- 23 -
21 tháng Một
hai mươi chín ngày
sau vụ mất tích
Beatrice Leman phải di chuyển bằng xe lăn.
Vogel cần bốn ngày để quyết định đi gặp bà ta. Trong thời gian đó, ông bí mật điều tra về bà. Nữ nhà báo chủ yếu phụ trách mục tin vắn, nhưng các bài báo của bà ta đã có thời gây bực mình cho các chính khách hoặc những nhân vật quyền lực khác. Beatrice Leman là người cứng rắn, nhưng thời của bà ta đã qua. Bây giờ bà ta chẳng làm ai sợ cả.
Thoạt đầu, Vogel đã định phớt lờ cơn hoang tưởng của một nhà báo hết thời muốn tìm lại chút tiếng tăm để ra khỏi bóng tối. Nhưng sau đó ông đã nghĩ đến khả năng Beatrice Leman tiếp xúc với một ai khác, như Stella Honer chẳng hạn. Ả nhà báo kia sẽ không bỏ lỡ cơ hội lật lại vụ án Anna Lou Kastner và trình ra trước công chúng một phiên bản khác của sự thật. Sẽ thật là thảm họa nếu ai đó tin vào chuyện này, nhất là trong hoàn cảnh ông đã ngụy tạo bằng chứng để bắt Martini. Vogel không muốn ai nhúng mũi vào cuộc điều tra nữa, do vậy ông quyết định đi gặp Beatrice Leman.
Nữ nhà báo sống trong một căn nhà gỗ ở ngoại vi Avechot. Bà ta chưa bao giờ lập gia đình, và chỉ làm bạn với đàn mèo đông đúc trong văn phòng, nơi bà vùi mình hết ngày này sang ngày khác. Khi bà ta ra đón Vogel, ông sững người trước hình ảnh một phụ nữ chua chát, vỡ mộng, khuôn mặt hằn sâu những nếp nhăn, mái tóc bạc bù xù búi tó. Bà mặc một chiếc áo rét lấm tấm vết tàn thuốc. Những cái gạt tàn đầy ắp nằm rải rác khắp nơi trong căn nhà nhỏ. Mùi thuốc lá và mùi nước đái mèo trộn lẫn với nhau. Giấy tờ và báo cũ chất thành đống trên các giá kệ và dưới sàn.
– Chào mừng ông, thanh tra. – Beatrice Leman nói và mời Vogel vào nhà.
Giữa sự hỗn độn, vẫn có một lối đi cho phép người phụ nữ di chuyển tương đối thoải mái trên chiếc xe lăn.
Vogel siết chặt chiếc áo khoác quanh người, ông không muốn nó chạm vào bất kỳ thứ gì. Bụi bặm và nhất là vi khuẩn khiến ông e ngại.
– Thành thực mà nói, tôi không biết mình đến đây làm gì. – Ông tuyên bố phủ đầu.
– Điều quan trọng là ông đã đến. – Beatrice Leman mỉm cười đáp.
Bà ta đẩy xe lăn vào phía sau một chiếc bàn làm việc và ra hiệu cho Vogel ngồi xuống.
Ông thanh tra làm theo, dù miễn cưỡng.
– Tôi thấy ông không mang theo cái máy tính xách tay mà tôi đã gửi cho ông. Đó là cái duy nhất tôi có, và tôi muốn lấy lại nó.
– Tôi tưởng đó là một món quà cơ đấy. – Vogel mỉa mai. – Dù sao thì, tôi sẽ gửi nó lại cho bà trong thời gian sớm nhất.
Nữ nhà báo châm một điếu thuốc.
– Chuyện này có cần thiết không? – Vogel hỏi.
– Tôi bị liệt từ khi chào đời vì thao tác sai của bà đỡ, do vậy tôi cóc thèm quan tâm tới những thứ có thể gây hại cho người khác.
– Được rồi, nhưng chúng ta vào đề thôi. Tôi không muốn mất thời gian.
– Tôi đã thành lập và cai quản một tờ báo trong suốt bốn mươi năm. Có thể nói là tôi làm tất: từ tin lặt vặt cho tới cáo phó. Sau đó sự ra đời của Internet đã làm cho mọi nỗ lực thành công cốc, và tôi đã phải đóng cửa tòa soạn vì thiếu độc giả… Thời buổi bây giờ, người ta nhanh chóng nắm được những chuyện xảy ra ở đầu kia của thế giới, nhưng lại chẳng biết gì sất về những thứ đang lẩn khuất quanh mình.
Sau lời mào đầu ngắn gọn đó, Beatrice với lấy một tập hồ sơ dày trên một kệ sách, khiến vài tờ báo rơi xuống. Bà đặt nó lên đùi, nhưng không mở ra.
– Một nhà báo dễ phải viết đến vài trăm tin tức linh tinh trong sự nghiệp cầm bút. Nhưng có một số thứ luôn đeo bám chúng tôi: danh tính và khuôn mặt của các nạn nhân. Họ đã trở thành một thứ ký sinh trùng sống bằng mặc cảm tội lỗi của chúng tôi. Có lẽ với cảnh sát các ông cũng thế.
– Thỉnh thoảng. – Vogel gật gù đáp, để cho bà ta thổ lộ tiếp.
– Là thế này, con sán đơn độc của tôi đã bắt đầu đào hang cho nó cùng với vụ mất tích của Katya Hilmann. – Beatrice nâng tập hồ sơ lên và thả tay cho nó rơi thịch xuống bàn. – Đó là người đầu tiên.
Âm thanh trầm đục vang vọng khắp căn phòng. Vogel quan sát tập hồ sơ đồ sộ trước mặt. Ông biết nếu chấp nhận bước vào câu chuyện này thì sẽ khó lòng rút lui. Nhưng ông không còn cách nào khác. Ông mở nó ra.
Ánh mắt Vogel bắt gặp một tấm ảnh cũ của Katya Hilmann. Ông đã từng nhìn thấy nó trên Internet, nhưng lần này ông quan sát kỹ hơn. Cô gái mặc một chiếc váy dài màu xanh dương, đồng phục học sinh. Miệng cô mỉm cười với ống kính. Đôi mắt xanh lục chân thành. Sau Katya Hilmann, Vogel khám phá những khuôn mặt thiếu nữ khác, với mái tóc hung và làn da lấm chấm tàn nhang. Ông lần lượt xem xét từng người. Trông họ giống như chị em vậy. Trên khuôn mặt của họ, cùng một vẻ trong trắng ngây thơ. Đúng là tiền định, ông tự nhủ. Lời nguyền của ngây thơ đã rơi vào họ.
Trong lúc thanh tra Vogel xem xét tập hồ sơ, Beatrice quan sát ông, tay cầm điếu thuốc. Bà rít từng hơi thật dài, để mặc cho tàn thuốc tích tụ, vắt vẻo chực rơi.
Vogel nhận thấy các tấm ảnh đều được kèm theo nhiều bài báo do Beatrice Leman viết và một số ít các báo cáo của cảnh sát.
– Tất cả nạn nhân đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn. – Bà ta lên tiếng phá tan sự im lặng. – Cha thì tàn bạo, mẹ thì cam chịu không dám tố cáo. Có lẽ cũng vì thế mà lực lượng cảnh sát ở Avechot và những ngôi làng lân cận không điều tra quá sâu về các vụ mất tích của các cô gái. Họ có bỏ trốn khỏi địa ngục trần gian thì cũng là điều dễ hiểu.
– Nhưng bà đã ráp nối các vụ việc với nhau và đặt giả thiết về một thủ phạm đứng đằng sau.
– Các cô gái đều trong độ tuổi mười lăm, mười sáu, tóc hung, da bị tàn nhang: rõ ràng đây là dấu hiệu của một sự ám ảnh… Nhưng không một ai tin tôi.
– Vụ mất tích cuối cùng đã cách đây ba mươi năm. – Vogel lưu ý khi đọc ngày tháng trong một bản báo cáo.
– Đúng vậy. Tại thời điểm đó, thầy giáo Martini của ông không sống ở Avechot, và vẫn là một cậu bé con.
Phải, Vogel nghĩ bụng. Stella Honer sẽ rất thích câu chuyện này. Mặc dù cho rằng đây chỉ là một sự trùng hợp với vụ Anna Lou Kastner, ông không thể chỉ nhún vai bỏ đi. Trước hết, ông phải xóa khỏi đầu óc Beatrice Leman ý tưởng về một sự liên hệ. Để làm được điều đó, ông cần phải biết nhiều hơn.
– Tại sao sau vụ mất tích của Anna Lou, không một người nào ở đây ngoại trừ bà lôi chuyện cũ này ra?
– Bởi vì mọi người quên rất nhanh, ông không biết điều đó sao? Cách đây nhiều năm, tôi đã tạo ra trang web mà ông đã thấy, với hy vọng giúp họ nhớ được, nhưng không một ai quan tâm tới những cô gái tội nghiệp ấy nữa.
– Tại sao lại là người sương mù?
Giọng nói vốn đã khản đặc vì thuốc lá của Beatrice Leman trở nên khò khè.
– Người ta biến vào trong sương mù. Chúng ta biết họ ở đó, nhưng lại không thể nhìn thấy được. Những thiếu niên này vẫn còn tồn tại giữa chúng ta, cho dù chuyện gì đó rất kinh khủng đã xảy đến với họ, cho dù họ đã chết. Vì một lý do mờ ám nào đó, người sương mù đã bắt họ. Bởi vì chỉ có một thủ phạm duy nhất, tôi chắc chắn như vậy. Chúng ta biết đó không phải là tay thầy giáo, nên tôi tin chắc gã vẫn đang ở ngoài kia và đang tìm kiếm một con mồi mới.
– Vô lí. Tại sao gã lại ngừng ra tay trong suốt ba mươi năm?
– Có thể gã đã dọn đi đâu đó, trước khi quay trở lại đây. Có thể gã đã ra tay ở nơi khác, nhưng chúng ta không biết. Chỉ cần ta tìm kiếm các cô bé có cùng đặc điểm.
Vogel lắc đầu.
– Tôi xin lỗi, nhưng tôi không tin chuyện này: với dư luận ồn ào của vụ Anna Lou Kastner, ai đó hẳn phải lưu ý cảnh sát hoặc truyền thông nếu có những vụ việc tương tự.
Beatrice Leman định nói gì đó, nhưng bà bật ho một tràng.
– Tôi không chỉ muốn cho ông xem hồ sơ này. – Bà nói giữa những tiếng ho và mở một ngăn kéo, lấy ra một gói bưu phẩm rồi đưa cho Vogel. – Tôi đã nhận được cái này cách đây ít lâu, nhưng ngày tháng trên dấu bưu điện trùng khớp với ngày Anna Lou mất tích. Như ông đã thấy, nó được gửi đến đây, nhưng lại yêu cầu chuyển cho ông. Vì ông nhất định không trả lời các tin nhắn của tôi, nên rốt cuộc tôi đã mở nó ra.
Vogel quan sát những thứ bên trong gói bưu phẩm qua mép giấy bị rọc nham nhở. Rồi ông thò tay vào trong và lấy ra một cuốn sổ nhỏ màu đỏ, với hình ảnh những con mèo được in trên bìa.
Quyển nhật ký thật của Anna Lou, Vogel nghĩ ngay trong đầu.
Thứ mà cô bé đã giấu không cho mẹ biết, và họ đã không tìm được. Có lẽ cô bé đã cất nó trong chiếc ba lô mà về sau bị ném xuống kênh.
Vogel quan sát cái khóa cài nhỏ hình trái tim của quyển nhật ký.
Ông ngẫm nghĩ một chút. Nếu có người đã gửi quyển nhật ký cho Beatrice Leman, tức là người này muốn thu hút sự chú ý về vụ người sương mù. Có thể là ai? Martini đóng vai trò gì trong câu chuyện này? Ông cảm thấy dâng lên trong lòng mối hoài nghi rằng mình đã bắt nhầm tay thầy giáo. Nhưng với Derg trước đây cũng vậy. Khi đó, niềm tin rằng mình đang đối mặt với kẻ cắt xẻo đã thúc đẩy ông ngụy tạo chứng cứ. Nhưng với gã kế toán viên, ông đã không hề sai lầm. Derg chính là kẻ cắt xẻo, bởi vậy nên sau đó gã mới dừng tay.
– Đổi lại, bà muốn gì? – Vogel hỏi người phụ nữ.
– Sự thật.
– Bà muốn viết một bài báo về nó hay sao?
– Ông đúng là quỷ quyệt, ông bạn ạ. Tôi chỉ là một người đơn giản.
Tội lỗi ngu xuẩn nhất của con quỷ là sự hợm hĩnh, Vogel nhớ lại câu nói của Martini và nghĩ đến tình cảnh hiện tại. Có lẽ ông đã quá hợm hĩnh, và ông sẽ bị trừng phạt.
– Nếu muốn thứ mà ông đang nghĩ tới thì tôi đã liên hệ với một kênh truyền hình và bán quyển nhật ký này với một cái giá trên trời.
Bà ta nói đúng. Ông thật ngu ngốc khi không tính tới chuyện đó. Nhưng nếu như Beatrice không cần danh, cũng chẳng cần tiền, thì bà ta đang tìm kiếm điều gì?
– Tôi hứa với bà rằng nếu trong này có bất kỳ chi tiết nào cho phép xới lại cuộc điều tra theo hướng mở rộng nó và liên hệ với sáu vụ mất tích kia, tôi sẽ không chần chừ dù chỉ một giây. – Vogel long trọng tuyên bố.
– Đây là cơ hội cuối cùng để tóm được người sương mù. – Beatrice Leman nói. – Tôi tin chắc ông sẽ không phung phí nó.
Có vẻ như bà ta đã đánh trúng đích.
Nhà thăm gặp dành cho người thân của các phạm nhân được trang bị những bộ bàn ghế bằng thép bắt vít chặt xuống sàn. Trần nhà khá thấp, và vọng âm làm cho người ta gần như không thể nghe được nhau. Tuy nhiên, ngay lúc này tại đây chỉ có bốn quản giáo im lặng quan sát từ xa, ngoài Martini và luật sư Levi.
Martini chỉ mới ở tù có vài ngày nhưng đã tỏ ra rất xuống tinh thần.
– Ở đây ai cũng biết tôi. Tôi được biệt giam, nhưng ban đêm tôi nghe thấy những lời đe dọa từ các xà lim khác: không thể tóm được tôi, họ làm tất cả để khiến tôi mất ngủ.
– Tôi sẽ nói chuyện với giám đốc nhà tù. Họ sẽ chuyển thầy sang khu khác.
– Thôi, tôi không muốn chuốc lấy những kẻ thù mới. Làm ngôi sao ở đây cũng đủ vất lắm rồi. – Martini đáp với một nụ cười cay đắng. – Ngoài ra, một quản giáo đã làm cho tôi hiểu rằng tốt hơn đừng có đụng vào các món ăn do bếp tù chuẩn bị. Đám cai ngục hình như cũng khinh bỉ tôi, nên tôi nghĩ anh ta đã nói thế để khiến tôi sợ. Nhưng dù sao thì anh ta cũng đã thành công, vì tôi chỉ dám ăn bánh quy và snack trong bịch.
Levi tìm cách động viên Martini, anh ta lo lắng thực sự cho thân chủ của mình.
– Thầy không thể cứ tiếp tục như thế này. Thầy phải ăn, phải giữ sức khỏe. Nếu không, thầy sẽ không chịu nổi sức ép của phiên tòa.
– Anh có biết khi nào nó sẽ diễn ra không?
– Người ta bảo là một tháng, có khi hơn. Cáo buộc đã có đủ chứng cứ, nhưng chúng tôi đang chuẩn bị để phản bác từng điểm một.
– Không có tiền, tôi phải làm sao đây?
Martini đang chìm trong tuyệt vọng. Levi hạ giọng nói với anh:
– Chính vì thế tôi đã bày ra cuộc gặp giữa thầy và Stella Honer. Thầy đã thật ngu ngốc khi từ chối lời đề nghị của chị ta.
– Vậy là anh sẽ không bào chữa cho tôi nữa, đúng không?
– Đừng có ngớ ngẩn như thế. Tôi nghĩ chúng ta vẫn còn một cơ hội: dấu vết ADN của thầy là chứng cứ quan trọng nhất. Nếu chúng ta phản bác được nó, tất cả cáo buộc sẽ sụp đổ. Tôi đã tìm một chuyên gia về di truyền học, anh ta sẽ làm lại tất cả các thí nghiệm về sự tương thích giữa mẫu ADN thu được trên chiếc ba lô và ADN của thầy.
Martini tỏ ra không tin.
– Người ta bảo với tôi rằng anh đã lên truyền hình để nói về tôi và vụ án.
Câu nói nghe như một lời buộc tội. Levi phớt lờ nó.
– Mọi người cần phải nghe phiên bản sự thật của thầy. Thầy không thể có mặt, nên tôi phụ trách chuyện đó.
Martini không đáp. Nói cho cùng, tay luật sư phải tự trang trải chi phí bằng quảng cáo. Thế nên anh ta có tranh thủ câu chuyện của anh cũng là phải.
– Anh có nói chuyện với vợ con tôi chưa? Hai người thế nào?
– Họ ổn, nhưng do thầy đang bị cách ly nên họ không thể vào thăm.
Dù thế nào thì cả hai cũng sẽ không đi thăm mình, Martini nghĩ bụng.
– Rồi thầy sẽ thấy, một khi đã ra tòa chúng ta sẽ bác bỏ mọi cáo buộc, và sự thật sẽ được phơi bày.
Sau khi rời khỏi nhà Beatrice Leman, Vogel lái xe chạy lòng vòng suốt buổi chiều qua những con đường nhỏ dẫn lên các triền núi xung quanh. Ông cần suy nghĩ để làm sáng tỏ một số điều. Ông đã dự tính rời khỏi Avechot nhiều ngày trước, thế nhưng ông vẫn ở đây, bị buộc phải làm một thứ mà mình chưa từng làm và cũng không chắc mình có biết làm hay không.
Điều tra.
Người sương mù đã làm đảo lộn các kế hoạch của ông. Thậm chí ngay lúc này có thể hắn cũng đang ung dung quan sát ông từ trong màn sương trắng đục, và chế nhạo ông.
Quyển sổ được coi là nhật ký của Anna Lou đang nằm trên ghế hành khách, bên cạnh ghế lái. Vogel vẫn còn chưa mở nó ra, vì ông không rõ mình nên có thái độ như thế nào. Trước hết, ông muốn cân nhắc mọi lẽ hơn thiệt. Có thể giải pháp là vứt nó đi hoặc đốt nó, và quên tất cả mọi chuyện. Biết đâu người sương mù không hề có ý định xuất hiện, biết đâu hắn chỉ muốn làm ông sợ một chút. Có thể lắm. Nhưng như vậy liệu có đủ? Có lẽ hắn cũng đã dự kiến điều này, Vogel tự nhủ. Thế nên ông chưa vội tiêu hủy bằng chứng có thể xóa tội cho Martini. Ông cũng cân nhắc chuyện sử dụng quyển nhật ký để ghi điểm bằng việc trả tự do cho tay thầy giáo. Nhưng ai đó có thể nghi ngờ việc ông ngụy tạo chứng cứ giống như trong vụ Derg. Mối nghi ngờ đó có thể đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của ông. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là người sương mù ra tay trở lại sau ba mươi năm nghỉ ngơi. Trong trường hợp này, các diễn biến tiếp theo sẽ vạch mặt Vogel, bởi vì sau Anna Lou sẽ đến lượt một cô gái khác. Một cô gái có mái tóc hung và làn da lấm tấm tàn nhang. Con gái của một ai đó. Nhưng với ông chuyện đó cũng không quan trọng. Trước hết ông phải nghĩ cho mình. Đây không phải là sự vô liêm sỉ, mà là bản năng sống sót.
Bên ngoài, mặt trời đã bắt đầu lặn xuống núi.
Sau khi đi lang thang suốt ba tiếng đồng hồ, đèn báo hết xăng bắt buộc Vogel phải dừng lại. Ông đậu xe trước một bể lắng của khu mỏ, rồi bước xuống và hít thở bầu không khí bụi bặm. Trước mặt ông là một loạt những đống quặng fluorit. Trong bóng tối, thứ khoáng vật đó phát ra một ánh sáng xanh lá cây nhạt, từa tựa như Bắc cực quang. Vogel tiến lại gần, rồi trước cảnh tượng mê hồn đó, ông kéo khóa quần và bắt đầu đi tiểu. Trong lúc làm rỗng bàng quang, ông cảm thấy những cái khều nhẹ trên vai mình. Chỉ là sự tưởng tượng, dĩ nhiên rồi, nhưng có thể nói, ai đó đang tìm cách lôi kéo sự chú ý của ông.
Quyển nhật ký đang gọi ông từ trong chiếc xe hơi. Ông không thể phớt lờ tôi được đâu, nó nói với ông như vậy.
Sau khi xong xuôi, Vogel quay về xe. Ông ngồi xuống và cầm quyển nhật ký lên. Ông quan sát nó như đang nhìn một thánh tích. Sau đó, một động lực đột ngột thôi thúc ông giật phăng cái khóa cài nhỏ hình trái tim. Người ông nóng lạnh từng cơn trong sự phấn khích.
Vogel giở một trang ngẫu nhiên và nhận ra nét chữ của Anna Lou Kastner.
– Mẹ kiếp. – Ông rủa thầm.
Rồi ông đọc. Ông hy vọng tìm được thứ gì liên quan tới Loris Martini, bất cứ thứ gì giúp chứng minh anh ta là thủ phạm thực sự của vụ sát hại cô bé, chứ không phải người sương mù. Đương nhiên không thể có chuyện tay thầy giáo gửi quyển nhật ký cho Beatrice Leman. Nhưng nó đã được gửi đi đúng vào ngày Anna Lou Kastner biến mất, do vậy người gửi không phải muốn giải oan cho Martini, kẻ vào thời điểm đó còn chưa bị tình nghi. Không. Việc gửi quyển nhật ký mang một ý nghĩa khác.
Nó là một chữ ký.
Chính vì thế mà Vogel không tìm được bất cứ điều gì liên hệ Anna Lou với kẻ đang bị tạm giam. Bí mật mà cô bé khư khư giữ kín là một thứ khác.
11 tháng Tám: trên bãi biển, mình đã gặp một anh chàng rất dễ thương. Mình nói chuyện với anh ấy hai, ba lần. Mình nghĩ anh ấy rất muốn hôn mình, nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Có thể năm sau hai đứa mình sẽ gặp lại nhau… Anh ấy tên là Oliver. Một cái tên thật đẹp. Mình đã quyết định mỗi ngày sẽ viết chữ cái đầu tên anh trên cánh tay trái, cánh tay gần trái tim. Mình sẽ làm chuyện đó trong suốt mùa đông, cho đến khi được gặp lại anh ấy vào năm sau. Đây sẽ là bí mật của mình, một lời cam kết rằng chúng mình sẽ gặp lại nhau.
Vogel lật nhanh phần còn lại của quyển nhật ký. Những trang viết khác nhắc đến anh chàng Oliver bí ẩn, mục tiêu của những mộng tưởng ngây thơ sẽ không bao giờ thành hiện thực.
Oliver, ông tự nhủ và nghĩ đến chữ cái từ giờ sẽ in trên cánh tay của tử thi mang tên Anna Lou Kastner. Chữ O nhỏ viết bằng mực sẽ tan biến cùng với cô bé, và sẽ không một ai nhìn thấy điều đó.
Bí mật đó đã chết theo cô bé.
Nhưng quyển nhật ký cũng chứa đựng một thứ khác. Vogel không nhận ra ngay mảnh giấy rơi ra từ giữa các trang sổ. Ông nhặt nó lên từ dưới sàn xe, rồi mở ra xem. Rõ ràng người kẹp mẩu giấy vào quyển nhật ký không phải là cô bé Anna Lou.
Manh mối mới của vụ án là một bản đồ.