- 20 -
16 tháng Một
hai mươi bốn ngày
sau vụ mất tích
Cậu bé Leo Blanc vừa tròn năm tuổi đúng một tuần trước khi biến vào hư không.
Hồi đó, các phương tiện điều tra tinh vi như hiện nay chưa ra đời. Lực lượng chức năng đành bằng lòng với việc mò mẫm, như cách người ta thường nói. Vụ việc được giao cho những cảnh sát giàu kinh nghiệm, những người thuộc địa bàn và nắm rõ dân cư địa phương, biết cách thu thập thông tin mà không cần các đội cảnh sát khoa học lẫn ADN này nọ. Công việc thật vất vả, cần mẫn hằng ngày, thu được những bước tiến chậm chạp và những kết quả nhỏ nhoi mà khi tập hợp lại, chúng tạo thành nền tảng của cuộc điều tra. Cần nhất là sự kiên nhẫn.
Sự kiên nhẫn là đức tính dần trở nên hiếm hoi khi truyền thông lên ngôi. Công chúng đòi hỏi những câu trả lời nhanh chóng, nếu không họ sẽ chuyển kênh, do vậy các đài truyền hình gây sức ép lên các điều tra viên, buộc họ phải làm việc một cách gấp gáp. Trong hoàn cảnh đó, một sai lầm sẽ dễ dàng xảy ra. Tuy nhiên, điều quan trọng là không được dừng lại.
Dù không hề biết, Leo Blanc, với câu chuyện bi thảm và cuộc đời ngắn ngủi của cậu, đã trở thành ranh giới quan trọng giữa trước đó và sau đó.
Một buổi sáng nọ, mẹ của cậu bé, Laura Blanc, một góa phụ hai mươi lăm tuổi mất chồng trong một vụ tai nạn giao thông đường bộ, đã tìm đến đồn cảnh sát của ngôi làng nhỏ nơi cô đang sống. Tuyệt vọng cùng cực, cô khăng khăng cho rằng ai đó đã vào nhà mình và bắt mất cậu con trai Leonard.
Lúc đó Vogel chỉ là một anh trung úy quèn, vừa mới tốt nghiệp học viện cảnh sát. Anh phụ trách những nhiệm vụ đơn giản và nhàm chán, chẳng hạn như lưu trữ các báo cáo, hoặc đánh máy các lời khiếu nại nhận được. Còn lại thì anh phải ngồi nhìn những cảnh sát thâm niên hơn làm công việc của họ. Và học hỏi, tất nhiên rồi. Chính anh là người tiếp Laura Blanc.
Người phụ nữ quả quyết rằng sáng hôm đó, cô đã nhận ra mình bỏ quên trong xe hơi lốc sữa mua từ tối hôm trước tại một cửa hiệu tạp hóa. Trước khi cậu con trai thức giấc và đòi ăn, cô đi xuống tìm nó. Chiếc xe hơi thật ra chỉ đậu cách nhà chừng năm chục mét. Có thể do lơ đãng, hoặc vì hàng xóm láng giềng quen mặt nhau cả và chẳng ai khóa cửa ban đêm, Laura chỉ khép hờ cửa. Và cô không thể tha thứ cho mình về chuyện đó.
Theo đúng quy trình, Vogel lập tức chuyển những lời khai của Laura cho sĩ quan trực ban có mặt lúc đó. Hai người đi tới nhà người phụ nữ, và mặc dù không ghi nhận bất kỳ dấu hiệu đột nhập nào, họ thấy căn phòng của cậu bé Leo lộn tùng phèo hết lên. Họ kết luận rằng cậu bé đã thức dậy và, hoảng sợ vì sự hiện diện của một người lạ, cậu đã cố gắng chống cự. Nhưng tên bắt cóc khỏe hơn cậu.
Laura Blanc tuy choáng váng nhưng vẫn có thể thuật lại với cảnh sát diễn biến chính xác của sự việc. Chỉ có một lỗ hổng chừng tám phút giữa thời điểm cô rời nhà và lúc cô quay lại. Trong khoảng thời gian đó, cô có nói chuyện vài câu với một bà hàng xóm. Như vậy cũng đủ để hung thủ lẻn vào trong nhà và bắt cóc mất đứa bé.
Cuộc truy lùng thủ phạm được tiến hành. Tình hình có lẽ đã khác nếu như ngày hôm đó một tốp phóng viên truyền hình không có mặt tại chỗ để quay một phóng sự về chim di trú trên những khu đầm lầy ở rìa ngôi làng. Một trung úy cảnh sát đã nảy ra ý tưởng nhờ các phóng viên phát đi thông điệp của người mẹ, kêu gọi mọi người cung cấp thông tin về cậu bé Leo Blanc.
Sau khi đoạn video được phát sóng, mọi chuyện lập tức tăng tốc như một vệt thuốc súng bắt lửa.
Người ta dội bom đồn cảnh sát bằng những cú điện thoại. Rất nhiều người trong số đó cam đoan rằng mình đã trông thấy cậu bé Leo và mô tả một cách chính xác địa điểm cũng như tình huống trông thấy cậu. Về số còn lại, có người khăng khăng cho rằng họ đã thấy cậu bé đi cùng một người đàn ông và được hắn ta mua kem cho, có người thấy cậu bé đi cùng một cặp đôi trên tàu hỏa, có người thậm chí còn cung cấp vài cái tên. Hầu hết đều là hoang báo, và cảnh sát không thể nào xác minh tất cả được. Nói cách khác, khối lượng thông tin khổng lồ trút xuống đầu các điều tra viên đã vùi lấp cuộc tìm kiếm. Nhưng đáng kinh ngạc hơn cả là số lượng những người gọi đến chỉ để hỏi han về diễn biến điều tra. Những cuộc gọi tương tự cũng bật cầu dao cho hàng loạt kênh truyền hình cử người đưa tin về vụ việc.
Vogel đã chứng kiến tất cả những chuyện đó diễn ra trong một thời gian rất ngắn. Là một cảnh sát trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, anh không đo lường được tầm cỡ của cuộc cách mạng đang xảy ra trước mắt. Mọi thứ tưởng như không thuộc về thực tại. Bị truyền thông bóp méo, ngay cả sự thật cũng trở nên khác hẳn. Laura Blanc nhanh chóng trở thành một người mẹ đáng thương. Lúc Vogel gặp Laura, cô là một phụ nữ chân thành, không đẹp lắm, nhưng mọi thứ nơi cô đã đột ngột thay đổi. Với khuôn mặt trang điểm và được chiếu sáng đầy đủ, cô đọc lá thư của những người sẵn sàng chăm sóc cho cô. Cậu con trai Leo của cô được mọi bà mẹ trên toàn quốc coi như con mình. Đứa trẻ năm tuổi đã trở thành một biểu tượng, người ta để hình cậu trong nhà, và nhiều cặp vợ chồng trẻ đặt tên con mình theo tên cậu.
Khi lời giải cho vụ việc vẫn vô vọng như bóng chim tăm cá, thì trong một lần khám soát nhà Laura, họ tìm thấy một dấu vân tay. Phải mất đến hai tuần để rà soát hồ sơ lưu trữ tìm một người trùng khớp, và rốt cuộc họ đã tìm ra.
Người đàn ông đó tên là Thomas Berninsky. Là công nhân không có tay nghề, từng có tiền sự tấn công tình dục trẻ vị thành niên, người này vào thời điểm xảy ra vụ bắt cóc đang làm việc trong một nhà máy xây lắp các nhà kho công nghiệp trong vùng.
Việc truy nã không mất nhiều thời gian. Thomas Berninsky bị bắt, và người ta tìm thấy trong đồ đạc của hắn bộ quần áo ngủ lấm máu của cậu bé Leo. Tên bắt cóc ấu dâm thừa nhận đã theo dõi cậu bé từ lâu, và hắn đã dẫn các điều tra viên tới bãi rác bỏ hoang nơi hắn chôn xác Leo.
Kết thúc bi thảm đó làm dư luận bàng hoàng. Nhưng một số nhân vật chóp bu của cảnh sát lẫn của các kênh truyền hình đã nhận ra có gì đó đã thay đổi, và họ không thể quay lại như cũ được nữa.
Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu.
Công lý không còn là một việc dành riêng cho tòa án, từ giờ trở đi nó đã thuộc về mọi người, không phân biệt một ai. Và trong viễn cảnh mới mẻ ấy, thông tin đã trở thành một nguồn lực – thông tin là vàng.
Cái chết của một cậu bé vô tội đáng thương đã khai sinh cho một ngành kinh doanh.
Trung úy cảnh sát trẻ tuổi Vogel chưa hình dung rằng mình sẽ là một phần của cỗ máy sa đọa đó, rằng anh sẽ xây dựng sự nghiệp vẻ vang của mình trên tai vạ của người khác. Tuy nhiên, anh cũng đã đi đến một kết luận bất ngờ… Laura từng kể với anh rằng cô rời nhà để đi lấy lốc sữa bỏ quên trong xe hơi. Ngôi nhà của cô đã được cảnh sát khám soát hàng chục lần, trước khi họ tìm thấy dấu vân tay của Berninsky.
Vậy tại sao họ không bao giờ tìm thấy lốc sữa kia?
Đến tận bây giờ, sau nhiều năm chinh chiến, Vogel vẫn còn thắc mắc điều đó. Và câu trả lời khả dĩ vẫn còn làm ông rùng mình. Laura Blanc đã nhanh chóng làm lại cuộc đời với một người đàn ông mà cô quen từ trước khi xảy ra vụ bắt cóc, một người có lẽ không muốn nuôi con của người khác. Giả thiết rằng Laura đã biết được ý đồ đê tiện của Berninsky và tạo thuận lợi cho hành động của hắn không dễ để bán cho giới truyền thông. Laura Blanc đã cố ý ra khỏi nhà, Vogel chắc chắn điều đó. Nhưng ông biết có những bí mật không nên được nói ra. Ông không bao giờ nói cho ai biết về nghi ngờ của mình. Tuy nhiên, ông nghĩ về nó mỗi lần có một sự việc bất thường xảy ra trong một cuộc điều tra.
Sáng hôm đó, vụ án cậu bé Leo lại hiện lên trong đầu Vogel khi ông ngồi trên chiếc xe công vụ cùng với Borghi. Anh chàng cảnh sát đã đến đón ông tại khách sạn.
Có vẻ như các thợ lặn đã tìm được chiếc ba lô sặc sỡ của Anna Lou Kastner dưới một kênh thoát nước.
Đôi khi anh cảm thấy sợ hãi không gian bít kín trong nhà mình, anh cần thoát ra ngoài. Martini đã quen với việc đánh lừa cánh báo chí cắm chốt trước nhà. Chẳng hạn như, anh đã biết trong khoảng thời gian từ 5 giờ đến 7 giờ, khi các nhóm phóng viên bận rộn chuẩn bị cho bản tin thời sự, đó là thời điểm thích hợp nhất để lẻn ra ngoài.
Một lộ trình quanh co qua các con phố an toàn cho phép anh rời Avechot. Sau đó, anh đi sâu vào trong rừng và tận hưởng nỗi cô đơn giữa thiên nhiên, chắc mẩm rằng không lâu nữa mình sẽ mất đi đặc quyền của sự tự do. Năm ngày đã trôi qua sau cuộc gặp với thanh tra Vogel. Hình ảnh đám cảnh sát đi lùng bắt con mèo khiến anh cảm thấy nực cười. Sự thật là anh không sợ điều có thể xảy đến với mình. Mặc dù vẻ ngoài cẩu thả, Martini không ngừng rèn luyện tinh thần. Bộ râu dài rậm và cơ thể bốc mùi tạo ra một thứ vỏ giáp mà nhờ nó anh khiến người khác dè chừng. Clea sẽ không thích chuyện này, chị luôn chu đáo và liên tục nhắc nhở anh về ngoại hình. Chị vẫn như thế kể từ cái ngày ở trường đại học, khi Martini khoác lên người bộ com lê xanh sẫm và chiếc cà vạt lố bịch để mời chị đi ăn tối. Diện mạo và hình thức rất quan trọng đối với vợ anh.
Martini thấy nhớ vợ con, nhưng anh biết mình phải tỏ ra mạnh mẽ vì họ. Anh đã không có bất kỳ sự tiếp xúc nào với Monica và Clea từ khi hai người rời khỏi nhà, một cú điện thoại cũng không. Thật ra mà nói, anh cũng không chủ động liên lạc với hai mẹ con. Anh muốn bảo vệ họ. Bảo vệ họ khỏi anh.
Màn sương mù buổi sáng chậm rãi luồn qua những chiếc lá. Martini thích vuốt ve chúng để cảm nhận sự tươi mát trong lòng bàn tay. Vừa đi anh vừa dang tay ra và nhắm mắt lại, trong một trạng thái lâng lâng hạnh phúc. Anh hít đầy buồng phổi bầu không khí thơm ngát. Tâm hồn anh tràn ngập màu xanh, trong lúc màn đêm lui dần để chào đón một ngày mới. Những con thú rừng rời nơi ẩn nấp, chim chóc hót líu lo, sung sướng vì được thoát khỏi bóng tối.
Khi chiếc đồng hồ đeo tay phát ra một âm thanh ngắn ngủi và ổn định, Martini hiểu rằng hai giờ tự do đã hết, đã đến lúc anh phải quay về. Ngày hôm nay cũng vậy, anh lần ngược theo lộ trình ban đầu để về nhà. Nhưng trên đường về Avechot, anh nhận thấy một dáng người đang đi về phía mình. Martini muốn tránh bị bắt gặp, nhưng anh không còn lối nào khác, hai bên đường là những cánh đồng. Anh bước tới, đầu cúi gằm, mũ kéo sụp xuống tận mắt để lưỡi trai che đi phần lớn khuôn mặt. Hai bàn tay đút túi, lưng gù xuống, anh đi theo một đường kẻ tưởng tượng, cố không chệch hướng. Nhưng anh không kìm được và lén quan sát khuôn mặt người kia. Khi nhận ra anh ta là ai, hơi thở anh tắc nghẹn.
Bruno Kastner cũng nhận ra Martini sau đó vài giây. Anh ta cũng bị bất ngờ và do dự, chân bước chậm lại.
Hai người tưởng như sẽ dừng bước, như thể người này chờ đợi người kia hành động trước. Cha của cô bé mất tích có một vẻ mặt khó hiểu, nhưng đúng mực. Martini không nghĩ đến phản ứng của anh ta, về điều anh ta có thể làm với kẻ tình nghi bắt cóc con gái mình. Lạ thay, anh chỉ nghĩ đến điều anh ta sẽ làm, nếu ở vào địa vị của anh. Và nó làm anh hoảng sợ.
Những bước chân của họ vang lên đồng điệu trên lớp nhựa đường, âm vang của người này tan biến vào âm vang của người kia. Sự thu hẹp khoảng cách giữa họ tưởng như kéo dài vô tận. Thình lình, họ chỉ còn cách nhau vài mét. Nhưng không ai quay gót. Martini dừng lại, chờ đợi.
Nhưng Bruno không dừng bước. Anh ta thậm chí còn bước nhanh hơn một chút, và khuất dần khỏi tầm quan sát của Martini.
Martini không tài nào nhúc nhích nổi. Anh chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Anh vẫn cảm thấy sự hiện diện của Bruno ở phía sau lưng. Trong một thoáng, anh tưởng đâu Bruno sẽ quay trở lại và tấn công anh. Nhưng chuyện đó không xảy ra. Khi anh quay người lại, anh ta đã chỉ còn là một chấm nhỏ phía đằng xa, nơi bìa rừng.
Martini sẽ không bao giờ quên sự việc này. Đúng lúc đó, anh nảy ra một ý định.
Chiếc ba lô sặc sỡ của Anna Lou Kastner đang nằm trên bàn giám định tại nhà xác. Họ đã đặt nó ở đó, do thiếu vắng cái xác. Nhưng dẫu vậy Vogel vẫn có cảm giác như đang nhìn thấy cô bé tóc hung đỏ có khuôn mặt lấm tấm tàn nhang nằm phơi trần ra đó, lạnh lẽo và bất động dưới ánh đèn không hắt bóng đang chiếu sáng từ trên cao, bỏ mặc mọi thứ khác trong bóng tối.
Thỉnh thoảng may mắn cũng xuất hiện, Vogel nghĩ bụng. Kẻ vứt chiếc ba lô xuống kênh thoát nước đã lấy hết các vật dụng trong đó ra và nhét đá vào, nhưng không đủ. Sự cẩn trọng này là một chứng cứ mang tính quyết định. Giờ đây sự tồn tại của con quái vật không còn là một giả thiết nữa, nó đã trở thành sự thật.
Trong giây phút này, chiếc ba lô chính là Anna Lou. Như thể cô bé đã mở mắt và quay đầu về phía Vogel, người đã đứng đó từ ít nhất ba mươi phút đồng hồ, một mình, bận đánh giá những hệ lụy khả dĩ của phát hiện này. Một lọn tóc hung rơi xuống trán, cô bé mấp máy môi, như muốn thầm nói một câu. Một thông điệp dành cho ông thanh tra.
Cháu vẫn còn đây.
Vogel nhớ lại lần đầu tiên ông tới nhà cô bé, trong ngày Giáng sinh. Ông hình dung cây thông trang trí, mà theo lời người mẹ, sẽ được bật sáng cho tới khi nào con gái chị quay về – như một ngọn hải đăng trong đêm tối. Ông nhớ gói quà thắt dây ruy băng đỏ đang chờ được mở ra. Giờ đây, nó sẽ được thay thế bằng một cỗ quan tài màu trắng.
– Chúng tôi sẽ không bao giờ tìm thấy cháu. – Ông đau khổ nói với cô bé.
Lời khẳng định đó lập tức khắc sâu vào tâm khảm ông.
Tội lỗi ngu xuẩn nhất của con quỷ là sự hợm hĩnh.
Bởi vậy đã đến lúc ông hành động. Và ngăn không cho chuyện này tái diễn.
Tầm 9 giờ sáng, Martini đi tắm. Dòng nước nóng gột rửa đi sự mệt mỏi tích tụ trong anh. Sau đó, anh trần truồng đứng trước tấm gương, quan sát hình ảnh phản chiếu của khuôn mặt mình, điều mà anh đã cẩn thận né tránh trong những ngày trước đó. Anh bắt đầu cạo râu.
Trước tủ quần áo mở toang, anh chọn trong số trang phục ít ỏi mà mình có những món đồ thể hiện rõ nhất tâm trạng hiện tại. Áo vest bằng nhung gân màu be, quần vải futen sẫm màu, sơ mi ca-rô hai màu xanh và nâu, cùng một chiếc cà vạt xám ngói. Sau khi mặc quần áo, anh đi giày, khoác áo gió, đeo chéo chiếc túi vải lên người, rồi rời khỏi nhà.
Khi trông thấy anh xuất hiện trên ngưỡng cửa, đám phóng viên và quay phim bối rối trong giây lát. Các ống kính nhanh chóng hướng về phía người đàn ông vô tư lự đang từ trong ngõ bước ra ngoài đường, vượt qua rào chắn và bình thản đi tiếp.
Anh chọn con đường chính, nơi mọi người dừng chân, ngỡ ngàng chỉ trỏ về phía anh. Khách hàng bước ra khỏi các cửa hiệu để mục kích cảnh tượng. Nhưng không ai hành động, cũng không ai nói gì. Martini né tránh ánh mắt họ, nhưng anh có thể cảm thấy sức nặng của chúng.
Khi anh đi đến trước cổng trường, một đám đông nhỏ đã tụ tập quanh anh. Martini nhận thấy ngoài nhà thi đấu bị cảnh sát trưng dụng thành phòng tác chiến, ngôi trường không có gì thay đổi.
Anh bước lên bậc thềm để vào bên trong, tin chắc những kẻ bám đuôi mình sẽ dừng lại phía ngoài. Anh đã đúng. Sau khi đã vào trong, anh nghe thấy âm thanh quen thuộc của tiếng chuông. Theo lịch học, đúng mười giờ tiết dạy văn bắt đầu. Anh tiến về phía lớp học dưới ánh mắt ngơ ngác của các đồng nghiệp và đám học trò trên hành lang.
Lớp học đang ở trong tình trạng lộn xộn giữa hai tiết giảng. Trong ít phút nữa, người giáo viên thay thế do hiệu trưởng chỉ định sẽ vào lớp, nhưng ngay lúc này, các học sinh tranh thủ sự trễ nải đó để cười giỡn.
Priscilla mặc một bộ đồ cũ. Cô bé trang điểm đậm để che đi những quầng thâm trên mắt.
– Tao sẽ đi dự tuyển cho một show truyền hình thực tế. – Cô bé hào hứng kể với đám bạn gái.
– Mẹ mày đồng ý à? Bà ấy không nói gì sao? – Một đứa bạn học hỏi lại.
– Tao mặc kệ. Cuộc đời tao giờ đã có định hướng, mẹ tao phải chấp nhận thôi, – Priscilla nhún vai đáp. – Chắc tao sẽ phải tìm kiếm một người quản lý.
Lucas, cậu học sinh cá biệt có hình xăm trên đầu, cất giọng nói với một người ở cuối lớp:
– Thế còn mày, thằng dở, mày không nhận được lời đề nghị nào à?
Câu nói làm một tràng cười rộ lên, nhưng Mattia giả vờ như không nghe thấy và tiếp tục hí hoáy gì đó vào trong cuốn tập.
Cửa lớp bật mở. Các học sinh không quay lại ngay. Chỉ có một vài đứa làm như thế, và chúng lập tức câm bặt. Nhưng khi người thầy đặt chiếc túi lên bàn giáo viên, toàn bộ lớp học im lặng như tờ.
– Xin chào các em. – Anh cất tiếng với một nụ cười.
Không một học sinh nào đáp lại. Tất cả đều sửng sốt, kể cả Mattia, người thậm chí còn tỏ ra hoảng sợ. Thầy giáo dạy văn đứng quan sát bọn trẻ trong vài phút, từng đứa một. Sau đó, tự nhiên như không, anh bắt đầu bài giảng:
– Buổi học trước, tôi đã minh họa cho các em về kỹ thuật dẫn chuyện của tiểu thuyết. Tôi đã giải thích với các em rằng các tác giả, cho dù là những tên tuổi lừng lẫy nhất, đều lấy cảm hứng từ những thứ đã được viết ra trước đó. Nguyên tắc đầu tiên là sao chép, các em còn nhớ chứ?
Không một lời đáp nào. Tốt lắm, Martini nghĩ thầm. Lớp học chưa bao giờ chăm chú như thế này.
Cửa lớp lại một lần nữa mở ra. Lần này thì tất cả mọi người đều quay lại. Vogel là người đầu tiên bước vào, khi thấy cảnh tượng đó, ông giơ tay lên để ra hiệu rằng mọi chuyện vẫn ổn, gần như một lời xin lỗi. Sau đó, ông ngồi vào một bàn học còn trống, mắt quan sát người thầy giáo như thể mời anh ta tiếp tục bài giảng.
– Tôi đã nói với các em rằng cái ác là động cơ thực thụ của mọi câu chuyện. – Martini điềm nhiên giảng tiếp. – Anh hùng và các nạn nhân chỉ là công cụ, bởi vì độc giả không quan tâm đến cuộc sống thường nhật, họ đã có cuộc đời của họ. Họ muốn sự xung đột, vì đó là cách giải khuây duy nhất cho chuỗi ngày tẻ nhạt của mình. Mọi người có nhớ không, – anh nhìn thẳng vào Vogel khi nói đến đây, – chính kẻ ác là người làm cho sự tầm thường trở nên chấp nhận được, chính kẻ ác mới tạo ra câu chuyện.
Đột nhiên Vogel bắt đầu vỗ tay. Ông vỗ tay một cách nhiệt tình, đầu gật gù thỏa mãn. Rồi ông nhìn các học sinh để chúng làm theo. Thoạt tiên, bọn trẻ chỉ quan sát mà không làm gì cả. Nhưng rồi, một cách rụt rè, một số đứa bắt chước ông thanh tra. Cảnh tượng đó thật phi thực tế và đầy mâu thuẫn. Vogel đứng dậy, tiến về phía bục giảng, hai bàn tay vẫn tiếp tục vỗ vào nhau. Khi đến trước mặt Martini và chỉ còn cách anh vài xen ti mét, ông mới ngừng lại.
– Bài giảng hay lắm. – Ông tuyên bố trước khi thì thầm với anh. – Chúng tôi đã tìm thấy ba lô của Anna Lou. Chưa thấy thi thể, nhưng chúng tôi không cần nó nữa… vì trên chiếc ba lô đó đã có vết máu của thầy, thưa thầy.
Martini không đáp. Anh im lặng.
Vogel rút cặp còng tay từ trong túi áo khoác ra.
– Còn bây giờ, ta đi thôi.