← Quay lại trang sách

- 19 -

11 tháng Một

mười chín ngày

sau vụ mất tích

– Tôi sẽ không cho phép bất cứ sự bắt giữ nào.

Rebecca Mayer nói câu đó với giọng cương quyết. Một lần nữa Vogel đụng phải sự cứng rắn của nữ công tố viên.

– Cô đang làm hỏng mọi chuyện đấy. – Ông đáp. – Cần phải bắt giam tay thầy giáo, nếu không mọi người sẽ bảo là chúng ta truy bức một người vô tội chẳng vì lý do gì.

– Thế không phải vậy sao?

Vogel đã cung cấp manh mối mang tính quyết định: hình ảnh phóng to trích từ các đoạn phim thu được từ camera an ninh của những ngôi nhà hàng xóm nhà Kastner. Ông đã hy vọng chúng đủ để làm thay đổi cục diện. Nhưng không.

– Tôi cần một bằng chứng chắc chắn. Tôi còn phải nói như thế nào với ông nữa?

– Các bằng chứng dùng để buộc tội, các manh mối cho phép bắt giữ. – Vogel đáp. – Nếu chúng ta bắt giam Martini, rất có thể anh ta sẽ quyết định hợp tác.

– Ông định bức cung để buộc anh ta nhận tội à?

Cuộc đấu khẩu cứ tiếp diễn như thế trong khoảng hai mươi phút, trong phòng làm việc dã chiến của Vogel.

– Khi anh ta nhận ra mình đã mất tất cả và không có đường thoát, Martini sẽ khai ra để lương tâm được thanh thản.

Hai người đang đứng giữa những dãy tủ, Rebecca Mayer sốt ruột nhịp nhịp gót giày trên mặt sàn.

– Tôi hiểu trò chơi của ông rồi, Vogel, tôi không ngu đâu: ông muốn dồn tôi vào chân tường để ép tôi ra một quyết định đi ngược lại mong muốn. Ông đang dọa biến tôi thành trò hề trước công luận.

– Tôi không cần đe dọa cô để đạt mục đích. Thâm niên và kinh nghiệm của tôi đủ để tạo ra sự tin tưởng cho các giả thiết của tôi.

– Giống như trong vụ kẻ cắt xẻo?

Vogel tự hỏi tại sao Rebecca Mayer không đánh con bài này sớm hơn. Ông mỉm cười.

– Cô chẳng biết cái quái gì về vụ Derg cả. Cô tưởng mình biết, nhưng thực ra là không.

– Thế có chuyện gì tôi cần phải biết nào? Một người đàn ông đã bị tống vào tù vì một cáo buộc hoàn toàn vô căn cứ. Anh ta đã trải qua bốn năm cuộc đời trong xà lim chật chội và mất tất cả, từ sức khỏe cho đến những người thân. Anh ta suýt chết vì sung huyết não. Tất cả là do đâu? Bởi vì ai đó đã bẻ cong quá trình điều tra với một bằng chứng ngụy tạo. – Nữ công tố viên nhắc lại với giọng khinh bỉ. – Ai dám đảm bảo với tôi rằng chuyện đó không tái diễn?

Vogel không thèm đáp trả. Ông nhặt những tấm ảnh mà mình đã trải ra trên mặt bàn, thứ mà ông tưởng là những con át chủ bài của mình, rồi đi ra cửa, định bụng sẽ bỏ đi một mạch.

– Ông có còn nhớ cái ngày mình đánh mất uy tín không, thanh tra Vogel?

Vogel khựng lại ngay trên ngưỡng cửa. Có gì đó đã ngăn không cho ông ra đi. Ông quay lại, đối mặt với nữ công tố viên bằng ánh mắt thách thức.

– Derg đã được tòa tuyên vô tội, hắn thậm chí đã được bồi thường hậu hĩ cho bốn năm ngồi tù oan sai… Nhưng nếu hắn không phải là kẻ cắt xẻo, thì vì sao những vụ tấn công đột ngột chấm dứt khi hắn bị bắt?

Không đợi câu trả lời, Vogel bước ra ngoài.

Trong phòng thể chất được chuyển đổi công năng thành phòng tác chiến, Vogel được chào đón bằng một sự im lặng tuyệt đối. Những thuộc cấp của ông chắc chắn đã nghe được cuộc cãi vã, họ nhìn ông và tự hỏi phải chăng tất cả công sức mình đã bỏ ra trong gần hai chục ngày trời vừa qua chỉ là vô ích.

Vogel quay sang nói với Borghi:

– Đã đến lúc nói chuyện với tay thầy giáo.

Buổi sáng nắng tràn, thật khác thường đối với thời tiết tháng Một. Người ta không thể tin nổi mình đang ở giữa mùa đông. Loris Martini dậy từ sớm. Hay đúng hơn, anh bị đánh thức bởi những ý nghĩ đáng lo ngại.

Đã đến lúc rồi. Họ sẽ bắt mày sớm thôi.

Dẫu vậy, anh không muốn làm hỏng một ngày đẹp trời. Anh đã hứa với Clea và sẽ giữ lời. Thế là anh cầm lấy hộp đồ nghề rồi đi ra vườn, nơi các nhà báo và đám người hiếu kỳ không thể quấy rầy. Ở đó, dưới sự che chắn của hàng dậu, anh bắt đầu chỉnh trang lại nhà kính.

Trong lúc đóng những chiếc đinh bằng búa, Martini cảm thấy ánh nắng chiếu vào gáy, những giọt mồ hôi chảy xuống trán, sự mỏi mệt nơi những thớ cơ, và sâu trong trái tim. Như một sự tái sinh. Nhưng có những khoảnh khắc nỗi buồn vẫn quay lại. Nó ở đó, im lặng, nhắc anh vì sao anh ra nông nỗi này, vì sao anh mất tất cả.

Mọi chuyện đã khởi đầu trước khi anh đến Avechot. Ngôi làng trên núi tưởng đâu là một nơi tốt nhất để bắt đầu lại, nhưng nó chỉ là vĩ thanh của một câu chuyện tồi tệ.

Chuyện đó. Stella Honer biết chuyện đó.

Martini tự hỏi làm thế nào chị ta biết được. Câu trả lời ở ngay trước mắt anh, nhưng anh không nhận ra ngay. Chuyện này thường xảy ra với những người đàn ông ngây thơ. Nhất là những người bị mất vợ vào tay kẻ khác mà không hay biết.

Người tình cũ của Clea đã bán cái tin đó. Đơn giản là thế.

Phải nói rằng cho tới lúc này, anh gần như vẫn đánh giá cao anh ta. Có lẽ là do Clea đã chọn anh ta, và anh tin vào quyết định của vợ mình. Một suy nghĩ dở hơi, anh biết chứ. Nhưng đó cũng là một cách để nâng giá chị trong con mắt của anh, bởi vì anh không thể chấp nhận rằng Clea lại nông cạn đến thế.

Chúng ta luôn cố cứu những người khác để tự cứu mình, anh nghĩ thầm. Và có lẽ việc: đóng vai một người chồng thông hiểu đã giúp anh khỏi phải đối đầu với sự thật.

Nếu Clea phản bội anh thì cũng là do lỗi của anh.

Buổi sáng đầu tháng Sáu xa xăm ấy, trò đùa ngu ngốc của một học sinh đã làm buổi học chấm dứt sớm. Cú điện thoại nặc danh cảnh báo về một quả bom trong trường là chuyện thường thấy vào cuối năm học, khi các học sinh tìm cách né tránh những bài kiểm tra cuối cùng để khỏi bị đúp. Không ai tin chuyện đó, nhưng luật bắt phải tuân theo các quy định an toàn. Do vậy, tất cả mọi người được về sớm.

Khi về đến căn hộ nhà mình, Martini được chào đón bằng một sự im lặng bất ngờ. Thường thì Clea và Monica đã có mặt ở nhà, anh sẽ nghe thấy tiếng tivi hoặc tiếng của dàn âm thanh, hoặc đơn giản là anh ngửi thấy mùi của họ. Mùi hoa huệ chuông của Clea, mùi kẹo cao su dâu của Monica. Nhưng sáng hôm ấy, anh không bắt gặp những điều đó.

Trên chuyến xe buýt về nhà, Martini đã nghĩ cách tiêu hết khoảng thời gian trống trước mắt. Anh định sẽ chuẩn bị để cho kỳ thi cuối năm học. Nhưng khi về đến nhà, anh nhận ra mình không có hứng cho chuyện đó. Anh tiến lại chỗ tủ lạnh, rồi sau khi làm một lát bánh mì kẹp phô mai và xúc xích, anh ngồi vào chiếc ghế bành, bật tivi với âm lượng thật nhỏ. Trên truyền hình đang chiếu lại một trận bóng rổ. Anh thấy mừng vì được có một chút thời gian cho riêng mình.

Martini không nhớ chuyện đó xảy ra chính xác vào thời điểm nào. Anh có ăn hết lát bánh mì không, tỉ số trận đấu là bao nhiêu? Nhưng anh nhớ rất rõ tiếng động xen giữa giọng bình luận viên và tiếng đập bóng.

Nó giống như một tiếng đập cánh, một tiếng sột soạt.

Thoạt tiên anh quay đầu để tìm hiểu xem nó tới từ đâu. Sau đó, bản năng thúc đẩy anh đứng dậy. Tiếng động đã tắt, nhưng anh vẫn bước ra hành lang. Bốn cánh cửa khép kín, mỗi bên hai cái. Anh quyết định chọn cửa phòng ngủ. Anh mở nó ra thật nhẹ nhàng, và trông thấy họ.

Họ không nhận ra sự hiện diện của anh. Cũng như anh ban nãy đã không nhận ra sự hiện diện của họ. Trong căn hộ nhỏ, họ tiếp tục mơn trớn nhau trong nhiều phút, không hay biết gì. Và đáng lẽ họ sẽ tiếp tục như thế, nếu như định mệnh không bày ra cuộc chạm trán này.

Clea trần truồng, đôi chân và khung chậu được tấm vải giường che phủ. Đôi mắt chị nhắm nghiền, cơ thể chị ở trong một tư thế rất quen thuộc với anh. Martini tập trung vào người đàn ông đang ở bên dưới chị, tưởng như anh đang nhìn chính mình. Nhưng không, đó là một người khác. Anh ta hoàn toàn xa lạ với khung cảnh này.

Martini không còn nhớ được điều gì khác sau đó.

Clea đã kể với anh rằng chị nghe thấy tiếng cửa phòng đóng lại. Và chỉ khi đó chị mới ý thức được chuyện gì vừa xảy ra.

Lúc anh quay về nhà, nhiều giờ sau đó, chị đã mặc một chiếc áo chui đầu màu trắng và một chiếc quần rộng thùng thình. Chắc chị muốn che đi cơ thể, và cùng với nó là tội lỗi của bản thân. Clea ngồi đúng trên chiếc ghế mà anh đã ngồi khi xem bóng rổ. Đầu gối co lên ngực, chị đong đưa người tới lui. Chị nhìn anh với đôi mắt lơ đãng. Tóc chị rối bù, khuôn mặt nhợt nhạt. Chị không tìm cách xin lỗi.

– Chúng ta hãy rời bỏ nơi này. – Clea đã nói như thế. – Ngay lập tức. Ngay ngày mai.

Còn anh, người trong chuyến đi lang thang vô định khắp thành phố đã cố tìm một điều gì đó để nói với chị nhưng hoài công, anh chỉ đáp gọn lỏn:

– Đồng ý.

Kể từ lúc ấy, họ không bao giờ nhắc lại chuyện đó. Chuyến dọn nhà đến Avechot diễn ra mười lăm ngày sau. Chị đã từ bỏ công việc yêu thích và mọi thứ khác để được tha thứ trong im lặng. Lúc đó, Martini hiểu chị sợ mất anh. Giá mà chị biết anh còn sợ điều đó hơn cả chị…

Điều tồi tệ nhất là việc khám phá ra danh tính của gã đàn ông đã khiến vợ anh phản bội chồng. Anh ta là luật sư, giống chị, anh ta có điều kiện và tiền bạc để lôi chị ra khỏi cuộc sống buồn tẻ mà người chồng đã tặng cho chị.

Martini phải thừa nhận điều hiển nhiên và chấp nhận sự thật phũ phàng: Clea xứng đáng được một cuộc sống tốt hơn.

Thế là họ náu mình trên núi để khỏi phải nghĩ lại chuyện đó. Dẫu vậy, thứ axit tồn dư của vụ ngoại tình đã gặm nhấm dần tình yêu còn lại trong họ. Martini cảm thấy như vậy. Và anh bất lực.

Chính vì thế mà anh đã hứa. Không bao giờ nữa.

Giờ đây, dưới ánh nắng không đáng có của buổi sáng tháng Một, anh nghĩ tới chuyện đó một lần nữa, thầm mong đấy là lần cuối cùng.

Khi chuông điện thoại trong nhà vang lên, anh thả chiếc búa xuống lớp cỏ bị chết khô trong mùa đông và chạy vào nhà để bốc máy.

– Đồng ý, tôi sẽ tới. – Anh chỉ nói có vậy vào ống nghe.

Sau đó, anh mở tủ lạnh. Trong tủ vỏn vẹn có một quả táo nhăn nheo và bốn chai bia. Martini lấy một chai và quay ra vườn. Anh dùng chiếc tua vít mở nắp chai bia, rồi ngồi xuống lớp cỏ chết khô, lưng dựa vào cột nhà kính. Anh nhấm nháp thứ chất lỏng màu hổ phách và nhắm mắt lại.

Khi uống xong, Martini nhìn xuống bàn tay bị thương vào cái ngày Anna Lou mất tích. Anh tháo lớp băng ra và xem xét vết thương. Nó đã gần lành.

Anh bèn cầm lấy tua vít vừa dùng để khui bia và làm điều tương tự với vết thương của mình. Anh chọc đầu sắt nhọn vào sâu trong thịt và banh hai mép vết thương ra. Không một tiếng kêu nào phát ra từ miệng anh. Trong quá khứ anh đã là thằng hèn, anh đáng bị cơn đau này.

Máu chảy ra, vấy bẩn trên quần áo anh và chậm rãi nhỏ giọt xuống mặt đất.

Cái nắng nóng ban ngày đã chỉ còn là hoài niệm. Tối đến, những cụm mây dày xâm chiếm thung lũng và trút xuống đó một cơn mưa nặng hạt.

Trên khung cửa kính của quán ăn ven quốc lộ, dòng chữ Nghỉ lễ vui vẻ vẫn chào đón cánh tài xế đi ngang qua. Lễ Giáng sinh và ngày đầu năm mới đã trôi qua từ lâu, nhưng không ai có thời gian để gỡ nó xuống. Công việc quá bận rộn trong những ngày vừa qua.

Tuy vậy, vào lúc 22 giờ tối hôm đó, quán ăn vắng ngắt.

Vogel đã yêu cầu chủ quán dành cho mình một góc riêng. Không phải ông đang đòi hỏi được biệt đãi sau bước tiến đột ngột của cuộc điều tra, mà ông biết tay chủ quán thừa hiểu ông ta nợ ông.

Cửa kính ra vào bật mở, tiếng chuông leng keng vang lên. Người khách đi vào, giậm chân để giữ những giọt nước mưa trên áo khoác, sau đó gỡ mũ và nhìn quanh.

Trong quán khá tối, ngoài một bóng đèn chiếu sáng một cái góc sát tường. Vogel đang ngồi đợi ở đó. Martini tiến lại chỗ ông ta, đôi giày Clarks ướt nhẹp kêu ken két khi miết lên mặt sàn lót vải sơn. Anh ngồi xuống phía bên kia chiếc bàn bằng formica màu xanh da trời, đối diện với ông thanh tra.

Vogel vẫn lịch lãm như thường lệ. Vẫn mặc nguyên áo khoác trên người, ông nhịp nhịp ngón tay trên tập hồ sơ mỏng trước mặt.

Đây là lần đầu tiên họ gặp nhau.

– Anh có tin vào những câu tục ngữ không? – Vogel hỏi luôn.

– Ý ông là gì?

– Tôi luôn bị thu hút bởi cách phân biệt đúng sai rất cơ bản ấy… Luật pháp thì ngược lại, vô cùng phức tạp. Lẽ ra nó nên được viết như những câu tục ngữ.

– Ông nghĩ cái đúng và cái sai đơn giản lắm à?

– Không, nhưng tôi thấy nếu một số người coi chúng như vậy thì càng hay.

– Cá nhân tôi tin rằng sự thật không bao giờ đơn giản.

– Anh có lý. – Vogel gật gù.

Martini đặt hai tay lên bàn. Anh rất bình thản.

– Tại sao ông muốn chúng ta gặp nhau tại đây?

– Để không có camera hoặc micro. Không có đám nhà báo quấy rầy. Không có những trò tiểu xảo. Chỉ có anh và tôi… Tôi muốn cho anh một cơ hội để thuyết phục tôi rằng tôi đã sai, rằng sự liên quan của anh trong câu chuyện này chỉ là kết quả của một sự trùng hợp.

– Được thôi. – Martini đáp, cố tỏ ra tự tin. – Chúng ta bắt đầu từ đâu đây?

– Anh không có chứng cứ ngoại phạm vào ngày xảy ra vụ mất tích, ngoài ra anh còn bị thương ở bàn tay. – Vogel chỉ vào lớp băng lấm máu. – Tôi thấy nó chưa lành, có thể anh cần vài mũi khâu.

– Vợ tôi cũng nghĩ thế. – Martini nói để cho Vogel hiểu anh không thèm nhận sự quan tâm giả vờ của ông ta. – Đó là một tai nạn. Tôi bị trượt chân và phải bám vào một cái cành cây để hãm cú ngã.

Vogel xem xét tập hồ sơ nhưng không mở nó ra.

– Kể cũng lạ, vì bác sĩ giám định nhận xét vết thương có bờ đồng nhất… như thể nó bị gây ra bởi một lưỡi dao.

Martini không đáp, nhưng Vogel không dồn ép. Ông nói tiếp:

– Chiếc xe hơi của anh xuất hiện trong nhiều đoạn phim Mattia quay được. Anh sẽ nói với tôi rằng nó chỉ là sự tình cờ, và dù sao thì chúng tôi cũng không nhìn thấy được người cầm lái. Xét cho cùng, chiếc xe đó là sở hữu của cả gia đình anh… Nhân tiện, vợ anh có bằng lái chứ?

– Tôi là người lái xe, đừng có lôi vợ tôi vào đây.

Martini đã không làm theo chỉ dẫn của Levi, nhưng mặc kệ. Anh không muốn Clea bị liên lụy, cho dù việc đó có thể có lợi cho anh.

– Chúng tôi đã kiểm tra phần bên trong chiếc xe. Không có dấu vết ADN của Anna Lou, nhưng lạ một điều là, chúng tôi tìm thấy nhiều sợi lông mèo.

– Chúng tôi không nuôi mèo. – Martini thật thà tự bào chữa.

Vogel chồm người tới trước và nói bằng giọng ngọt ngào:

– Anh sẽ nói thế nào nếu con vật đó là mối liên hệ giữa anh và địa điểm cô bé mất tích?

Martini tỏ ra không hiểu, nhưng trong ánh mắt của anh có sự tò mò pha lẫn sợ hãi.

– Có một thứ đã khiến tôi chú ý ngay từ đầu. – Vogel nói tiếp. – Tại sao Anna Lou không chống cự khi bị bắt cóc? Tại sao cô bé không kêu cứu? Không một người hàng xóm nào nghe thấy tiếng la hét. Tôi đã đi đến kết luận rằng cô bé tự nguyện đi theo kẻ bắt cóc mình… vì tin tưởng hắn.

– Nếu thế thì ông có thể loại trừ tôi. Anna Lou học tại ngôi trường mà tôi dạy, nhưng ông sẽ không thể tìm ra bất cứ ai từng thấy chúng tôi đi cùng nhau, hay chỉ đơn thuần là nói chuyện với nhau.

– Quả vậy. Anna Lou không quen biết kẻ bắt cóc… Cô bé quen con mèo của hắn.

Cuối cùng Vogel cũng mở tập tài liệu và đưa ra một tấm ảnh phóng to mà sáng nay ông đã sử dụng để thuyết phục Rebecca Mayer ra lệnh bắt giữ Martini.

– Chúng tôi đã nghiên cứu các đoạn video an ninh thu được từ những ngôi nhà hàng xóm của Anna Lou. Đáng tiếc thay, không có chiếc máy quay nào hướng ống kính ra ngoài đường. Người ta nói thế nào nhỉ? Vườn nhà ai người ấy rào. Nhưng dẫu vậy, kết quả cho thấy trong mấy ngày trước vụ mất tích, một con mèo hoang đã đi lang thang trong khu phố.

Martini quan sát tấm ảnh. Một con mèo lớn có bộ lông màu hung lốm đốm nâu đang ngồi trên một bãi cỏ.

– Anh có thấy thứ nó đeo trên cổ không? – Vogel hỏi.

Martini nhìn tấm ảnh kỹ hơn. Anh trông thấy một cái vòng cổ kết bằng những hạt nhựa màu.

Vogel tháo từ cổ tay mình chiếc vòng được Maria Kastner đưa cho và đặt nó bên cạnh tấm ảnh.

– Anna Lou đã làm chúng để tặng cho những người cô bé quý mến.

Martini dường như bị tê liệt, không thể phản ứng.

Vogel quyết định đã đến lúc đánh con bài tẩy.

– Kẻ bắt cóc đã dùng con mèo làm mồi nhử. Hắn đã đem nó tới vài ngày trước đó, thả cho nó đi loanh quanh tự do trong khu phố, và tin chắc rằng Anna Lou, một người rất thích mèo nhưng lại không được nuôi, sẽ trông thấy nó, không sớm thì muộn… Thế nhưng, cô bé không chỉ để ý tới con mèo mà còn nhận nuôi nó, đeo cho nó cái vòng cổ này. Thế nên, thầy Martini à, kể từ hôm nay, tôi sẽ không bám riết anh nữa. Chỉ cần tôi tìm được con mèo đó, anh coi như xong.

Tiếp theo là một sự im lặng trong vài phút. Vogel biết mình đã nắm thóp được thầy giáo Martini. Ông nhìn anh ta, chờ đợi một phản ứng, một điều gì đó cho thấy ông đã nhầm. Nhưng Martini không nói một lời. Anh chỉ đứng dậy và bình thản tiến ra cửa. Trước khi bước ra ngoài, anh quay người lại một lần cuối.

– Về mấy câu tục ngữ ấy. – Anh lên tiếng. – Trước đây có người đã nói với tôi rằng: Tội lỗi ngu xuẩn nhất của con quỷ là sự hợm hĩnh.

Nói đoạn anh rời quán ăn, bỏ lại tiếng leng keng của chiếc chuông gắn trên cửa.

Vogel tận hưởng sự yên tĩnh thêm một chút. Ông tin mình vừa ghi được một điểm quan trọng. Tuy nhiên Rebecca Mayer vẫn là một trở ngại. Ông phải tìm ra cách để vô hiệu hóa cô ta.

Tội lỗi ngu xuẩn nhất của con quỷ là sự hợm hĩnh.

Ông tự hỏi Martini muốn ám chỉ điều gì khi nói câu đó. Nó có thể được xem là một lời sỉ nhục. Nhưng Vogel không bị chạm tự ái. Ông thừa biết con người ta luôn đáp trả mọi cú đánh nhận được. Và giờ của tay thầy giáo đã điểm.

Vogel quyết định ra về. Trong lúc thu dọn tài liệu, ông bỗng khựng lại. Ông vừa trông thấy một thứ trên bàn. Ông cúi xuống để nhìn cho rõ.

Trên mặt bàn formica màu xanh da trời, nơi bàn tay bị thương của thầy giáo Martini vừa đặt lên, có một giọt máu còn tươi.