← Quay lại trang sách

Chương 2 Nam sinh dẫn đầu lớp-và đám bad boy

Người nào kiểm soát được quá khứ sẽ kiểm soát được tương lai.

Aldous HUXLEY

1.

Paint It Black, No Surprises, One…

Ngay từ cổng vào khuôn viên trường trung học, dàn nhạc của trường đã chào đón khách khứa bằng cách chơi lại những bài nổi tiếng của các nhóm Stones, Radiohead và U2. Âm nhạc – vừa dữ dội vừa lôi kéo – đồng hành cùng bạn đến tận khu vực trung tâm của trường, quảng trường Cây Dẻ, nơi sẽ diễn ra các trò vui buổi sáng.

Nằm vắt ngang trên nhiều địa bàn (trong đó có Antibes và Valbonne) và thường được giới thiệu như Thung lũng Silicon của Pháp, Sophia Antipolis là một khối vuông cây xanh nằm giữa một Côte d’Azur đã bị bê tông hóa quá mức. Hàng ngàn công ty khởi nghiệp và những tập đoàn lớn chuyên hoạt động trong các lĩnh vực tiên phong đã đặt trụ sở trên hai ngàn héc ta rừng thông của vùng. Nơi này có những lợi thế để thu hút nhân lực từ khắp nơi trên thế giới: mặt trời rạng rỡ suốt ba phần tư thời gian trong năm, vị trí gần sát với biển Địa Trung Hải và các điểm trượt tuyết trên vùng núi Alpes, số lượng đông đảo các cơ sở tập luyện thể thao và trường quốc tế chất lượng cao, trong đó trường trung học Saint-Exupéry chính là mũi lao quan trọng. Đỉnh kim tự tháp giáo dục của tỉnh Alpes-Maritimes. Ngôi trường nơi bất cứ bậc cha mẹ nào cũng hy vọng được ghi danh cho con cái mình theo học vào một ngày nào đó, tin tưởng vào tương lai được hứa hẹn theo phương châm của trường: Tri thức là Sức mạnh (Scientia potestas est).

Sau khi đi qua phòng bảo vệ, tôi đi dọc theo tổ hợp hành chính và nhà giáo viên. Được xây dựng vào giữa những năm 1960, các tòa nhà hiện nay của khu học xá bắt đầu lỗi thời, nhưng toàn bộ khuôn viên vẫn còn là một ngoại lệ. Vị kiến trúc sư thiết kế ngôi trường này đã rất thông minh khi tận dụng khung cảnh tự nhiên có một không hai của vùng cao nguyên Valbonne. Vào buổi sáng thứ Bảy này, không khí mát mẻ và bầu trời xanh biếc. Giữa khu rừng thông và vùng cây bụi, giữa những vách đá và địa hình hiểm trở, những khối lập phương và lục diện bằng thép, bê tông và kính đan xen hài hòa giữa khung cảnh đồi núi. Ở bên dưới, xung quanh một cái hồ lớn, nằm ẩn hiện dưới những bóng cây, mọc lên những tòa nhà nhỏ ba tầng nhiều màu sắc. Đó là những tòa ký túc xá, mỗi tòa mang tên một nghệ sĩ từng lưu lại vùng Côte d’Azur: Pablo Picasso, Marc Chagall, Nicolas de Staël, Francis Scott Fitzgerald, Sidney Bechet, Graham Greene…

Từ năm mười lăm đến năm mười chín tuổi, tôi đã sống ở đây, trong căn nhà công vụ mà cha mẹ tôi được cấp hồi ấy. Những ký ức về thời kỳ đó vẫn còn rất sống động. Đặc biệt là cảm giác ngất ngây trong tôi mỗi sáng, khi thức dậy trước rừng thông. Từ căn phòng thời niên thiếu, quang cảnh vẫn tuyệt vời như quang cảnh tôi đang ngắm bây giờ: mặt hồ sáng lên lấp lánh, cây cầu tàu bằng gỗ và những bến neo thuyền trên hồ. Sau hai thập kỷ sống ở New York, rốt cuộc tôi đã khiến bản thân tin rằng tôi thích bầu trời xanh thẳm của Manhattan hơn là tiếng gió mistral và tiếng ve kêu, thích năng lượng của Brooklyn và Harlem hơn là mùi thơm của khuynh diệp và oải hương. Nhưng thật ra, điều đó có còn đúng nữa không? tôi tự hỏi trong lúc đi vòng qua Agora (một công trình bằng kính xây dựng ngay từ đầu những năm 1990 bao quanh thư viện và chứa nhiều giảng đường cùng cả một rạp chiếu phim). Rồi tôi đi đến trước các phòng học cũ kỹ, những công trình xây bằng gạch đỏ theo ảnh hưởng của phong cách gô-tích gợi nhắc đến một số trường đại học ở Mỹ. Những ngôi nhà này đã hoàn toàn lỗi thời và không hề ăn nhập với tính nhất quán trong kiến trúc tổng thể, nhưng chúng vẫn là niềm tự hào của trường Saint-Ex, mang lại cho trường dáng dấp của một trường thuộc Ivy League(2) danh giá, và mang lại cho các bậc phụ huynh niềm tự hào được gửi gắm hậu duệ của mình ở một trường Harvard của vùng.

“Thế nào, Thomas Degalais, có người đang tìm cảm hứng cho cuốn tiểu thuyết mới chăng?”

2.

Giọng nói vang lên từ phía sau khiến tôi ngạc nhiên, và tôi quay ngoắt lại, thì thấy khuôn mặt tươi rói của Stéphane Pianelli. Mái tóc dài, để râu và ria mép theo kiểu lính ngự lâm, mắt kính tròn theo phong cách John Lennon và túi nhỏ đeo chéo qua vai: anh chàng phóng viên báo Nice Buổi sáng vẫn giữ nguyên bộ tịch lố lăng thuở sinh viên. Chỉ có một nhượng bộ duy nhất với thời đại, đó là chiếc áo thun mà cậu ta trưng ra bên trong chiếc áo gi-lê không tay của cánh phóng viên được tô điểm bằng chữ Phi nổi tiếng, biểu tượng của đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất.

“Chào Stéphane,” tôi vừa đáp lại vừa bắt tay cậu ta.

Chúng tôi đi vài bước cùng nhau. Pianelli bằng tuổi tôi, và cũng giống tôi, cậu ta quê gốc ở đây. Chúng tôi từng học cùng lớp đến tận năm cuối cấp trung học. Tôi vẫn còn nhớ anh chàng là một kẻ to mồm, một tay hùng biện xuất sắc với khả năng tam đoạn luận thường khiến các giáo viên của chúng tôi phải lúng túng. Đó là một trong những học sinh hiếm hoi của trường có ý thức chính trị. Sau khi lấy bằng tú tài, trong khi kết quả học tập cho phép Stéphane theo học lớp dự bị ở Saint-Ex để vào Học viện Nghiên cứu chính trị Paris Sciences-Po, cậu ta lại thích tiếp tục sự nghiệp học hành theo ngành văn chương ở Nice. Cái khoa mà cha tôi coi là nhà máy sản xuất người thất nghiệp còn mẹ tôi, người vốn cấp tiến hơn cả cha tôi, gọi là một mớ tạp nham những kẻ xuẩn ngốc tả khuynh. Nhưng Pianelli vẫn giữ nguyên bản tính ưa công kích của mình. Ở Carlone – khu học xá khoa Văn, anh chàng đã khôn ngoan nương theo phong trào của đảng xã hội và đạt được vinh quang đầu tiên vào một tối mùa xuân năm 1994, trong chương trình trên kênh France 2, Thanh niên ngày mai. Chương trình truyền hình trực tiếp này, trong vòng hơn hai giờ đồng hồ, đã truyền đi lời phát biểu của hàng chục sinh viên có thái độ thù địch với CIP, mức lương tối thiểu trứ danh mà chính phủ tìm cách áp đặt với họ. Mới đây, tôi đã xem lại chương trình đó trên trang mạng lưu trữ thông tin nghe nhìn quốc gia, và ấn tượng mạnh trước sự tự tin của Pianelli. Người ta đưa micro cho cậu ta hai lượt, và cậu ta đã tận dụng nó để chất vấn và gây khó khăn cho các nhân vật dày dạn kinh nghiệm chính trường. Đúng là một anh chàng cứng đầu, không nao núng trước bất cứ ai.

“Cậu có ý kiến thế nào về việc Macron tranh cử?” cậu ta đột ngột hỏi tôi. (Vậy là cậu ta vẫn không bao giờ hết thao thao bất tuyệt về chính trị.) “Đó là một tin tốt cho những người như cậu, đúng thế không?”

“Các nhà văn ư?”

“Không, những kẻ giàu có tệ hại!” cậu ta trả lời, mắt lóe lên.

Pianelli có tính ưa châm chọc, thường là ác ý, nhưng dù sao tôi vẫn quý cậu ta. Pianelli là học sinh duy nhất ở Saint-Ex mà tôi thường xuyên gặp lại, bởi vì cậu ta thường phỏng vấn tôi để viết bài cho tờ báo của mình mỗi lần tôi xuất bản một tiểu thuyết. Theo tôi được biết, cậu ta chưa bao giờ có tham vọng gây dựng sự nghiệp trong ngành báo chí quốc gia, mà thích làm một phóng viên tổng hợp hơn. Ở Nice Buổi sáng, cậu ta có thể viết bất cứ thứ gì cậu ta muốn – chính trị, văn hóa, cuộc sống thị thành – và cậu ta coi trọng sự tự do đó trên tất cả. Đảm nhận vai trò của một phóng viên chuyên săn tin đặc biệt với ngòi bút đáng gờm không ngăn cậu ta giữ được thái độ khách quan nhất định. Tôi thường thích thú đọc những bài viết của cậu ta về những tiểu thuyết của tôi, bởi vì cậu ta rất biết cách đọc ra những ẩn ý đằng sau các câu từ. Những bài báo của cậu ta không phải lúc nào cũng mang tính ca ngợi, nhưng ngay cả khi tỏ thái độ dè dặt, Pianelli vẫn không quên rằng đằng sau một cuốn tiểu thuyết – và ta cũng có thể nói như thế về một bộ phim hoặc một vở diễn sân khấu – thường là những năm tháng dài lao động, nghi hoặc, lật đi lật lại một vấn đề, và ta có thể phê bình những năm tháng ấy, nhưng sẽ là tàn nhẫn và hợm hĩnh nếu thực hiện việc phê bình ấy chỉ bằng vài dòng. ‘Cuốn tiểu thuyết thảm hại nhất chắc hẳn cũng vẫn giá trị hơn lời phê bình chỉ ra rằng đó là một cuốn tiểu thuyết thảm hại,’ một hôm cậu ta còn tâm sự với tôi như thế, bằng cách áp dụng lại vào lĩnh vực văn chương câu nói nổi tiếng của Anton Ego, nhà phê bình ẩm thực nói về bộ phim Chú chuột đầu bếp Ratatouille.

“Nói nghiêm túc nhé, cậu đến đây làm gì vậy, hả nghệ sĩ?”

Vẫn tỏ vẻ không đả động gì đến nó, nhưng anh chàng phóng viên này đang đánh hơi địa bàn, thăm dò và sắp sửa ra đòn với tôi. Cậu ta biết được một số đoạn trong quá khứ của tôi. Có thể cậu ta đã cảm nhận được sự căng thẳng của tôi, khi tôi thọc tay vào túi để xoắn vặn cặp kính giống hệt cặp kính của Vinca cùng lời đe dọa ai đó đã gửi cho tôi mười lăm phút trước.

“Quay trở về với gốc rễ của mình chẳng bao giờ là tồi tệ cả, đúng không? Khi có tuổi, ta sẽ…”

“Chấm dứt bài diễn văn lừa phỉnh của cậu đi,” cậu ta vừa cắt lời tôi vừa cười khẩy. “Cuộc họp mặt cựu học sinh này là toàn bộ những gì cậu ghét nhất, Thomas ạ. Nhìn cậu xem, với chiếc áo sơ mi Charvet và cái đồng hồ Patek Philippe cậu đang mang. Đừng có tìm cách khiến tôi tin rằng cậu đã đáp máy bay từ New York đến đây để vừa hát bản nhạc nền phim Goldorak vừa nhai kẹo cao su Malabar cùng với những gã mà cậu vẫn coi khinh.”

“Cái này thì cậu nhầm rồi. Tôi chẳng coi khinh ai cả.”

Và sự thật đúng là như thế.

Anh chàng phóng viên chằm chằm nhìn tôi, đầy nghi hoặc. Rất khó nhận thấy, nhưng ánh mắt cậu ta đã thay đổi. Hai mắt sáng lên như thể cậu ta đã chi phối được điều gì đó.

“Tôi hiểu rồi,” cuối cùng cậu ta cũng vừa nói vừa gật đầu với tôi. “Cậu đến đây bởi vì cậu đã đọc được bài báo của tôi!”

Câu nói của cậu ta khiến tôi nghẹt thở, như thể cậu ta vừa táng một cú thẳng vào bụng tôi. Làm sao cậu ta biết được điều đó?

“Cậu đang nói về chuyện gì vậy, Stéphane?”

“Đừng giả vờ ngây thơ nữa.”

“Tôi sống ở TriBeCa,” tôi cố lấy giọng bình thản. “Tờ báo mà tôi đọc trong lúc uống cà phê là New York Times. Không phải tờ báo lá cải nhà cậu. Cậu đang ám chỉ đến bài báo nào vậy? Bài báo về lễ kỷ niệm năm mươi năm thành lập trường chăng?”

Cứ nhìn vẻ mặt nhăn nhó và đôi lông mày nhíu lại của cậu ta thì chúng tôi đang không nói về cùng một chủ đề. Nhưng cảm giác nhẹ nhõm trong tôi chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì cậu ta đã tuyên bố:

“Tôi đang ám chỉ đến bài báo về Vinca Rockwell.”

Lần này, nỗi ngạc nhiên khiến tôi sững người.

“Vậy là đúng rồi, cậu không biết chuyện!” cậu ta kết luận.

“Nhưng biết chuyện gì mới được chứ, mẹ kiếp?”

Pianelli gật đầu rồi lấy từ trong túi đeo chéo ra một cuốn sổ ghi chép.

“Tôi phải đi làm việc đây,” cậu ta nói khi chúng tôi đi đến quảng trường lớn. “Tôi phải viết một bài cho tờ lá cải nhà tôi, thế đấy.”

“Chờ đã, Stéphane!”

Hài lòng với tác động mình vừa gây ra, anh chàng phóng viên bỏ mặc tôi sau khi khẽ vẫy tay.

“Chúng ta sẽ nói chuyện lại với nhau sau.”

Trong lồng ngực, tim tôi đang đập thình thịch. Có một điều chắc chắn: tôi còn chưa biết hết những điều bất ngờ.

3.

Quảng trường Cây Dẻ rung lên theo nhịp của dàn nhạc và những cuộc trò chuyện theo từng nhóm nhỏ đang đà sôi nổi. Mặc dù ở đây trước kia có rất nhiều cây cổ thụ, nhưng chúng đã bị chết hàng loạt vì một loài ký sinh trùng. Quảng trường vẫn giữ nguyên tên gọi cũ, nhưng lúc này được trồng toàn chà là kiểng, hình thù duyên dáng của chúng gợi cho ta nghĩ đến những kỳ nghỉ và cảnh thanh nhàn. Dưới những mái lều lớn bằng vải mộc, người ta đã dựng lên một quầy đồ ăn tự chọn, kê những hàng ghế tựa và chăng những dải đèn hoa rực rỡ. Trên bãi đất đen đặc người là điệu vũ của những nhân viên phục vụ đội mũ rơm và mặc áo thủy thủ đang bận rộn tiếp đồ uống cho các khách mời.

Tôi nhặt chiếc ly trên một cái khay, nhấp môi rồi gần như ngay lập tức đổ thứ nước hổ lốn đó vào một bồn hoa. Được gọi là món cocktail nhà làm, ban tổ chức đã không tìm được thứ gì hay ho hơn là mời thực khách một thứ nước dừa kinh khủng trộn với iced tea vị gừng. Tôi lại gần quầy đồ ăn. Cả ở đây, rõ ràng người ta cũng lựa chọn phiên bản tiệc light. Tưởng như ta đang ở California hoặc một nơi nào đó ở Brooklyn, nơi đế chế healthy đang trị vì. Quên đi những món bánh nhồi kiểu Nice, những bánh rán hoa bí ngòi và pizza phiên bản Nice. Chỉ còn những món rau cắt khúc tẻ ngắt, những cốc kem ít béo và những lát bánh mì nướng pho mai được chứng nhận là không có gluten.

Tôi rời khỏi khu bàn bày đồ ăn để đến ngồi trên mấy bậc cao bằng bê tông láng xi măng bao quanh một phần quảng trường, theo kiểu phòng nghe nhạc. Tôi đeo kính mát lên, rồi yên ổn ở vị trí quan sát của mình, tò mò ngắm nhìn các bạn đồng môn.

Họ chúc tụng lẫn nhau, người nọ vỗ vai người kia, họ hôn nhau, khoe với nhau những bức ảnh đẹp nhất của con họ – những em bé hoặc những cô cậu thiếu niên – trao đổi với nhau địa chỉ email, số điện thoại di động, người nọ thêm người kia vào danh sách bạn bè trên các mạng xã hội. Pianelli nói không sai: tôi hoàn toàn nằm ngoài những chuyện đó. Thậm chí còn không thể giả vờ nổi. Trước hết, bởi vì tôi không có chút hoài nhớ nào những năm trung học. Thêm nữa, bởi vì về bản chất tôi vốn là kẻ cô độc, trong túi lúc nào cũng có một cuốn sách, nhưng không có tài khoản Facebook, một kẻ rầu rĩ chuyên làm mất vui, không thích hợp cho lắm với những mong đợi của một thời đại tôn sùng những nút Like. Và cuối cùng, bởi vì thời gian trôi qua chẳng hề khiến tôi cảm thấy lo buồn. Tôi không phát hoảng khi thổi tắt bốn mươi ngọn nến hay khi những sợi tóc bạc bắt đầu nở rộ hai bên thái dương. Nói thực lòng, thậm chí tôi còn nôn nóng muốn già đi, bởi vì như thế cũng chính là gia tăng khoảng cách với cái quá khứ, không những không hề là một thiên đường đã mất, mà đối với tôi còn chẳng khác nào tâm chấn của một thảm kịch mà tôi phải trốn chạy suốt cuộc đời.

4.

Nhận xét đầu tiên khi quan sát đám cựu học sinh: phần lớn những người chịu di chuyển đến đây đều tiến thân trong những môi trường khá giả, nơi người ta chăm chút để không tăng cân quá nhiều. Ngược lại, chứng hói đầu là đại dịch trầm trọng nhất ở cánh đàn ông. Không phải thế sao, hả Nicolas Dubois? Cậu ta đã cấy tóc hỏng. Alexandre Musca thì cố gắng che giấu khoanh hói trên đỉnh đầu bằng một lọn tóc dài vắt ngang đỉnh sọ. Còn Romain Roussel, cậu ta đã thẳng thừng chọn cách cạo trọc cả đầu.

Tôi cảm thấy ngạc nhiên dễ chịu với trí nhớ của bản thân: trong số các khách mời cùng thế hệ, tôi có thể chỉ mặt gọi tên hầu hết mọi người. Từ xa, quang cảnh trông thật thú vị. Thậm chí đôi khi còn rất cuốn hút, nhất là khi đối với một số người, sự kiện này dường như có mùi vị của một sự trả thù quá khứ. Manon Agostini chẳng hạn. Cô nữ sinh trung học xấu xí và rụt rè trước kia đã trở thành một phụ nữ xinh đẹp đang trò chuyện đầy tự tin. Christophe Mirkovic cũng chuyển biến theo hướng tương tự. Anh chàng mọt, mặc dù hồi đó chúng tôi chưa biết đến cách gọi ấy, không còn chút gì giống với cậu học sinh chuyên bị bắt nạt, mặt đầy mụn trứng cá và hay mơ mộng viển vông mà tôi vẫn giữ trong trí nhớ, và tôi mừng cho cậu ta về điều đó. Đậm phong cách Mỹ, cậu ta khoe khoang thành công của mình không chút mặc cảm, ca ngợi những phẩm chất của chiếc siêu xe điện Tesla cậu ta đang đi, nói tiếng Anh với cô bạn gái kém cậu ta cả hai chục tuổi, đối tượng đang thu hút rất nhiều ánh mắt.

Ngược lại, Erie Lafitte lại thay đổi theo chiều hướng xấu đi rất nhiều. Tôi vẫn nhớ về cậu ta như hóa thân của một vị á thần. Một thiên thần tóc nâu: Alain Delon trong phim Trưa tím. Hôm nay, Eric the King đã trở thành một anh chàng buồn rầu bụng phệ, mặt rỗ, giống với Homer Simpson hơn là với nam chính trong phim Rocco và các anh em (3).

Kathy và Hervé Lesage tay trong tay đến dự hội trường. Hai người họ đã cặp đôi từ khi còn học lớp mười một phân ban khoa học và kết hôn sau khi ra trường. Kathy (tên gọi rút ngắn được chồng cô đặt cho) tên thật là Katherine Laneau. Tôi vẫn còn nhớ đôi chân tuyệt đẹp của cô nàng – chắc hẳn cô vẫn giữ được đôi chân ấy, mặc dù đã đổi chiếc váy ngắn kiểu Scotland thành một bộ vest đồng bộ – và vốn tiếng Anh hoàn hảo, đậm chất văn chương, mà cô vẫn đang sử dụng. Tôi thường tự hỏi tại sao một cô gái như thế lại có thể đem lòng yêu một gã như Hervé Lesage. Có biệt danh là Régis – hồi đó là thời kỳ thịnh hành của chương trình truyền hình Những kẻ vô tích sự với câu châm ngôn Régis là một gã ngốc - Hervé có diện mạo tầm thường, óc bằng quả nho, thường đưa ra những nhận xét không đúng lúc hoặc đặt ra cho các giáo viên những câu hỏi hoàn toàn trật lất, và nhất là, dường như cậu ta không hề nhận ra rằng bạn gái mình có đẳng cấp gấp trăm lần những gì cậu ta có thể có được. Hai mươi lăm năm sau, với chiếc áo bu-dông bằng da đanh và vẻ mặt đầy thỏa mãn, Régis vẫn giữ nguyên dáng vẻ ngốc nghếch trước đây. Để tình hình thêm tồi tệ, cậu ta còn đến đây với một chiếc mũ lưỡi trai của đội Paris Saint-Germain trên đầu. Miễn bình luận (No comment).

Nhưng, nói về khoản trang phục thì Fabrice Fauconnier mới là người giữ chức vô địch. Là phi công của hãng Air France, Faucon(5) tự hào trưng diện bộ đồng phục cơ trưởng. Tôi nhìn cậu ta xênh xang đi lại giữa những mái tóc vàng, những đôi giày cao gót và những bộ ngực được tút tát lại. Anh chàng bảnh trai ngày nào không buông thả bản thân: cậu ta vẫn giữ được vóc dáng săn chắc, nhưng mái tóc điểm bạc, ánh mắt bám riết và thái độ hợm hĩnh công khai đã dán lên người cậu ta cái nhãn đẹp lão. Vài năm trước, tôi gặp cậu ta trên một chuyến bay chặng vừa. Cứ như thể tôi là một thằng bé năm tuổi, cậu ta tưởng sẽ khiến tôi thích thú khi mời tôi vào khoang lái để xem máy bay hạ cánh…

5.

“Ôi khốn khổ thay, Faucon xuống cấp rồi!”

Fanny Brahimi nháy mắt với tôi rồi ôm hôn tôi nồng nhiệt. Cả cô cũng đã thay đổi rất nhiều. Là người gốc Kabyle, Fanny là một cô nàng nhỏ nhắn tóc vàng có đôi mắt nhạt màu và mái tóc ngắn, lênh khênh trên đôi giày cao gót, đôi chân bị bó chặt trong chiếc quần jean vừa khít. Hai chiếc cúc không cài trên áo sơ mi để lộ nơi bắt đầu khe ngực và chiếc áo choàng trench-coat ôm sát khiến vóc dáng cô cao ráo hơn. Trong phần đời trước kia, tôi biết đến cô như một tín đồ của dòng nhạc grunge(6), kéo lê đôi Doc Martens bằng da cũ sờn, cả người chìm lút trong những chiếc sơ mi kẻ ca rô chẳng ra hình thù gì, những chiếc áo khoác dài vá víu và những chiếc quần jean 501 rách rưới.

Vốn giỏi xoay xở hơn tôi, Fanny đã tìm được một ly rượu sâm panh.

“Ngược lại, tôi không thể nào tìm được bỏng ngô,” cô vừa nói vừa ngồi xuống bên cạnh tôi, như thể chúng tôi sắp sửa xem một bộ phim.

Giống như khi còn là nữ sinh trung học, cô đeo trên cổ một chiếc máy ảnh – một chiếc Leica M – và bắt đầu chụp ảnh đám đông.

Tôi đã quen biết Fanny từ lâu. Maxime, cô và tôi từng học cùng ở trường tiểu học trong khu Fontonne, nơi còn được chúng tôi gọi là trường cũ với những tòa nhà đẹp đẽ mang phong cách Nền Cộng hòa thứ ba, ngược lại với những công trình lắp ghép của trường René-Cassin mà thành phố Antibes mở ra sau này. Thời niên thiếu, Fanny từng là bạn gái thân thiết của tôi. Đó là cô gái đầu tiên tôi đi chơi cùng, hồi cấp hai, năm lớp chín. Một chiều thứ Bảy, chúng tôi đi xem Rain Man ở rạp chiếu phim, và trên đường về, trong chuyến xe buýt đưa chúng tôi trở về Fontonne, trong lúc mỗi đứa đeo một bên tai nghe chiếc Walkman của tôi, chúng tôi đã trao nhau vài nụ hôn vụng về. Bốn hay năm lần gì đó, giữa bài Bởi vì em ra đi và Miễn là họ dịu dàng. Chúng tôi hẹn hò với nhau đến tận năm lớp mười một, rồi chia tay nhưng vẫn là bạn bè. Fanny nằm trong số những cô gái chín chắn và tự do, những người bắt đầu từ năm cuối cấp đã ngủ với người này người kia nhưng chẳng gắn bó với một ai. Đó là chuyện hiếm ở Saint-Ex, và nhiều người lên án cô. Còn tôi vẫn luôn tôn trọng cô, nhất là bởi vì đối với tôi, cô giống như hiện thân của một dạng thức tự do nhất định. Cô là bạn của Vinca, là một nữ sinh xuất sắc và là một cô gái tốt bụng, ba phẩm chất khiến cô trở nên quý giá đối với tôi. Sau khi học xong đại học Ý, cô đã lăn lộn rất nhiều giữa công việc của một bác sĩ chiến trường và những chuyến công tác nhân đạo. Tôi tình cờ gặp lại cô, vài năm trước, trong một khách sạn ở Beyrouth nơi tôi tham gia Hội chợ sách Pháp ngữ, và cô đã tâm sự với tôi là cô có ý định trở về Pháp.

“Cậu có nhìn thấy các thầy cô giáo cũ không?” cô hỏi tôi.

Bằng một cái hất cằm, tôi chỉ cho cô thầy N’Dong, thầy Lehmann và cô Fontana, giáo viên toán, vật lý và khoa học tự nhiên.

“Một xâu toàn những nhân vật tàn ác,” Fanny vừa buông thõng một câu vừa chụp ảnh ba người họ.

“Về điểm này, tôi không thể nói là cậu sai được. Cậu làm việc ở Antibes à?”

Cô gật đầu.

“Từ hai năm nay, tôi làm ở khoa tim mạch, bệnh viện Fontonne. Tôi điều trị cho mẹ cậu ở đấy. Bà không kể với cậu sao?”

Thấy tôi im lặng, cô hiểu ra là tôi không biết chuyện đó.

“Mẹ cậu được theo dõi sức khỏe kể từ khi bà bị một cơn nhồi máu cơ tim nhẹ, nhưng bây giờ thì ổn rồi,” Fanny trấn an tôi.

Tôi rất đỗi ngạc nhiên.

“Giữa tôi và mẹ tôi, mọi chuyện khá phức tạp,” tôi nói để lảng tránh chủ đề này.

“Đám con trai, người nào mà chẳng nói thế, đúng không?” cô hỏi tôi mà không tìm cách biết thêm thông tin.

Rồi cô đưa tay chỉ một giáo viên khác.

“Cô ấy thì lại rất dễ mến!” Fanny thốt lên.

Tôi phải mất một lúc mới nhận ra người đó. Cô DeVille, một giáo viên người Mỹ dạy môn văn học Anh ở lớp dự bị chuyên ngành văn chương.

“Hơn nữa, cô ấy trông vẫn rất ngon lành!” Fanny trầm trồ. “Chẳng khác nào Catherine Zeta-Zones!”

Cô DeVille cao hơn một mét tám. Đi đôi giày cao gót, cả người bó chặt trong chiếc quần bằng da và một áo vest không cổ, cô có mái tóc dài và thẳng phủ xuống vai như những chiếc đũa. Với dáng người thon mảnh thanh thoát, trông cô còn trẻ trung hơn cả một số nữ sinh cũ của mình. Cô bao nhiêu tuổi hồi đến dạy ở trường Saint-Ex? Hai mươi lăm chăng? Cùng lắm là ba mươi. Bởi vì tôi học lớp dự bị khoa học, nên cô chưa từng dạy tôi, nhưng tôi vẫn nhớ là cô rất được học sinh yêu mến, đặc biệt một số anh chàng còn dành cho có sự ngưỡng mộ gần như sùng bái.

Trong vòng vài phút, tôi và Fanny tiếp tục quan sát các bạn học cũ và nhắc lại những kỷ niệm. Khi nghe cô nói, tôi nhớ ra lý do tại sao tôi luôn yêu quý cô bạn này.

Từ cô toát ra điều gì đó rất tích cực, tràn đầy năng lượng. Và hơn nữa, cô lại còn có khiếu hài hước. Tuy nhiên, cô không có được một khởi đầu dễ dàng trong cuộc đời. Mẹ cô từng là một phụ nữ tóc vàng xinh đẹp với làn da nâu và ánh mắt dịu dàng đến chết người, bà là nhân viên bán hàng ở Cannes, trong một cửa hàng quần áo trên phố Croisette. Khi chúng tôi học lớp một, bà đã bỏ chồng và ba đứa con để đi theo ông chủ sang Nam Mỹ. Trước khi được nhận vào ký túc ở Saint-Ex, Fanny đã sống gần mười năm với bố, ông bị liệt sau một tai nạn lao động trên công trường. Cùng với hai người anh trai – không được sáng láng cho lắm – cả nhà cô sống trong một căn nhà cho thuê giá rẻ cũ nát. Không phải những địa điểm được nhắc đến trong các cẩm nang du lịch của khu Antibes-Juan-les-Pins.

Nữ bác sĩ tim mạch buông thêm vài câu chế nhạo, kiểu dễ dãi nhưng thú vị. ‘Étienne Labitte, cậu ta vẫn giữ nguyên vẻ mặt như cái bìu,’ rồi quay sang nhìn tôi chăm chú với một nụ cười kỳ quặc trên môi.

“Cuộc đời đã phân lại một số vai, nhưng cậu thì vẫn luôn như thế.”

Cô ngắm tôi qua ống kính chiếc Leica, rồi vừa chụp chân dung tôi vừa tiếp tục bài diễn thuyết.

“Học sinh dẫn đầu lớp, đẳng cấp sang chảnh, sạch sẽ bảnh bao, với chiếc vest nỉ đẹp đẽ và sơ mi xanh da trời.”

“Do cậu nói ra, nên tôi thừa hiểu đó không phải một lời khen.”

“Cậu nhầm rồi.”

“Con gái chỉ thích đám bad boys, không phải thế sao?”

“Hồi mười sáu tuổi thì đúng. Nhưng không phải ở tuổi bốn mươi!”

Tôi nhún vai, nheo mắt rồi giơ tay lên che mắt cho khỏi chói.

“Cậu đang tìm ai sao?”

“Maxime.”

“Vị dân biểu tương lai của chúng ta ư? Tôi vừa cùng cậu ấy hút một điếu thuốc ở bên cạnh nhà thể chất, nơi sẽ diễn ra bữa tiệc họp mặt của khóa chúng ta. Cậu ấy không có vẻ gì là vội vàng đi tiến hành chiến dịch vận động tranh cử cả đâu. Chết tiệt, cậu có nhìn thấy mặt Aude Paradis không? Đập đi xây lại hoàn toàn, tội nghiệp cô nàng! Cậu có chắc là không có bỏng ngô không, hả Thomas? Tôi có thể ngồi ở đây hàng giờ. Cũng thú vị gần bằng Trò chơi vương quyền!”

Nhưng sự phấn khích của cô đột ngột tắt ngấm như bị giội nước lạnh, khi cô nhìn thấy hai nhân viên của trường đang kê một chiếc bục nhỏ và lắp micro.

“Sorry, tôi sẽ bỏ qua những bài diễn văn chính thức, cô vừa tuyên bố với tôi vừa đứng dậy.”

Ở đầu bên kia bậc thang, Stéphane Pianelli đang ghi chép và hào hứng trò chuyện với viên quận trưởng. Khi bắt gặp ánh mắt tôi, anh chàng phóng viên tờ Nice Buổi sáng khẽ đưa tay lên vẫy, chắc hẳn cử chỉ đó có ý nghĩa đại loại là “Đừng đi đâu cả, tôi đến đây”.

Fanny phủi bụi trên chiếc quần jean, rồi bằng phong cách rất riêng, cô bắn ra mũi tên cuối cùng.

“Cậu biết gì không? Tôi tin rằng cậu là một trong những gã trai hiếm hoi trên quảng trường này chưa từng ngủ với tôi.”

Tôi những muốn đáp lại bằng một câu nào đó hóm hỉnh, nhưng chẳng nghĩ ra điều gì phù hợp, bởi vì những lời vừa rồi của cô không nhằm mục đích pha trò. Chúng vừa buồn bã lại vừa phóng đại thái quá.

“Hồi ấy, cậu còn đang tràn ngập ngưỡng mộ trước Vinca,” cô nhớ lại.

“Đúng thế,” tôi thừa nhận. “Tôi yêu cô ấy. Cùng giống như mọi người ở đây thôi, đúng không?”

“Đúng thế, nhưng riêng cậu, lúc nào cậu cũng thần tượng hóa cô ấy.”

Tôi thở dài. Sau khi Vinca mất tích và thông tin về mối diễm tình giữa cô với một giáo viên trong trường bị lộ ra, những lời đồn đại và những chuyện ngồi lê đôi mách tha hồ được thêu dệt để biến cô gái trẻ thành một kiểu Laura Palmer(7) phiên bản Côte d’Azur. Twin Peaks ở xứ sở của Pagnol.

“Fanny này, cả cậu cũng sẽ không định bắt đầu đâu nhỉ.”

“Tùy cậu thôi. Chắc là làm đà điểu rúc đầu trong cát thì sẽ dễ dàng hơn. Nhắm mắt sống thì dễ (Living is easy with eyes closed), như lời của một bài hát.”

Cô cất máy ảnh vào túi xách, xem đồng hồ rồi đưa cho tôi ly rượu sâm panh mới uống phân nửa.

“Tôi bị muộn rồi, và lẽ ra tôi không nên uống thứ này. Tôi có phiên trực chiều nay. Hẹn gặp lại lần sau nhé, Thomas.”

6.

Bà hiệu trưởng đọc diễn văn, một công việc nhàm chán trống rỗng mà một số nhân vật trong hệ thống giáo dục quốc gia tự biến thành nó thành đặc sản. Xuất thân là người Paris, bà Guirard chưa tại vị ở nơi này bao lâu. Bà chỉ có chút hiểu biết sách vở về ngôi trường, và nhắc lại những chuyện nhàm chán của một nhà quản lý kiểu kỹ trị. Trong lúc nghe bà nói, tôi tự hỏi tại sao cha mẹ tôi không đến. Chắc là họ có được mời, với tư cách là cựu quản lý của trường. Tôi tìm kiếm cha mẹ trong đám đông nhưng vô ích, và sự vắng mặt của họ khiến tôi băn khoăn.

Sau khi kết thúc đoạn phát biểu về các giá trị toàn cầu về lòng khoan dung, về sự công bằng trong các cơ hội và về khả năng đối thoại giữa các nền văn hóa mà trường chúng ta vẫn luôn mang lại, lúc này nữ hiệu trưởng đang liệt kê những nhân vật xuất sắc đã từng theo học tại trường. Tôi cũng nằm trong số đó, cùng với chừng chục người nữa, và khi tên tôi được xướng lên và được vỗ tay hoan hô, một số ánh mắt quay nhìn về phía tôi. Tôi nở nụ cười hơi ngượng nghịu trước khi gật đầu phác một cử chỉ mơ hồ ngụ ý cảm ơn.

“Thôi xong rồi, cậu đã bị lột mặt nạ, nghệ sĩ ạ,” Stéphane Pianelli vừa cảnh báo vừa ngồi xuống bên cạnh tôi. “Trong vài phút nữa, người ta sẽ đến yêu cầu cậu ký tặng sách. Người ta sẽ hỏi cậu xem liệu con chó của Michel Drucker có sủa giữa các lần cắn hay không, và người ta sẽ muốn biết liệu Anne-Sophie Lapix có còn dễ thương nữa không sau khi các máy quay đã tắt.”

Tôi cảnh giác để khỏi bồi thêm vào sự hứng khởi của Pianelli, nhưng cậu ta vẫn tiếp tục bài độc thoại.

“Người ta cũng sẽ hỏi cậu tại sao lại để cho nhân vật chính chết ở đoạn kết Vài ngày bên em. Và cậu lấy đâu ra cảm hứng với cả…”

“Để cho tôi yên một lát đi, Stéphane. Lúc trước, cậu đang muốn nói chuyện gì với tôi nhỉ? Chuyện về bài báo đó là thế nào vậy?”

Anh chàng phóng viên hắng giọng.

“Cậu không có mặt ở Côte d’Azur hồi tháng trước sao?”

“Không, tôi mới đến sáng nay.”

“OK@ Cậu đã nghe nói đến các hiệp sĩ tháng Năm chứ?”

“Không, nhưng tôi hình dung là người ta không nhìn thấy họ chạy ở trường đua ngựa Cagnes-sur-Mer.”

“Rất thú vị đấy. Thật ra, đó là hiện tượng trời trở lạnh đôi khi xảy ra vào giữa mùa xuân và gây ra những trận băng giá muộn…”

Vừa nói, anh chàng vừa lấy từ trong túi áo bu-dông ra một điếu thuốc lá điện tử.

“Mùa xuân vừa rồi, trên vùng bờ biển này, thời tiết vô cùng tồi tệ. Lúc đầu trời rất lạnh, rồi chúng tôi phải chịu đựng những trận mưa như trút suốt nhiều ngày liền.”

“Nói ngắn gọn thôi, Stéphane.” Tôi cắt lời cậu ta. “Cậu không định nhắc lại với tôi bản tin thời tiết những tuần vừa rồi đấy chứ!”

Bằng một cái hất cằm, anh chàng phóng viên chỉ về phía những tòa nhà nhiều màu sắc của khu ký túc xá đang lấp lánh như ngàn đốm lửa dưới ánh mặt trời phía xa.

“Rất nhiều căn hầm trong khu ký túc xá đã bị ngập.”

“Chuyện đó thì có gì là mới. Cậu thấy độ dốc của địa hình rồi đấy! Ngay từ hồi chúng ta còn học ở đây thì cũng cứ hai năm lại ngập một lần rồi.”

“Đúng thế, nhưng dịp cuối tuần ngày 8 tháng Tư, nước lên đến tận các sảnh vào. Ban giám hiệu đã phải cho xử lý khẩn cấp và moi sạch toàn bộ các tầng ngầm.”

Pianelli rít vài hơi thuốc rồi nhả ra một dạng hơi nước thơm mùi cỏ roi ngựa và tinh dầu bưởi. So với những điếu xì gà của Che Guevara, cảnh tượng một nhà cách mạng đang rít thuốc lá điện tử mùi vị thảo dược có điều gì đó thật nực cười.

“Đặc biệt, trường đã loại bỏ cả vài chục tủ đựng đồ bằng kim loại han gỉ được tích trữ trong khu tầng hầm suốt từ giữa những năm 1990. Một công ty chuyên dọn dẹp đã được ủy quyền để chuyển chúng ra bãi rác, nhưng trước khi công ty đó bắt tay vào việc, một số học sinh đã đùa nghịch bằng cách mở các ngăn tủ ra. Và cậu sẽ không bao giờ đoán được chúng tìm thấy thứ gì đâu.”

“Nói cho tôi nghe xem nào.”

Anh chàng phóng viên cố kéo dài tác động của câu nói càng lâu càng tốt.

“Chúng tìm thấy một cái túi thể thao bằng da có chứa một trăm ngàn franc, toàn những tờ mệnh giá một trăm và hai trăm franc! Cả một gia tài nho nhỏ nằm ở đây suốt hơn hai chục năm…”

“Vậy là cảnh sát đã đến Saint-Ex?”

Tôi hình dung ra đám cảnh sát ập vào trường và toàn bộ cảnh náo động mà việc đó có khả năng gây ra.

“Chuyện đó thì khỏi phải nói rồi! Và như tôi đã kể lại trong bài báo của mình, thậm chí họ còn rất phấn khích. Một vụ án cũ, tiền bạc, một trường trung học danh giá: chẳng cần phải thúc đẩy nhiều thì họ cũng rà soát kỹ càng từng chút một, không chừa chỗ nào.”

“Để thu được kết quả gì?”

“Thông tin còn chưa được công bố, nhưng tôi biết họ đã tìm thấy trên chiếc túi hai dấu vân tay hoàn toàn có thể khai thác được.”

“Và?”

“Và một trong hai dấu vân tay đó đã được lưu trong hồ sơ của cảnh sát.”

Tôi nín thở trong lúc Pianelli chuẩn bị đòn tấn công mới. Cứ nhìn ánh lửa đang nhảy nhót trong mắt cậu ta, tôi hiểu rằng đòn tấn công đó sẽ khiến tôi rất đau đớn.

“Đó là dấu vân tay của Vinca Rockwell.”

Tôi chớp mắt nhiều lần trong lúc ghi nhận thông tin. Tôi cố gắng suy nghĩ về mọi nghĩa của câu nói ấy, nhưng não bộ tôi trống rỗng, không chịu hoạt động.

“Kết luận của cậu là gì, hả Stéphane?”

“Kết luận của tôi ư? Đó là tôi đã đúng ngay từ đầu!” anh chàng phóng viên nổi khùng.

Bên cạnh chính trị, vụ án Vinca Rockwell là sở thích lớn thứ hai của Stéphane Pianelli. Mười lăm năm trước, thậm chí cậu ta còn viết hẳn một cuốn sách về chủ đề này, với cái tiêu đề đậm chất Schubert: Cô gái và thần Chết. Một công trình điều tra nghiêm túc và toàn diện, nhưng không tiết lộ được thông tin gì đáng kể về vụ mất tích của Vinca cùng người tình.

“Nếu Vinca thực sự chuồn đi cùng với Alexis Clément,” cậu ta nói tiếp, “thì có lẽ cô ta đã mang theo số tiền ấy! Hoặc ít ra cũng phải quay lại để lấy!”

Tôi cảm thấy cách lập luận của cậu ta có vẻ hời hợt.

“Chẳng có gì chứng tỏ đó là tiền của cô ấy,” tôi phản bác. “Không phải vì trên túi có dấu vân tay của Vinca mà cho rằng số tiền là của cô ấy.”

“Vẫn phải thừa nhận rằng dù sao chuyện này cũng thật điên rồ.” Stéphane đồng ý với lập luận của tôi, nhưng tiếp tục phản công. “Số tiền ấy ở đâu ra? Một trăm ngàn franc! Vào những năm ấy, đó là một món khổng lồ.”

Tôi chưa bao giờ hiểu rõ luận đề chính xác của cậu ta về vụ án Rockwell là chỗ nào, nhưng đối với Stéphane, giả thuyết bỏ trốn là không có cơ sở. Không có bằng chứng thực sự, Pianelli vẫn chắc như đinh đóng cột rằng sở dĩ chưa bao giờ có tin tức gì về Vinca là bởi cô đã chết từ lâu. Và có khả năng Alexis Clément chính là kẻ đã giết cô.

“Chuyện đó có những hậu quả gì về mặt pháp lý?”

“Tôi chịu thôi,” cậu ta vừa trả lời vừa khẽ bĩu môi.

“Cuộc điều tra về vụ Vinca mất tích bị xếp xó nhiều năm nay. Cho dù bây giờ người ta có tìm ra thứ gì thì vụ này cũng hết thời hiệu rồi, đúng không?”

Vẻ trầm ngâm, cậu ta lấy mu bàn tay xoa xoa chòm râu.

“Cũng chưa nói. Có cả một án lệ phức tạp về vấn đề này. Ngày nay, trong một số trường hợp, thời hiệu không còn phụ thuộc vào việc thực hiện hành vi, mà phụ thuộc vào việc có phát hiện ra cái xác nào hay không.”

Trong lúc cậu ta nhìn chòng chọc vào mắt tôi, tôi chọn cách chịu đựng ánh nhìn ấy. Pianelli chắc chắn là một tay chuyên săn tin nóng, nhưng tôi vẫn luôn tự hỏi về nguyên nhân khiến cậu ta ám ảnh với vụ việc xưa cũ này đến thế. Nhất là, theo tôi còn nhớ, cậu ta không phải bạn thân của Vinca. Hai người họ không giao du, và cũng không hề hòa thuận với nhau.

Vinca là con gái của Pauline Lambert, một nữ diễn viên sinh ra ở Antibes. Một phụ nữ xinh đẹp có mái tóc hung cắt ngắn, và trong những năm 1970 bà từng đóng nhiều vai nhỏ trong các phim của Yves Boisset và Henri Verneuil. Điểm nhấn trong sự nghiệp điện ảnh của bà: một cảnh ngực trần hai mươi giây đóng chung với Jean-Paul Belmondo trong phim Vận Rủi (La Scoumoune). Năm 1973, trong một hộp đêm ở Juan-les-Pins, Pauline đã gặp Mark Rockwell, một tay đua xe người Mỹ cầm lái ở giải F1 cho đội Lotus trong một thời gian ngắn, và đã nhiều lần tham gia chặng 500 dặm của giải đua Indianapolis. Nhưng điều chủ yếu, Rockwell là con út trong một gia đình có thế lực ở Massachusetts, cổ đông chính của chuỗi siêu thị rất quen thuộc trong vùng Đông Bắc nước Mỹ. Ý thức được rằng sự nghiệp của mình đang giẫm chân tại chỗ, Pauline đã theo người tình đến Mỹ, nơi cặp đôi tổ chức lễ cưới. Vinca, con gái duy nhất của họ, ra đời ngay sau đó, ở Boston, nơi cô sống mười lăm năm đầu đời trước khi nhập học trường Saint-Ex, sau cái chết thê thảm của bố mẹ. Vợ chồng ông bà Rockwell nằm trong số những hành khách thiệt mạng trong một thảm họa hàng không, mùa hè năm 1989. Máy bay của họ bị giảm áp suất đột ngột khi đang rời phi trường Hawaii. Thảm kịch đã khiến người ta bàng hoàng, do khoang máy bay bị mở đột ngột, sáu hàng ghế hạng thương gia đã bị bật khỏi rồi cuốn ra ngoài thân máy bay. Vụ tai nạn đã gây ra cái chết của mười hai hành khách, và lần này, những người giàu nhất lại bị thua thiệt. Một giai thoại, chắc hẳn không phải không khiến Pianelli thích thú.

Do nguồn gốc xuất thân và cách hành xử của cô, xét bề ngoài, Vinca đương nhiên là hiện thân của tất cả những gì Pianelli căm ghét: con gái cưng của một ông bố thuộc tầng lớp tư sản Mỹ, một người thừa kế thuộc giới tinh hoa và trí thức, đắm chìm trong triết học Hy Lạp, điện ảnh của Tarkovsky, thơ ca của Lautréamont. Một cô gái hơi điệu đà, có nhan sắc siêu thực, không sống trong thế giới thực mà trong thế giới của riêng cô. Rốt cuộc, là một cô gái hơi khinh khỉnh đối với những gã trai trẻ kiểu Stéphane, mặc dù cô không ý thức được điều đó.

“Tất cả những chuyện này chỉ tác động đến cậu có thế thôi à, mẹ kiếp?” cậu ta đột nhiên hỏi tôi.

Tôi thở dài, nhún vai và tỏ vẻ dửng dưng.

“Tất cả những chuyện đó đã xa rồi, Stéphane ạ.”

“Xa rồi ư? Tuy nhiên, Vinca từng là bạn cậu. Cậu luôn ngưỡng mộ cô ta, cậu…”

“Hồi ấy tôi mới mười tám tuổi, vẫn còn là một thằng oắt. Tôi đã lật sang trang đời khác từ lâu rồi.”

“Đừng có coi thường tôi, nghệ sĩ ạ. Cậu chẳng lật sang trang nào hết. Tôi đây, tôi đã đọc hết các tiểu thuyết của cậu: khắp nơi trong đó đều có Vinca hiện diện. Có thể bắt gặp cô ta trong hầu hết các nhân vật nữ chính của cậu.”

Cậu ta bắt đầu khiến tôi khó chịu.

“Đúng là thứ tâm lý học ba xu. Xứng đáng với mục chiêm tinh trên báo lá cải của cậu đấy!”

Lúc này, khi hai bên đã cao giọng, Stéphane Pianelli như bị điện giật. Sự kích động hiện rõ mồn một trong mắt cậu ta. Vinca đã khiến cậu ta phát điên, chắc hẳn cũng giống như cô từng khiến vô khối gã trai khác phát điên trước cậu ta, mặc dù lý do họ phát điên thì không giống nhau.

“Cậu muốn nói gì tùy cậu, Thomas ạ. Tôi sẽ tiếp tục cuộc điều tra, lần này là nghiêm túc.”

“Cậu đã thất bại thảm hại mười lăm năm trước đó thôi,” tôi nhắc.

“Việc phát hiện ra số tiền đã thay đổi mọi chuyện! Chừng ấy tiền mặt, theo cậu thì chúng che giấu chuyện gì? Còn tôi, tôi chỉ nhìn thấy ở đây có ba khả năng: buôn ma túy, tham nhũng hoặc tống tiền.”

Tôi day day hai bên mí mắt.

“Cậu đang tự vẽ ra một bộ phim đấy, Pianelli ạ.”

“Đối với cậu, vụ án Rockwell không tồn tại chăng?”

“Cứ cho rằng đấy chỉ là câu chuyện vớ vẩn về một cô gái trẻ đã bỏ trốn cùng với anh chàng mà cô ấy yêu.”

Pianelli nhăn mặt.

“Ngay bản thân cậu cũng không tin vào giả thuyết đó dù chỉ một giây, nghệ sĩ ạ. Hãy ghi nhớ kỹ điều tôi sắp nói với cậu đây: vụ Vinca mất tích cũng giống như một cuộn len. Một ngày nào đó, có người sẽ rút đúng sợi len cần rút và toàn bộ cuộn len sẽ xổ tung.”

“Và người ta sẽ phát hiện ra điều gì?”

“Điều gì đó tày trời, lớn hơn tất cả những gì chúng ta từng tưởng tượng ra.”

Tôi đứng dậy để chấm dứt cuộc trò chuyện.

“Lẽ ra chính cậu nên làm nhà văn mới phải. Tôi có thể giúp đỡ nếu cậu muốn tìm một nhà xuất bản.”

Tôi xem đồng hồ. Tôi phải tìm Maxime gấp. Anh chàng phóng viên cũng đột ngột bình tĩnh lại, đến lượt cậu ta đứng dậy và vỗ vai tôi.

“Hẹn gặp lại cậu sau, nghệ sĩ nhé. Tôi tin chắc là chúng ta sẽ gặp lại nhau.”

Giọng cậu ta nghe chẳng khác nào giọng một cảnh sát vừa gỡ bỏ lệnh tạm giam cho tôi. Tôi cài cúc áo vest và bước xuống một bậc thang. Lưỡng lự vài giây rồi quay lại. Cho đến giờ, tôi chưa đi bước nào sai lầm. Nhất thiết không được để cậu ta có cớ mà nghi ngờ, nhưng một câu hỏi cứ cháy bỏng ở đầu môi tôi. Tôi tìm cách diễn đạt nó với thái độ thật dửng dưng.

“Có đúng cậu vừa nói với tôi rằng người ta đã tìm thấy tiền trong một chiếc tủ đựng đồ cũ không?”

“Ờ.”

“Chính xác là chiếc tủ nào?”

“Một chiếc tủ sơn màu vàng nhạt. Màu của tòa nhà Henri-Matisse.”

“Đó không phải tòa nhà Vinca sống hồi đó!” tôi hoan hỉ thốt lên. “Phòng ký túc của cô ấy nằm trong tòa nhà màu xanh da trời: Nicolas-de-Staël.”

“Cậu nói đúng,” Pianelli hưởng ứng, “tôi đã kiểm tra lại thông tin đó. Này, nói tôi nghe xem, với một người đã lật sang trang mới thì cậu có trí nhớ thật tuyệt vời đấy.”

Một lần nữa, cậu ta nhìn tôi đầy thách thức bằng ánh mắt sáng rực, như thể vừa cài bẫy tôi, nhưng tôi chịu đựng ánh mắt cậu ta và còn dấn thêm một quân tốt.

“Thế cái ngăn tủ đó có viết tên không?”

Cậu ta lắc đầu.

“Sau từng ấy năm, cậu cũng biết thừa là tất cả đã bị xóa sạch.”

“Không có hồ sơ lưu trữ về những người được giao dùng những chiếc tủ đó sao?”

“Hồi đó, người ta không tự rước thêm phiền toái cho mình với những việc như thế,” cậu ta vừa nói vừa cười gằn. “Vào đầu năm, học sinh muốn nhận ngăn tủ nào tùy ý: ai đến trước nhận trước.”

“Và trong trường hợp cụ thể này, đó là ngăn tủ nào?”

“Tại sao cậu lại muốn biết điều đó?”

“Tò mò thôi. Cậu biết mà, cánh phóng viên có bao giờ thiếu thông tin về những chuyện kiểu này.”

“Tôi đã đăng bức ảnh trong bài báo của mình. Tôi không có nó ở đây, nhưng đó là ngăn AI. Khoang đầu tiên trên cao, bên trái. Điều đó có ý nghĩa gì với cậu không?”

“Chẳng có ý nghĩa gì cả. Tạm biệt (So long), Stéphane.”

Tôi quay gót và rảo bước để rời khỏi quảng trường trước khi bài diễn văn kết thúc.

Trên bục, bà hiệu trưởng chuẩn bị kết thúc bài phát biểu, lúc này bà đang nhắc đến việc sắp sửa phá bỏ nhà thể chất và đặt viên đá đầu tiên cho công trình tham vọng nhất của trường chúng ta từ trước tới nay. Bà cảm ơn các nhà tài trợ hào phóng, nhờ có họ mà dự án này, đã được khởi động từ hơn ba mươi năm trước, sắp được triển khai: xây dựng một tòa nhà dành riêng cho các lớp học dự bị, một khu vườn rộng bao quanh và một trung tâm thể thao mới có bể bơi đạt chuẩn Olympic.

Nếu trước đó tôi vẫn còn nghi ngờ về những gì đang chờ đợi mình, thì những nghi ngờ ấy vừa tan biến. Tôi đã nói dối Pianelli. Tôi biết rất rõ ngăn tủ nơi người ta tìm thấy số tiền đó trước đây từng thuộc về ai.

Chính là ngăn tủ của tôi.

Chú Thích:

Ivy League hay Liên đoàn Ivy là một liên đoàn thể thao bao gồm tám cơ sở giáo dục đại học ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Tuy nhiên Ivy League hiện nay còn thường được dùng để chỉ nhóm tám trường đại học và viện đại học lâu đời, có chất lượng hàng đầu nước Mỹ.

Một bộ phim của đạo diễn người Ý Luchino Visconti, sản xuất năm 1960, do Alain Delon thủ vai chính.

Một cách chơi chữ: trong tiếng Pháp, từ này có nghĩa là diều hâu.

Một tiểu thể loại alternative rock xuất hiện vào khoảng giữa thập niên 1980 tại bang Washington, Hoa Kỳ, đặc biệt tại Seattle.

Nhân vật trong sê ri phim truyền hình Twin Peaks của đạo diễn David Lynch, nhân vật nữ sinh trung học này cũng có những mối quan hệ tình ái bí mật.