chị hiếm khi gặp khó khăn trong việc tập trung. Chị bốn mươi tám tuổi, dáng người cao to và nổi tiếng là người nói thẳng. Vòng một đồ sộ và đôi mắt nhỏ tinh anh của chị có thể làm nao núng bất kỳ ai. Casales có biệt tài đi guốc trong bụng người đối diện và không biết đến khái niệm luồn cúi. Chị có thể mắng mỏ không chừa một người nào, kể cả ngài bộ trưởng Bộ Tư pháp, và đó cũng là một trong những lý do khiến Ed the Ned chấp nhận chị. Cả hai người đều không coi cấp bậc là điều gì to tát, với họ năng lực mới là thứ quan trọng. Do đó sếp ngành an ninh của một đất nước nhỏ như Thụy Điển cũng chẳng là gì đối với Casales. Và nếu như trong một cuộc điện thoại chị có tỏ ra hoàn toàn mất tinh thần thì chắc chắn nguyên nhân không phải là Helena Kraft. Tất cả cũng vì thảm họa vừa nổ ra ngay lúc đó trong phòng làm việc chung ở phía sau lưng chị. Mọi người đều đã quen với cá tính nóng nảy của Ed. Anh ta có thể quát tháo, đập bàn đập ghế ngay khi gặp chuyện bực mình dù là vặt vãnh nhất. Nhưng lần này, Casales đã lập tức đoán ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Ed dường như bị tê liệt hoàn toàn. Trong khi Casales lắp bắp mấy từ ngớ ngẩn vào ống nghe điện thoại trên tay, những người khác túm tụm lại xung quanh anh ta. Nhiều người rút di động ra, và tất cả đều tỏ ra hốt hoảng, không ngoại trừ một ai. Dưới ảnh hưởng của cú sốc, Casales đã không gác máy ngay hoặc đề nghị gọi lại sau. Chị đã tiếp tục cuộc đàm thoại và được nối máy với Gabriella Grane, cô nàng chuyên viên phân tích hấp dẫn mà chị đã gặp và cố gắng quyến rũ ở Washington. Mặc dù không thu được kết quả, chị cũng đã cảm thấy hài lòng sâu sắc.
— Chào cưng. – Chị nói. – Khỏe không?
— Bình thường ạ. – Gabriella Grane đáp. – Ở đây đang có bão, ngoài ra mọi chuyện đều ổn.
— Lần trước chị em mình đã có một buổi tối vui vẻ, em há?
— Vâng ạ, rất vui. Em bê bết suốt cả buổi sáng hôm sau đấy. Nhưng em không nghĩ chị gọi để rủ em đi chơi.
— À không, rất tiếc là không. Chị gọi vì bọn chị vừa phát hiện dấu hiệu của một mối đe dọa nghiêm trọng nhằm vào một nhà nghiên cứu người Thụy Điển.
— Ai vậy?
— Bọn chị gặp khó khăn trong việc xử lý thông tin và truy tìm quốc gia nguồn gốc của mối đe dọa. Nó có vài mật danh mơ hồ và được mã hóa một phần, nhưng nhờ những manh mối nhỏ, tụi chị đã... Chết tiệt... Cái quái gì...
— Sao ạ?
— Chờ chị chút xíu!
Màn hình máy tính của Casales chập chờn rồi tắt phụt. Theo những gì chị hiểu, một điều tương tự cũng đang diễn ra trong phòng làm việc chung. Trong một giây, chị tự hỏi mình phải làm gì. Sau đó chị nói chuyện tiếp. Có lẽ chỉ là sự cố điện, mặc dù đèn đóm vẫn sáng.
— Em vẫn đang nghe chị đây. – Grane lên tiếng.
— Cảm ơn em. Chị xin lỗi. Tình hình ở đây đang rối beng. Chị nói tới đâu rồi ta?
— Chị vừa nhắc đến các manh mối nhỏ.
— Đúng rồi, tụi chị cũng lắp ghép được một số chi tiết. Dẫu có chuyên nghiệp đến đâu, rồi cũng có lúc họ sơ sảy hoặc...
— Sao ạ?
—... lỡ miệng nhắc tới một địa chỉ, một chi tiết nào đó. Trong trường hợp này, nó là...
Casales lại im bặt. Người vừa bước vào phòng làm việc chung là chỉ huy Jonny Ingram, một trong những chóp bu của NSA, người có mối liên hệ với những nhân vật cao cấp của Nhà Trắng. Ông ta cố tỏ ra điềm tĩnh như thường lệ, thậm chí còn tếu táo mấy câu với một nhóm người ngồi hơi tách biệt trong góc. Nhưng không ai cười nổi. Ẩn sau khuôn mặt nhẵn nhụi và rám nắng – từ khi nắm trung tâm mã hóa của NSA tại Oahu, ông ta có nước da mạnh khỏe quanh năm – là một vẻ căng thẳng. Dường như ông ta đang kêu gọi sự chú ý của mọi người.
— Alô, chị vẫn còn đó chứ ạ? – Grane lên tiếng ở đầu dây bên kia.
— Thôi rồi, chị phải cúp máy đây. Chị gọi em sau nha. – Casales đáp trước khi gác máy.
Đúng lúc đó, cảm giác lo lắng thật sự xâm chiếm lấy Alona Casales. Bầu không khí nhuốm một cảm giác khó tả, như thể vừa xảy ra một biến cố rất khủng khiếp. Có lẽ là một vụ khủng bố mới. Jonny Ingram tìm cách tiếp tục pha trò để xoa dịu tình hình. Mặc dù mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán và môi, ông ta vẫn khẳng định là sự cố không có gì nghiêm trọng. Có lẽ một con virus đã xâm nhập vào hệ thống bất chấp mọi biện pháp đề phòng, ông ta đã nói như thế.
— Để tránh các rủi ro, chúng tôi đã tắt các máy chủ. – Jonny Ingram cho biết khi rốt cuộc cũng làm tình hình dịu xuống.
Mọi người dường như tự hỏi một con virus thì “có gì ghê gớm lắm đâu” và Ingram bắt đầu huyên thuyên dài dòng thì Casales không kìm được nữa, chị hét lên:
— Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đang thực sự diễn ra!
— Hiện tại chúng tôi chưa biết gì nhiều, chuyện chỉ mới xảy ra. Nhưng rất có thể chúng ta đã bị tin tặc tấn công. Chúng tôi sẽ thông báo với mọi người ngay khi biết thêm thông tin. – Ingram đáp.
Sự lo lắng của ông ta đã thể hiện rõ ràng. Tiếng xì xầm nổi lên khắp gian phòng.
— Lại bọn Iran nữa à? – Ai đó hỏi. – Chúng tôi nghĩ rằng...
Ingram chỉ kịp có thời gian để nói đến đó. Người lẽ ra phải giải thích mọi chuyện ngay từ đầu bất ngờ ngắt lời ông và đứng dậy, lừng lững như con gấu. Một phút trước Ed Needham còn giống như người mất hồn, nhưng lúc này anh ta tỏ ra vô cùng quyết đoán.
— Không. – Anh ta rít lên. – Đây là một hacker, một siêu hacker chết tiệt. Và tôi sẽ bẻ cổ nó. Chấm hết.
Gabriella Grane vừa mới khoác áo để chuẩn bị về nhà thì Alona Casales gọi lại. Thoạt đầu Grane cảm thấy hơi bực. Cũng vì cú điện thoại trước đó, nhưng chủ yếu là do chị muốn chuồn nhanh trước khi cơn bão bên ngoài trở nên quá mạnh. Theo thông tin trên đài, gió sắp sửa thổi trên một trăm cây số giờ và nhiệt độ tụt xuống âm mười độ. Trong khi chị không có quần áo đủ ấm.
— Chị xin lỗi vì đã gọi cho em muộn như vầy. – Alona Casales nói. – Bọn chị vừa trải qua một buổi sáng kinh hoàng. Hỗn loạn toàn tập.
— Ở đây cũng vậy. – Grane nhã nhặn trả lời, mắt liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
— Nhưng chị có việc khẩn cấp phải nói với em. Ít ra chị cũng nghĩ như thế. Chưa thể đánh giá thấu đáo được. Chị vừa kiểm tra một nhóm người Nga, chị kể em chưa vậy? – Casales nói.
— Chưa ạ.
— Ờ, hình như còn có vài người Đức, người Mỹ và một, hai người Thụy Điển nữa.
— Nhóm kiểu gì vậy chị?
— Tội phạm, những tên tội phạm tinh vi, có thể nói như vậy. Chúng không cướp nhà băng, không buôn bán ma túy, mà đánh cắp bí mật công nghiệp và những thông tin kinh tế tối mật.
— Bọn mũ đen.
— Chúng không đơn thuần là hacker. Chúng cũng tống tiền và mua chuộc người khác nữa. Nhiều khả năng chúng cũng tiến hành những tội ác kinh điển như giết người chẳng hạn. Tuy vậy, nói thật với em, chị chưa biết nhiều về bọn này, chị chỉ có một mật danh và những mối liên hệ chưa được khẳng định. Cùng vài cái tên thật của các thanh niên trẻ rành rẽ công nghệ thông tin. Nhóm người này tiến hành gián điệp công nghiệp, do vậy báo cáo về chúng mới xuất hiện trên bàn chị. Bọn chị lo là các công nghệ mũi nhọn của Mỹ đang rơi vào tay người Nga.
— Em hiểu rồi.
— Nhưng tóm được đám này không dễ. Chúng rất giỏi mã hóa. Bất chấp mọi nỗ lực, chị vẫn chưa thể tiếp cận được ban lãnh đạo của chúng. Chị chỉ biết tên kẻ cầm đầu là Thanos.
— Đúng, cái tên này bắt nguồn từ chữ Thanatos, tên của thần chết trong thần thoại Hy Lạp. Đó là con trai của Nyx, nữ thần đêm tối, và là anh em song sinh của thần ngủ Hypnos.
— Màu mè nhỉ!
— Trẻ con thì đúng hơn. Thanos là nhân vật phản diện trong truyện tranh Marvel, em có nhớ cái truyện có Hulk, Iron Man và Captain America không? Chẳng có chất Nga chút nào. Nhưng nó... biết nói thế nào nhỉ?
— Nhạo báng và tự phụ?
— Ờ, giống như một đám học trò thích phá đám chúng ta vậy. Điều đó làm chị bực mình. Nhưng nói thật, có nhiều chuyện khiến chị thấy bất an trong vụ việc này. Chị đặc biệt quan tâm khi các biện pháp theo dõi đã cho thấy trong những người có liên quan có một tên đảo ngũ mà chúng ta có thể dùng làm nội gián nếu nắm được gáy hắn. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, hóa ra sự việc không như bọn chị đã nghĩ.
— Nghĩa là sao ạ?
— Kẻ đảo ngũ đó không phải là tội phạm, mà ngược lại, đó là một người tốt. Ông ta đã rời khỏi doanh nghiệp mà nhóm này đã do thám, nhiều khả năng là sau khi phát hiện ra những thông tin quan trọng.
— Chị nói tiếp đi.
— Theo bọn chị, hiện tại người này đang gặp nhiều mối đe dọa nghiêm trọng. Ông ta cần được bảo vệ. Mãi cho đến gần đây bọn chị còn chưa thể tìm ra nơi ẩn nấp của ông ta. Bọn chị không biết ông ta đã làm việc cho doanh nghiệp nào. Nhưng giờ thì chị đã khoanh vùng được rồi. – Casales nói. – Em biết không, mới cách đây vài ngày, một tên trong nhóm đã bóng gió nhắc tới ông ta khi nói: “Cùng với ông ta, những chữ T siêu nhảm kia cũng lên đường”.
— Những chữ T siêu nhảm?
— Phải, cũng khá kỳ lạ và khó hiểu, nhưng được cái cụ thể. Có thể sử dụng để tìm kiếm được. Tất nhiên, “những chữ T siêu nhảm” không cho kết quả nào, nhưng những chữ T ngắn gọn và có liên quan đến các công ty, đặc biệt là công ty công nghệ cao, thì luôn dẫn bọn chị đến cùng một địa chỉ – Nicolas Grant và phương châm của ông ta: “Tiếp thu, Tài năng và Tập trung”.
— Chúng ta đang nói tới Solifon, đúng không ạ? – Grane hỏi.
— Phải, chị nghĩ như vậy. Ít nhất mọi người cũng có cảm giác tất cả chuyện này phải mang một ý nghĩa nào đó, và bắt đầu đào sâu tìm hiểu để xem ai đã rời Solifon trong giai đoạn gần đây. Thoạt đầu việc điều tra giậm chân tại chỗ. Công ty này có sự biến động nhân sự rất lớn, hình như đó là nguyên tắc cơ bản của họ. Các tài năng phải luôn chuyển động. Sau đó mọi người bắt đầu nghĩ đến ý nghĩa của mấy chữ T kia. Em có biết hàm ý của Grant là gì không?
— Không ạ.
— Đó là công thức sáng tạo của ông ta. Sự tiếp thu đồng nghĩa với việc ta phải lắng nghe những ý kiến khác biệt và những con người khác thường. Càng cởi mở với những cá nhân đặc biệt, ta càng dễ lĩnh hội những ý tưởng mới. Nó hơi giống với Richard Florida và “chỉ số đồng tính” của ông ta, em hiểu không? Nơi nào người ta sẵn sàng tiếp nhận những người như chị, nơi đó cũng có tính cởi mở và sáng tạo nhiều hơn.
— Những tổ chức quá đồng nhất hoặc rập khuôn sẽ không thể phát triển.
— Đúng vậy. Và các tài năng, theo ông ta, không chỉ tạo ra kết quả tốt. Họ còn thu hút những tài năng khác. Họ tạo ra một môi trường hấp dẫn. Thay vì tuyển dụng chính xác những chuyên gia lành nghề thỏa mãn điều kiện, ngay từ đầu Grant đã muốn tuyển dụng những thiên tài trong lĩnh vực máy tính. Đối với ông ta, cần phải để cho các tài năng tự định hướng, chứ không phải ngược lại.
— Vậy còn sự tập trung?
— Ờ thì, những tài năng này phải tập hợp lại với nhau. Và không bị cản trở bởi sự quan liêu. Cũng như không cần phải thông qua các thư ký để xếp lịch hẹn. Họ có thể tha hồ qua lại phòng làm việc của nhau để thảo luận. Các ý tưởng phải được trao đổi một cách tự do. Như em cũng biết, Solifon đã trở thành một điển hình thành công. Họ là người tiên phong trong nhiều lĩnh vực, và ngay cả NSA cũng dùng dịch vụ của họ. Nhưng sau đó một thiên tài mới đã xuất hiện, một người đồng hương của em, và cùng với ông ta...
—... tất cả những chữ T siêu nhảm kia đã tan tành mây khói.
— Chính xác.
— Và em dám cá người đó là Frans Balder.
— Đúng vậy. Chị biết bình thường thì Balder không có vấn đề gì với sự tiếp thu hay tập trung gì gì đó. Nhưng ngay từ đầu ông ta đã tạo ra một môi trường thù địch quanh mình khi từ chối chia sẻ bất cứ điều gì. Rất nhanh chóng, ông ta đã phá vỡ bầu không khí hòa hợp giữa các nhà nghiên cứu cao cấp của công ty. Nhất là khi ông ta bắt đầu tố cáo một vài người trong số họ tội ăn cắp và sao chép. Ngoài ra, Balder cũng xung đột với Nicolas Grant. Nhưng Grant đã từ chối tiết lộ thêm với bọn chị – ông ta chỉ nói đó là việc nội bộ. Không lâu sau, Balder đã xin từ chức.
— Em biết.
— Đa số mọi người đều hài lòng thấy rõ khi ông ta ra đi. Bầu không khí làm việc dễ thở trở lại, và mọi người lại bắt đầu tin tưởng nhau. Ở một mức độ nhất định. Nhưng Nicolas Grant không hài lòng chút nào, và các luật sư của ông ta càng không. Balder đã ra đi mang theo đề án được ông ta nghiên cứu tại Solifon. Mọi người đồn rằng ông ta đang có một thứ gì đó rất chấn động, có thể tạo ra cuộc cách mạng đối với thế hệ máy tính lượng tử mà Solifon đang phát triển.
— Và theo quan điểm của pháp luật, những gì ông ta đã nghiên cứu phải thuộc về công ty, chứ không phải cá nhân ông ta.
— Đúng. Như vậy mặc dù Balder la làng la xóm rằng mình bị chôm chỉa, cuối cùng ông ta mới chính là kẻ cắp. Em thử tưởng tượng mà xem, chuyện này sẽ sớm trở thành một phiên tòa gay cấn. Trừ phi Balder có thể làm mấy tay luật sư run sợ với những thông tin ông ta nắm được trong tay. Chúng là bảo hiểm sinh mạng của ông ta. Có lẽ thế thật, nhưng với kịch bản xấu nhất, nó có thể đồng nghĩa với...
—... cái chết dành cho Balder.
— Đó là điều mà chị đang sợ đây. – Casales nói. – Bọn chị tìm thấy những dấu hiệu ngày càng rõ ràng cho thấy một điều gì đó rất nghiêm trọng sắp diễn ra, và sếp của em đã nói là em có thể giúp chị tháo gỡ vụ này.
Grane nhìn cơn bão bên ngoài, trong lòng dấy lên mong muốn vứt hết tất cả để về nhà. Nhưng rồi chị cởi áo khoác và ngồi vào ghế, thiểu não ra mặt.
— Em có thể giúp gì đây?
— Theo em ông ta đã phát hiện được điều gì?
— Như vậy tức là chị chưa theo dõi hay đột nhập được vào máy tính của ông ta?
— Cưng à, câu này chị không trả lời được. Nhưng em nghĩ thế nào?
Gabriella Grane nhớ lại cách Frans Balder đứng ngay ngưỡng cửa phòng làm việc của chị cách đây không lâu và lí nhí bảo rằng ông ta đang mơ về “một dạng sự sống mới”. Có trời mới biết hàm ý của ông ta là gì.
— Có lẽ chị đã biết, Balder cho rằng mình bị người ta đánh cắp công trình nghiên cứu tại đây, tại Thụy Điển. FRA đã tiến hành vài cuộc điều tra cho thấy ông ta nói có phần đúng, mặc dù không phát hiện được gì thêm. Đó là lúc em gặp Balder lần đầu tiên, và em không thích ông ta cho lắm. Balder chẳng biết gì về những chuyện không có liên quan tới công trình nghiên cứu hoặc cá nhân ông ta. Em đã tự nhủ không có thành công nào trên thế giới này xứng đáng với việc phải chịu đựng một đầu óc hạn hẹp như thế. Nếu cần phải có thái độ như vậy để đổi lấy uy tín toàn cầu thì em không thể. Dù là trong mơ. Nhưng có thể em bị ảnh hưởng bởi những phán quyết chống lại ông ta.
— Về quyền nuôi con á?
— Vâng, Frans Balder đã bị mất quyền nuôi đứa con trai tự kỷ, do cho tới lúc tòa ra phán quyết, ông ta chẳng ngó ngàng gì tới thằng bé. Có lần, thằng bé đã bị cả chồng sách rơi xuống đầu mà bố nó không hề hay biết. Em không ngạc nhiên khi biết ông ta đã gây thù chuốc oán với mọi người ở Solifon. Em nghĩ như thế càng tốt cho Balder.
— Vậy còn sau đó?
— Sau đó, Balder quay về Thụy Điển, và bọn em đã tự hỏi liệu có phải bảo vệ ông ta theo cách nào đó hay không. Em mới gặp ông ta cách đây vài tuần, và phải thú thật là em kinh ngạc trước sự biến đổi của Balder. Ông ta đã cạo râu, cắt tóc và giảm cân. Nhưng ông ta cũng tỏ ra mềm mỏng hơn, thậm chí có một chút thiếu tự tin. Em đã hỏi Balder liệu ông ta có lo lắng trước phiên tòa trong tương lai hay không. Đố chị biết ông ta trả lời em thế nào đấy?
— Chị không biết.
— Ông ta đã nói với giọng mỉa mai rằng mình hoàn toàn chẳng lo gì cả, bởi vì mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
— Tức là sao?
— Tức là tất cả chúng ta đều bình đẳng, nếu chấp nhận trả giá. Trong thế giới của Balder, luật pháp chỉ là một thanh gươm dùng để chém những người như ông ta. Vậy tức là ông ta có lo lắng. Balder lo ngay ngáy vì biết được những chuyện quan trọng, mặc dù chúng là lá bùa hộ mạng của ông ta.
— Nhưng ông ta không chịu hé răng?
— Ông ta không muốn đánh mất ưu thế duy nhất của mình. Balder muốn đợi cho đến khi đối phương sẵn sàng vào cuộc. Nhưng em cảm thấy ông ta đang dao động. Ông ta nói là có người muốn hại mình.
— Theo cách nào?
— Không phải hại theo kiểu xâm phạm thân thể. Theo Balder, người ta muốn có công trình nghiên cứu và danh tiếng của ông ta Nhưng em không chắc ông ta có thực sự nghĩ rằng mọi chuyện không thể đi xa hơn hay không. Em đã khuyên Balder nuôi một con chó giữ nhà. Em nghĩ chỉ là một người bạn tuyệt vời đối với một người sống trong một ngôi nhà quá rộng ở vùng ngoại ô. Nhưng Balder không đồng tình. Ông ta khẳng định với giọng khá cương quyết là không thể nuôi chó vào lúc này.
— Theo em, nguyên nhân là gì?
— Em không biết. Em có cảm giác ông ta đang chịu một gánh nặng nào đó. Dẫu sao thì Balder cũng không phản đối quá khi em đòi gắn thiết bị báo động tại nhà ông ta. Nó vừa mới được lắp đặt xong.
— Bởi ai?
— Một công ty bảo vệ mà bọn em thường nhờ đến, An ninh Milton.
— Tốt. Nhưng dù vậy chị khuyên em nên tìm cho ông ta một nơi an toàn.
— Chuyện nghiêm trọng tới mức ấy ạ?
— Có lẽ thế. Đủ nghiêm trọng để thực hiện mọi biện pháp đề phòng, em không nghĩ thế sao?
— Có chứ, tất nhiên rồi. – Grane đáp. – Nếu chị gửi cho em một chút tài liệu để em có thể giải trình với sếp.
— Để chị xem, nhưng chị không biết liệu có làm ngay được không nữa. Bọn chị đang gặp... vài trục trặc khá nặng trong hệ thống máy tính.
— Một tổ chức như NSA mà cũng để cho chuyện đó xảy ra được á?
— Không, tất nhiên là không rồi. Chị sẽ liên lạc với em sau, nha cưng. – Casales nói trước khi cúp máy.
Gabriella Grane ngồi bất động một lúc, mắt nhìn cơn bão hoành hành mỗi lúc một dữ dội ngoài cửa sổ.
Tiếp đó, chị rút chiếc Blackphone ra và gọi cho Frans Balder. Chị nhất định phải nói chuyện với ông ta. Không phải chỉ vì chị muốn cảnh báo và bảo đảm ông ta chuyển đến một nơi an toàn, mà còn vì chị bỗng dưng cảm thấy rất muốn tìm hiểu hàm ý của Balder khi ông ta nói: “Dạo gần đây, tôi đã mơ đến một dạng sự sống mới”.
Sẽ không ai tin nổi nếu biết lúc đó Frans Balder đang bận hối thúc con trai vẽ thêm một bức tranh nữa. Một bức tranh với cùng phong cách lạ lùng như thể thuộc về một thế giới khác.
← Viết tắt của Government Communications Headquarters – Tổng hành dinh Thông tin Chính phủ (cơ quan tình báo Anh).