← Quay lại trang sách

- 24 -

22 tháng Một

ba mươi ngày

sau vụ mất tích

Ông đã trải qua một đêm không ngủ.

Bản đồ đang nằm trên chiếc bàn đầu giường, trong khi Vogel đắp chăn lên tận cằm, mắt nhìn trần nhà, bất động. Những câu hỏi và những mối nghi ngờ đối lập nhau trong đầu ngăn không cho ông suy nghĩ một cách thoải mái. Một ván đấu mới đã bắt đầu, và ông không thể từ chối chơi tiếp. Người sương mù không cho phép ông làm điều đó. Ông chỉ còn một lựa chọn duy nhất.

Tiếp tục.

Cho dù Vogel sợ rằng kết cục phía trước sẽ không dễ chịu đối với ông. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, ông sợ sự thật.

Đến khoảng 5 giờ sáng thì ông quyết định mình đã chán ngấy căn phòng khách sạn. Đã đến lúc hành động. Ông chỉ có thể tự cứu mình nếu như đi trước các sự kiện. Ông bỏ chăn ra và rời khỏi giường. Trước khi mặc quần áo, ông kiểm tra khẩu súng mà nhiều năm nay chỉ mang theo để lấy uy. Thực tế là ông chưa bao giờ bắn phát nào, ngoại trừ lúc ở trường bắn, và ông không rõ mình còn làm được chuyện đó hay không. Ông cũng không biết bảo quản súng, nhiệm vụ đó thường được ông giao cho một thuộc cấp. Khi cầm lấy khẩu Beretta của mình, ông bỗng thấy nó nặng. Nhưng đó là do nỗi lo lắng đã làm thay đổi thể chất của các thứ. Ông bảo đảm hộp đạn còn đầy, nòng súng di chuyển trơn tru. Bàn tay ông run lên. Bình tĩnh nào. Vogel mặc quần áo, nhưng không phải bộ trang phục lịch lãm thường ngày. Ông chọn một chiếc áo chui đầu sẫm màu, một cái quần thoải mái và đôi giày êm nhất có thể. Rồi ông mặc áo khoác và rời phòng.

Gần như mọi nhà báo đã rời khỏi Avechot, chỉ còn lại vài nhóm đang đưa những thông tin cuối cùng về cuộc điều tra, nhưng đó không phải là các phóng viên biệt phái. Các cây bút đình đám đã đi hết. Tuy vậy, Vogel vẫn lo ngại một thực tập sinh đói tin nào đó có thể ghi nhận chuyến đi của ông. Trong khi lái xe, ông liên tục nhìn vào gương chiếu hậu để bảo đảm không bị bám đuôi. Một tay cầm vô lăng, tay kia ông cầm bản đồ để tìm đường.

Ở giữa bản đồ là một điểm được đánh dấu X màu đỏ. Ngoài ra còn có một số chỉ dẫn, nên tối hôm qua ông đã đi mua một chiếc la bàn trong một cửa hiệu bán dụng cụ leo núi. Ông tránh không nghĩ tới thứ mà mình sẽ phát hiện được. Địa điểm nằm ở phía tây bắc, trong một khu vực tương đối dễ tiếp cận và đã từng được rà soát nhiều lần bởi các nhóm tìm kiếm. Vậy tại sao họ không phát hiện được gì? Họ đã không làm tốt công việc của mình, Vogel tự nhủ. Không ai thực sự quan tâm đến việc tìm thấy Anna Lou Kastner. Và đó là do lỗi của ông: lẽ ra ông phải giám sát chiến dịch, thay vào đó ông giao phó mọi quyết định liên quan đến cuộc điều tra cho anh chàng Borghi thiếu kinh nghiệm, còn mình thì lo liệu phía truyền thông.

Bình minh đỏ ối bắt đầu xuất hiện từ sau những đỉnh núi và tràn xuống thung lũng tựa như một dòng sông máu. Vogel đã đến được khu vực tiệm cận với địa điểm đánh dấu trên bản đồ, ngay bìa rừng. Ông phải bỏ lại chiếc xe hơi và tiếp tục đi bộ, đèn pin cầm trên tay.

Mặt đất hơi dốc, đế giày của ông trượt trên lớp lá cây bao phủ mặt đất. Ông phải bám vào những cái cành cây để đứng vững. Chúng rậm rạp đến nỗi một cây gai làm ông bị xước nhẹ ở thái dương. Nhưng Vogel thậm chí không nhận ra điều đó. Chốc chốc ông lại dừng bước để xem bản đồ và la bàn. Ông phải khẩn trương lên, trước khi mặt trời mọc lên cao và ông bị người khác phát hiện.

Vogel đã đến một trảng rừng trống. Theo bản đồ, ông đang ở vị trí đánh dấu X đỏ. Nếu sự nghiệp và cuộc đời ông không bị đe dọa thì toàn bộ chuyện này chẳng khác nào một trò đùa. Mà xét cho cùng thì nó đúng là thế thật. Người sương mù đang chế giễu ông. Được rồi, để xem mày đã chuẩn bị gì cho tao nào, đồ khốn.

Vogel lia đèn pin qua lại trên mặt đất, nhưng chẳng thấy có gì bất thường. Tuy nhiên, khi hất đèn pin lên cao, ông trông thấy một thứ. Ai đó đã gài một hộp bánh quy trên một cành cây. Vụ Derg, ông nghĩ ngay trong đầu. Có vẻ như người sương mù đã biết điểm yếu của ông. Dù vậy ông thậm chí còn tán thưởng sự mỉa mai của mối liên hệ với kẻ cắt xẻo và bằng chứng ngụy tạo.

Vogel biết mình phải đào ở đâu.

Ông quỳ xuống bên gốc cây, đeo găng tay cao su và phủi chỗ lá mục trên mặt đất. Ông bắt đầu moi lớp đất ẩm, bất chấp nguy cơ bị bẩn quần áo. Ông không có ý định đào sâu, vì nếu thi thể của Anna Lou Kastner nằm dưới này thì ông không muốn nhìn thấy nó. Ông chỉ cần một sự xác nhận. Nhưng chỉ mới đào được vài xen ti mét, tay ông đã cảm thấy một thứ gì đó. Một miếng nhựa đục. Vogel ngần ngừ trong chốc lát, trước khi nắm lấy nó và dùng hết sức kéo mạnh. Ông lôi ra một thứ gì đó được quấn kỹ bằng băng keo để nội dung bên trong không bị ảnh hưởng.

Vogel lật cái gói lại để xem nó là cái gì. Ông lắc lắc nó bên tai và nghe thấy một âm thanh quen thuộc, tựa như một cái lục lạc của trẻ con. Dù cho món quà của người sương mù là gì, nó cũng không có vẻ gì là một mẩu thi thể. Kết thúc chuyện này đi, ông nhủ thầm, sự tức giận đã vượt trên nỗi sợ. Ông quyết định mở nó ra. Lớp băng keo quấn kỹ khiến ông mất một chút thời gian để gỡ bỏ. Tuy nhiên, khi ông nhận ra món đồ đó là gì, điều sợ hãi nhất của ông đã trở thành hiện thực. Nó khiến cổ họng ông nghẹn lại. Lần này thì không có một chút mỉa mai nào nữa.

Người sương mù đã tặng cho Vogel – gã cớm nổi tiếng trên truyền hình – một cuộn băng video.

Sự biệt lập làm các giác quan của anh trở nên nhạy bén hơn. Anh đã khám phá ra điều đó trong quá trình bị giam giữ. Anh không được phép đọc báo hoặc xem tivi, chiếc đồng hồ thạch anh cũng bị buộc phải giao nộp. Tuy nhiên, mùi thức ăn từ bếp bốc ra cho phép anh biết được khi nào họ nấu ăn, nhờ vậy anh xác định được thời gian khi sắp đến giờ ăn sáng, ăn trưa hoặc tối. Buồng giam của anh là một phôi thai, mọi thứ đi vào sẽ bị cầm giữ trong này, hệt như anh. Giờ đây những âm thanh của nhà tù đã trở nên quen thuộc với anh. Khi nghe thấy tiếng lách cách vang lên từ chùm chìa khóa của viên quản giáo phụ trách cửa tự động ngoài hành lang, anh biết ca trực đêm đã kết thúc và họ đang tiến hành giao ban với kíp trực sáng. Lúc đó là tầm 6 giờ.

Cánh cửa sắt đặc không cho phép anh quan sát những gì diễn ra bên ngoài, nhưng hình ảnh trên mặt sàn của ánh sáng lọt qua khe cửa cho Martini một số manh mối. Khi nhìn thấy những cái bóng, anh biết ai đó sắp bước vào phòng giam. Anh đứng dậy và chờ cho chìa khóa xoay trong ổ. Sau đó, cánh cửa mở ra, và hai bóng người xuất hiện giữa vùng ánh sáng ban ngày.

Đó là hai quản giáo mà anh chưa bao giờ trông thấy trước đây.

– Thu dọn đồ đạc mau lên. – Một trong hai người lên tiếng.

– Tại sao? Chúng ta đi đâu đây?

Không ai trả lời. Làm theo mệnh lệnh, Martini vơ vội cái chăn len màu nâu, chiếc cặp lồng và cái thìa thuộc sở hữu của nhà tù, cũng như bánh xà phòng thơm, mấy lọ dầu gội đầu và sữa tắm mà anh đã mua tại chỗ, tranh thủ đường dây bán hàng trong tù. Đó cũng là những món đồ cá nhân duy nhất của anh. Sau đó, anh đi theo hai người đàn ông.

Martini tưởng đâu anh được chuyển sang một buồng giam khác, nhưng họ đưa anh đi hết đoạn hành lang của khu biệt giam, tới chỗ cánh cửa lắp song sắt. Và tại đây, lạ lùng thay, không có một người canh gác nào. Thêm hai, ba đoạn hành lang nữa, rồi anh được đưa vào trong một thang máy để đi xuống hai tầng. Suốt quãng đường đi, anh không gặp một người nào – lại một chuyện lạ nữa. Không thể nào có chuyện các quản giáo đồng loạt bỏ vị trí vào cùng một thời điểm. Ngoài ra, nhà tù im ắng một cách đáng lo ngại. Thường thì vào giờ này, các tù nhân đã thức giấc và bắt đầu làm rộn lên để đòi bữa ăn sáng. Martini nhớ lại đêm vừa qua. Không một ai làm anh thức chong mắt bằng những tiếng la hét hoặc những lời đe dọa. Chuyện lạ thứ ba.

Họ đi đến một cửa an ninh. Khi Martini trông thấy chữ Khu F trên đó, anh nhận ra mình sắp bước vào khu vực dành cho phạm nhân thông thường, và trong lòng dấy lên một mối lo lắng.

– Khoan đã. – Anh nói. – Tôi là một phạm nhân đặc biệt. Tôi phải được biệt giam. Đã có lệnh như thế.

Hai người đàn ông phớt lờ câu nói của Martini và đẩy anh tới trước.

– Các ông không hiểu à? Các ông không thể giam tôi chung với những người khác.

Giọng nói anh run rẩy, nhưng hai quản giáo vẫn không thèm nghe. Họ mạnh bạo túm lấy cánh tay anh.

Họ đi đến trước cửa một buồng giam. Một trong hai quản giáo mở cửa, người kia nói với Martini:

– Anh sẽ ở đây một lúc, sau đó chúng tôi sẽ quay lại tìm anh.

Martini dợm bước tới, nhưng anh ngần ngừ. Buồng giam tối om, anh không nhìn thấy được bên trong có gì.

– Vào đi. – Tay quản giáo khích lệ anh bằng một giọng nói không làm anh yên tâm.

Một ý nghĩ vụt xuất hiện trong đầu Martini. Anh tin rằng hai người này cũng ghét anh như tất cả những người khác trong nhà tù này. Nhưng việc gì họ phải làm hại anh? Khác với các phạm nhân, họ buộc phải tuân thủ pháp luật. Thế là anh bước vào trong buồng giam. Cánh cửa khép lại phía sau lưng Martini. Anh đứng im, chờ một lúc cho mắt quen với bóng tối. Thế rồi anh nghe thấy những tiếng động xung quanh mình. Những tiếng sột soạt.

Sự biệt lập làm mọi giác quan trở nên nhạy bén. Martini nhận ra anh không một mình.

Khi bị một nắm đấm giáng vào mặt, anh loạng choạng mất thăng bằng. Những món đồ anh cầm trên tay rơi xuống đất cùng với anh. Tiếp đó, một cơn mưa đấm đá chụp xuống anh từ mọi phía. Martini cố gắng dùng tay tự bảo vệ, nhưng không thể né tránh được những cú ra đòn. Miệng anh tanh nồng vị máu, khuôn mặt anh rát buốt vì những vết rách. Mạng sườn anh đau điếng, và anh không thở được. Đến một lúc, anh không còn cảm thấy gì nữa. Anh chỉ còn là một đống thịt vô dụng nằm trên mặt sàn.

Thịt thối.

Không còn đau đớn nữa, chỉ còn sự mệt mỏi. Tâm trí đầu hàng trước cơ thể, anh để bản thân rơi vào một trạng thái đờ đẫn. Chỉ còn đôi tay anh duy trì một sự phản kháng yếu ớt và vô dụng. Mọi thứ tối om, nhưng mắt anh vẫn mờ đi. Và khi tất cả sắp biến mất, một luồng sáng bỗng xuất hiện, từ phía sau lưng anh. Anh cảm thấy có người thô bạo túm lấy anh và lôi ra khỏi buồng giam. Anh đã được an toàn, nhưng anh sẽ không bao giờ an toàn nữa.

Rồi anh ngất đi.

Ông chui vào trong căn buồng chật chội ở trường, nơi có đặt các đầu máy của hệ thống camera an ninh. Ánh sáng duy nhất phát ra từ màn hình phản chiếu trên khuôn mặt của ông, tạo ra một thứ mặt nạ u tối.

Vogel nhét cuộn băng vào trong đầu máy. Nó bị nuốt chửng sau cú ấn nhẹ của ông. Tiếp đó, một loạt những tiếng động vang lên báo hiệu các bánh răng đã đón được dải băng và trải chúng lên đầu từ. Đoạn phim bắt đầu hiện ra.

Thoạt đầu, chỉ có một màn hình nhiễu màu xám đi kèm với âm thanh khọt khẹt khó chịu. Vogel chỉnh lại âm lượng. Ông không muốn người ta nghe thấy mình từ bên ngoài. Vài giây sau, hình ảnh đột ngột thay đổi.

Một luồng sáng hẹp chiếu lên một bề mặt mờ đục. Những viên gạch lát bẩn thỉu và nứt nẻ. Âm thanh vang lên những tiếng lục cục. Người quay đoạn phim đang cố gắng chỉnh máy. Sau đó, luồng sáng lướt theo một vách tường và dừng lại trước một tấm gương. Bóng đèn nhỏ bên trên ống kính bị phản chiếu mạnh. Vogel chỉ nhận ra được bàn tay của người quay phim đeo găng màu đen. Sau đó, hắn bước qua một bên để người ta nhìn thấy được khuôn mặt mình. Hắn đội một cái mũ trùm lún mặt, chỉ chừa lại đôi mắt – xa vắng, không thể diễn giải. Trống rỗng.

Người sương mù, Vogel tự nhủ. Ông chờ hắn nói hay làm một điều gì đó, nhưng hắn chỉ đứng đó. Bất động. Có thể nghe thấy tiếng thở của hắn – bình thản và đều đặn. Nó mất hút trong những vọng âm của phòng tắm nhỏ xíu, nơi hắn đang đứng. Đây là chỗ nào? Tại sao hắn muốn cho ông xem? Vogel ghé mặt lại gần màn hình để xem cho rõ hơn và nhận ra ở phía sau hắn có một cái khăn mặt cũ sờn treo trên một cái móc.

Bên trên đó là hai hình tam giác nhỏ màu xanh lá cây.

Vogel đang tự hỏi ý nghĩa của biểu tượng đó là gì thì người đàn ông trên màn hình đã giơ bàn tay mình về phía máy quay. Những ngón tay đi găng của hắn bắt đầu đếm:

Ba… hai… một…

Bỗng camera quay đi. Khuôn mặt đội mũ trùm kín biến mất, nhường chỗ cho một đốm sáng ở hậu cảnh. Ống kính mất vài giây để lấy nét.

Và Vogel đã nhìn thấy. Ông nhảy dựng.

Buồng tắm trông ra một căn phòng – phòng ngủ trong một khách sạn bỏ hoang. Ngồi trong một góc, phía cuối của một tấm nệm bẩn thỉu, là một dáng người mảnh khảnh. Ánh sáng từ bóng đèn nhỏ gắn trên camera khiến cho người đó như bị bao bọc bởi một quầng sáng, chính giữa bóng tối đáng sợ. Cái lưng cong lại, đôi tay buông xuôi trong tư thế cam chịu. Làn da của cô gái rất trắng. Cô chỉ mặc một chiếc quần lót màu xanh lá cây và một chiếc áo nịt ngực màu trắng. Những món đồ lót của bé gái. Camera lấy cận cảnh cô bé. Mái tóc đỏ lòa xòa che khuất khuôn mặt. Có thể nhìn thấy khuôn miệng hé mở, một vệt nước dãi rỉ ra bên mép. Mỗi lần cô bé hít thở, đôi vai gầy lại nhô lên rồi chầm chậm hạ xuống. Hơi thở của cô bé biến thành làn khói do cái lạnh, nhưng cô bé không run rẩy. Như thể cô bé không cảm thấy gì cả.

Anna Lou Kastner có vẻ gần như mất ý thức, chắc là do tác dụng của một loại thuốc nào đó. Vogel nhận ra cô bé nhờ vòng tròn nhỏ vẽ trên cẳng tay trái. Chữ O trong Oliver, chàng trai mùa hè mà cô bé đã đem lòng yêu. Bí mật nho nhỏ mà cô bé đã gửi gắm trong quyển nhật ký.

Camera nấn ná hồi lâu trên cơ thể cô bé, không chút thương xót. Sau đó, cô bé hơi ngẩng mặt lên, như thể muốn nói gì đó. Vogel chờ đợi, nhưng ông sợ nghe thấy giọng của cô bé. Lúc Anna Lou bắt đầu hét lên, đoạn phim kết thúc.

Việc đầu tiên ông làm là phá hủy cuốn băng video. Ông vứt nó vào trong nồi hơi của trường học, và chờ cho đến khi nó cháy hoàn toàn. Ông không thể liều lĩnh để người khác phát hiện mình có cuốn băng. Giờ đây ông thấy sợ đủ thứ.

Ông định thủ tiêu luôn quyển nhật ký của Anna Lou, nhưng đổi ý vào phút chót. Beatrice Leman có thể làm chứng rằng bà ta đã đưa nó cho ông, do vậy việc làm cho chứng cứ này biến mất không phải là một ý hay. Ngoài ra, nó không chứa đựng bất kỳ thông tin bất lợi nào đối với ông. Do vậy Vogel quyết định giữ lại quyển nhật ký, nhưng giấu nó trong một cái tủ quần áo của phòng thay đồ mà ông vẫn còn dùng làm văn phòng.

Tiếp đó, Vogel tiến hành một số tìm kiếm trên Internet. Ông phải tìm ra khách sạn bỏ hoang nơi đoạn phim được quay. Ông chắc chắn nó là một lời mời. Nếu ông tìm được thi thể của Anna Lou Kastner trong căn phòng đó, ông có thể chỉnh sửa hiện trường để gán tội cho thầy giáo Martini.

Đó là điều mà người sương mù muốn. Giờ đây Vogel tin chắc như thế.

Nếu không, tại sao hắn phải hướng dẫn ông tìm đến sự thật? Tại sao lại cho ông xem đoạn phim quay cô bé? Nếu chỉ muốn nhận trách nhiệm về vụ bắt cóc, hắn đã gửi nó cho truyền thông, chứ không phải cho ông.

Trên mạng, Vogel tìm kiếm các công trình phục vụ du lịch cũ của Avechot, tập trung trước hết vào những cái bị đóng cửa sau khi mỏ khoáng sản đi vào hoạt động và làm khách du lịch không đến nữa. Một số vẫn còn trang web trên Internet. Ông không có nhiều chi tiết trong tay. Thứ quan trọng nhất là hai hình tam giác màu xanh. Nhờ biểu tượng này, ông tìm được khách sạn.

Hai hình tam giác là hai cây thông cách điệu trên một bảng hiệu đã han gỉ gần như hoàn toàn.

Vogel đang đứng trước một cánh cổng mở vào khuôn viên bao quanh tòa nhà. Đã hơn 7 giờ, không có ai ở xung quanh khu vực này. Khách sạn nằm tại một địa điểm biệt lập, cách xa Avechot.

Cổng không khóa. Vogel mở nó ra, cho xe hơi chạy vào trong rồi xuống xe, khép cổng lại. Ông tắt hết đèn xe trong lúc chạy trên lối đi, trước khi dừng lại dưới một hiên nhà để không ai nhìn thấy chiếc xe.

Khách sạn có bốn tầng lầu. Cửa sổ của các phòng đã được bịt ván, nhưng cửa ra vào đã bị cạy mất một số tấm ván. Vogel bước vào bên trong và bật đèn pin lên.

Quang cảnh thật thảm hại. Mọi hoạt động mới chấm dứt cách đây năm năm, thế nhưng tưởng như cả một nửa thế kỷ đã trôi qua. Như thể tận thế đã quét qua chốn này. Gần như không còn vật dụng nào. Những bộ khung ghế sofa han gỉ nằm trong bóng tối. Hơi ẩm đã tấn công các vách tường, phủ lên chúng nhiều mảng rêu xanh, từ đó chảy ra các vệt nước đặc quánh màu vàng. Sàn nhà là một đống gạch vụn và gỗ mục. Vogel đi vòng qua thứ từng là một quầy lễ tân, nơi có giá treo chìa khóa, và tiến đến một cầu thang bằng xi măng trước đây chắc hẳn đã từng được phủ một lớp thảm sang trọng, vì những mẩu vải màu đỏ thẫm có hoa văn vẫn còn bám lại trên các bậc thang.

Ông đi lên cầu thang.

Lên đến tầng một, Vogel trông thấy một tấm biển chỉ dẫn cách đánh số các phòng ở hành lang bên tay phải và tay trái – từ 101 tới 125, và từ 126 tới 150. Ông nhẩm tính với bốn tầng lầu thì ông sẽ không có cơ hội tìm thấy căn phòng đó ngay lần thử đầu tiên. Nhưng ông không muốn nán lại lâu hơn mức cần thiết. Lúc đó ông chợt nhớ đến một chi tiết khác trong đoạn phim, cái mà cho đến lúc này ông không nhận ra tầm quan trọng của nó. Trước khi cho thấy hình ảnh Anna Lou, người sương mù có vẻ như đã đếm ngược bằng các ngón tay của hắn.

Ba… hai… một…

Nhưng đó không phải là một trò lố hay một sự bỡn cợt khác. Hắn muốn cho ông biết họ ở đâu.

Căn phòng 321 nằm ở tầng ba, phía cuối hành lang bên trái. Đứng im trên ngưỡng cửa, Vogel lia đèn pin vào trong phòng. Luồng ánh sáng quét qua lại trước khi dừng tại góc phòng, nơi có tấm nệm mà Anna Lou từng ngồi.

Nhưng không có thi thể nào trong phòng. Mùi tử khí cũng không.

Trong phòng không có bất kỳ dấu vết nào cho thấy sự thăm viếng của con người. Chuyện gì đây? Rồi Vogel nhận ra cửa buồng tắm đang đóng. Ông tiến lại gần, đặt bàn tay lên khung cửa, như thể nó có thể chỉ cho ông biết một điều gì đó, một thứ năng lượng của cái chết và sự hủy diệt. Phía sau cánh cửa này là nơi con quái vật đặt máy quay.

Hắn muốn mình mở nó ra. Giờ đây, người sương mù ra mệnh lệnh từ trong đầu Vogel.

Ông bèn nắm lấy tay nắm cửa và, một cách chậm rãi, ông ấn nó xuống. Rồi ông đẩy cho cửa mở toang ra.

Một luồng ánh sáng chói mắt ập thẳng vào ông.

Nó giống như một vụ nổ, nhưng không có nhiệt lượng. Một sóng chấn rực trắng đẩy ông lùi lại.

– Chộp lấy ông ta. Anh chộp được chưa? – Một giọng phụ nữ cất lên.

– Được rồi, tôi chộp được rồi! – Giọng khác đáp.

Vogel lui lại bước nữa, một tay giơ lên che mắt. Trong ánh sáng chói lòa, Ông nhìn thấy một người đàn ông với chiếc máy quay phim, phía sau anh ta là một dáng người đang chìa tay ra, đưa một thứ gì đó lại gần cằm ông.

Một chiếc micro.

– Thanh tra Vogel, ông giải thích như thế nào về sự có mặt của ông tại đây? – Stella Honer hỏi.

Bối rối, Vogel tiếp tục lui lại.

– Kênh truyền hình của chúng tôi đã nhận được một đoạn video, trong đó xuất hiện Anna Lou và tên bắt cóc. Ông biết cô bé đã ở trong khách sạn này sao?

Vogel suýt nữa ngã vào tấm nệm bẩn thỉu, nhưng ông kịp lấy lại thăng bằng.

– Để tôi yên! – Ông hét lên.

– Làm sao ông biết, và tại sao ông giữ kín thông tin này?

– Tôi… tôi…

Vogel cố tìm cách câu giờ, nhưng không nghĩ được gì. Kể cả việc lấy tư cách cảnh sát để hỏi xem bọn họ đang làm gì ở đây.

– Để cho tôi yên! – Ông lại hét lên.

Ông không thể nào tin nổi đó là chất giọng của mình – nó quá hoang mang, chói tai và run rẩy.

Đúng vào giây phút ấy, Vogel nhận ra sự nghiệp cảnh sát của ông đã hoàn toàn kết thúc.