Chương 9 Cuộc sống của những đóa hồng
Ở nơi nào chúng ta có thể sống tốt hơn là trong một gia đình?
Ở mọi nơi khác!
Hervé BAZIN
1.Với những con đường quanh co khúc khuỷu, những rặng ô liu và những hàng rào được xén tỉa cẩn thận, khu Constance luôn gợi cho tôi nhớ đến những điệu luyến láy trong một số đoạn nhạc jazz. Những đường trang trí thanh lịch, sau mỗi chỗ ngoặt lại lặp lại, đầy phong phú nhưng tương hợp với nhau như những lời đối đáp trong một đoạn hội thoại điền viên và an nhàn.
Đường Suquette – nơi cha mẹ tôi đang ở – có tên gọi bắt nguồn từ một thuật ngữ thuộc ngôn ngữ của miền Nam nước Pháp, được sử dụng để chỉ một ụ đất, hoặc phổ biến hơn là tất cả những chỗ đất nhô cao. Quả đồi nhô lên trên vùng Antibes này trước đây là nơi đặt lâu đài Constance, một nông trang khổng lồ ở phía Đông thành phố. Theo thời gian, lâu đài đã bị biến thành bệnh viện, rồi thành những căn hộ tư nhân. Trên những mảnh đất xung quanh đã mọc lên vô số biệt thự và nhà liền kề. Cha mẹ tôi – và cha mẹ Maxime – dọn đến đây ở ngay sau khi tôi ra đời, vào thời kỳ trục đường chính mới chỉ là một con đường nhỏ phủ đầy hoa và ít người qua lại. Chẳng hạn, tôi vẫn còn nhớ mình từng tập xe đạp ở đó cùng anh trai, và vào dịp cuối tuần, không hiếm những lần cư dân sống hai bên đường tổ chức những trận đấu bi sắt. Ngày nay, con đường đã được mở rộng, và xe cộ lưu thông dày đặc. Không phải đường quốc lộ số 7, nhưng cũng chẳng khác là mấy.
Đến trước số nhà 74, địa chỉ của Biệt thự Màu Tím, tôi hạ cửa kính và bấm chuông để thông báo là mình đã đến. Không ai trả lời, nhưng cánh cổng điều khiển bằng điện mở ra ngay giây tiếp theo. Tôi vào số và lái xe vào lối đi hẹp trái bê tông chạy ngoằn ngoèo đến tận ngôi nhà mình từng sống thời thơ ấu.
Vẫn chung thủy với hãng Audi, cha tôi đỗ chiếc A4 ở ngay lối vào. Một cách của riêng ông để có thể chuồn đi ngay khi ông quyết định không muốn bị người khác quấy rầy (tôi tin rằng toàn bộ con người Richard Degalais bộc lộ qua cách hành xử này). Tôi đỗ cách xa đó một chút, trên khoảnh đất rải sỏi, bên cạnh một chiếc Mercedes mui trần hẳn là của mẹ tôi.
Tôi đi vài bước dưới nắng, tìm cách sắp xếp lại những điều tôi muốn làm ở đây, vào lúc đầu buổi chiều như thế này. Căn nhà nằm trên đỉnh đồi, và lần nào cũng vậy, tôi như bị thôi miên trước quang cảnh trước mắt: vóc dáng thanh mảnh của những cây cọ, sự trong veo thanh khiết của trời và biển, đường chân trời rộng mênh mông. Bị chói nắng, tôi đưa tay lên che mắt, và khi quay đầu, tôi nhìn thấy mẹ, bất động, hai tay khoanh trước ngực, đang chờ tôi bên dưới mái hiên.
Đã gần hai năm nay tôi chưa gặp bà. Trong lúc bước lên mấy bậc tam cấp để đến bên mẹ, tôi chăm chú quan sát bà, chịu đựng ánh mắt của bà. Trước mặt mẹ, tôi luôn có chút rụt rè e sợ. Mặc dù vậy, tuổi thơ của tôi bên mẹ đã trôi qua trong êm đềm và vui vẻ, nhưng đoạn cuối tuổi thiếu niên và suốt tuổi trưởng thành, chúng tôi sống xa nhau. Annabelle Degalais – tên thời con gái là Annabella Antonioli – từng là một người đẹp lạnh lùng. Một người đẹp tóc vàng theo kiểu các nhân vật của Hitchcock, nhưng không có được thứ ánh sáng của Grace Kelly hoặc nét phóng túng của Eva Marie Saint. Mọi đường nét đều góc cạnh và kéo dài, vóc dáng bà tương ứng đến hoàn hảo với hình thể của cha tôi. Bà mặc một chiếc quần cắt may theo lối hiện đại và một chiếc áo vest có khóa kéo đồng bộ. Mái tóc vàng của bà giờ đã gần ngả màu tro, nhưng chưa bạc trắng. Bà đã già hơn một chút so với lần viếng thăm trước của tôi. Tôi có cảm giác vóc dáng bà đã mất đi vẻ rạng rỡ, nhưng bà vẫn trẻ hơn tuổi thật đến cả chục tuổi.
“Chào mẹ.”
“Chào Thomas.”
Tôi tin rằng ánh mắt giá băng của bà chưa bao giờ sáng và sắc đến thế. Tôi luôn lưỡng lự không biết có nên hôn mẹ hay không. Lần nào cũng vậy, tôi có cảm giác bà sẽ lùi ra sau một bước nếu tôi làm thế. Lần này, tôi quyết định sẽ không mạo hiểm.
Người Áo. Cái biệt danh người ta đặt cho bà ở trường, bên Ý, hồi bà còn là một đứa trẻ, chợt hiện về trong tâm trí tôi. Chuyện gia đình của Annabelle không hề dễ dàng, và đó chính là lý do duy nhất tôi tìm được để bào chữa cho sự lạnh lùng của bà. Hồi chiến tranh, ông ngoại tôi, Angelo Antonioli, một nông dân vùng Piemonte, đã bị cưỡng ép tham gia đội quân viễn chinh Ý. Từ mùa hè năm 1941 đến mùa đông năm 1943, hai trăm ba mươi ngàn quân nhân của Bán đảo đã bị điều đến mặt trận phía Đông: từ Odessa đến bờ sông Đông, rồi đến tận Stalingrad. Hơn một nửa trong số họ không bao giờ trở về. Đó chính là trường hợp của Angelo, ông đã bị quân Xô Viết bắt làm tù binh sau cuộc tấn công Ostrogojsk-Rossoch. Bị kết án chuyển đến một trại tù binh, ông đã trút bỏ linh hồn trên đường đi trại cải tạo. Ông ngoại tôi, đứa con phơi phới của miền Bắc nước Ý, đã ngã xuống trong cái lạnh giá băng của thảo nguyên nước Nga, nạn nhân của một cuộc chiến không phải là của ông. Để góp thêm vào nỗi bất hạnh của gia đình, vợ ông mang thai trong lúc ông vắng mặt, và không thể giải thích lần thai nghén đó bằng cách nào khác ngoài việc ngoại tình. Là kết quả tình yêu bị cấm đoán giữa bà ngoại tôi và một nhân công thời vụ người Áo, mẹ tôi ra đời trong tai tiếng của một vụ bê bối. Cuộc chiến đầu tiên đầy tế nhị đó đã mang lại cho bà một sức mạnh và thái độ dửng dưng hiếm thấy. Bà luôn khiến tôi có cảm giác không có điều gì thực sự ảnh hưởng đến bà hoặc làm bà lung lay được. Một thái độ hoàn toàn trái ngược với sự nhạy cảm của tôi.
“Tại sao mẹ không nói với con là mẹ bị ốm?” Câu hỏi gần như tự buột ra khỏi miệng tôi.
“Làm thế thì có thay đổi được gì không?” Bà hỏi tôi.
“Con rất muốn được biết tin, thế thôi.”
Không phải lúc nào bà cùng giữ khoảng cách như thế này với tôi. Khi lục trong ký ức tuổi thơ, tôi tìm thấy những khoảnh khắc đồng cảm và kết nối thực sự, đặc biệt là quanh các tiểu thuyết và các vở kịch. Và đó không phải những gì tâm trí bị thương tổn của tôi tự tạo ra: trong các album ảnh, cho đến khi tôi bước vào tuổi dậy thì, tôi đã nhìn thấy vô số bức ảnh trong đó mẹ tôi tươi cười, rõ ràng là hạnh phúc vì có đứa con trai là tôi. Rồi mọi việc trở nên tồi tệ mà tôi không thực sự hiểu rõ vì sao. Bây giờ, bà vẫn rất ăn ý với anh trai và chị gái tôi, nhưng rõ ràng là ít hòa hợp hơn với tôi. Chuyện đó khiến tôi cảm thấy mình có chút đặc biệt theo hướng tồi tệ. Ít nhất, tôi cũng có điều gì đó mà họ không có.
“Vậy là con đã tham dự lễ kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập trường? Nhưng tại sao con lại mất thời gian ở đó thế?”
“Gặp lại bạn bè cũng vui mà mẹ.”
“Con không có bạn bè, Thomas ạ. Bạn bè duy nhất của con là những cuốn sách.”
Tất nhiên, sự thật là như thế, nhưng khi được diễn đạt theo cách ấy, tôi thấy nó thật tàn khốc và buồn tẻ.
“Maxime là bạn con.”
Mẹ tôi vẫn bất động và nhìn tôi không chớp mắt. Trong quầng sáng óng ánh của mặt trời, dáng bà giống như một pho tượng Đức Mẹ bằng đá cẩm thạch mà ta có thể bắt gặp trong các nhà thờ ở Ý.
“Tại sao con quay về, hả Thomas?” bà hỏi tiếp. “Lúc này con đâu có tác phẩm nào cần quảng bá.”
“Mẹ có thể giả vờ vui lòng mà, đúng không?”
“Còn con, con có giả vờ không?”
Tôi thở dài. Chúng tôi đang xoay vòng luẩn quẩn. Cả hai mẹ con đều chất chứa nỗi hận thù. Trong một lát, suýt thì tôi đã tiết lộ sự thật với bà. Tôi đã giết một người, xác người ấy bị chôn giấu trong bức tường tòa nhà thể chất của trường trung học, và ngay từ thứ Hai tới, người ta có thể tống tôi vào tù vì tội giết người đó. Lần tới mẹ gặp con, mẹ ạ, con sẽ ở giữa hai viên cảnh sát hoặc đằng sau vách kính của một phòng thăm thân.
Chắc chắn là tôi sẽ không tiết lộ, và dù sao đi nữa bà cũng không để tôi có thời gian làm việc đó. Không bảo tôi đi theo, bà vừa bước lên cầu thang dẫn vào tầng trệt. Rõ ràng bà đã nói chuyện xong, và tôi cũng thế.
Tôi đứng lại đơn độc một lát trên hàng hiên lát bằng những viên gạch nung cỡ lớn. Khi nghe có tiếng nói vang lên, tôi tiến về phía ban công hàn bằng sắt phủ kín dây thường xuân. Cha tôi đang sôi nổi chuyện trò với Alexandre, người làm vườn già kiêm luôn cả việc coi sóc bể bơi. Bể bơi đang có một lỗ rò. Cha tôi nghĩ rằng cái lỗ ấy nằm ở gần máy tách bọt, trong khi Alexandre tỏ ra bi quan hơn và đã nói đến việc phải đào thảm có để lôi một đường ống lên mặt đất.
“Chào ba.”
Ngẩng đầu lên, Richard khẽ vẫy tay với tôi, như thể ông vừa gặp tôi hôm qua. Tôi không quên mục đích chuyến đi này chính là để gặp ông, nhưng trong lúc chờ Alexandre rời đi, tôi quyết định ghé thăm nhà kho.
2.Thực ra đó chỉ là một cách nói. Căn nhà không có nhà kho, mà là một tầng hầm khổng lồ, có thể đi xuống từ bên ngoài, chưa từng được sắp đặt thực sự, và với diện tích trên một trăm mét vuông, nó được dùng làm nơi chứa những đồ đạc không dùng đến.
Trong khi từng căn phòng trong nhà đều được sắp xếp ngăn nắp đến hoàn hảo, đánh bóng và lắp đặt đồ đạc hết sức phong cách, thì tầng hầm là nơi vô danh chứa đầy đồ đạc vứt ngổn ngang và lộn xộn, ánh sáng nhợt nhạt và run rẩy. Ký ức bị dồn nén của Biệt thự Màu Tím. Tôi vạch một lối đi giữa đống lộn xộn ấy. Ở gian đầu của căn phòng, những chiếc xe đạp cũ, một cái xe trượt và những đôi giày trượt pa-tanh chắc hẳn là của mấy đứa con nhà chị gái tôi. Gần một thùng dụng cụ, bị che phân nửa dưới một tấm bạt, tôi nhìn thấy chiếc mobylette cũ của mình. Cha tôi, vốn điên cuồng với máy móc, đã không thể ngăn bản thân sửa lại chiếc xe cũ. Thân xe được cạo sạch, lớp sơn đẹp đẽ ánh lên, vành xe đã được thay thế, lốp xe mới tinh: chiếc 103 MVL trông thật ra dáng, và lấp lánh như tỏa ra cả ngàn ánh lửa. Thậm chí Richard còn tìm lại được những đề can Peugeot gốc! Xa hơn, những đồ chơi, những rương hòm, những quần áo vứt hỗn độn. Về mặt quần áo, cả cha lẫn mẹ tôi đều không bao giờ tiếc tiền mua sắm. Xa hơn nữa là hàng tấn sách vở. Những cuốn sách chúng tôi đã thực sự đọc qua, nhưng không đủ chất văn học để được xếp lên những cái kệ làm bằng gỗ hồ đào trên giá sách ở phòng khách. Những cuốn trinh thám hoặc tiểu thuyết tình cảm mà mẹ tôi từng ngốn ngấu, những tài liệu và tiểu luận không được trí tuệ lắm mà cha tôi từng ưa chuộng. Được khoác những tấm bìa da, Saint-John Perse và Malraux được quyền xênh xang ở tầng trên, trong khi Dan Brown và Năm mươi sắc thái nằm phủ bụi ở cái kho chứa đồ này, nơi ta bắt gặp những hậu trường cuộc sống thực sự.
Tôi thấy thứ mình đến đây để tìm kiếm ở gian trong cùng. Đặt trên một chiếc bàn bóng bàn, hai thùng các tông đựng đồ dọn nhà được đánh dấu bằng tên tôi, chất đầy nỗi hoài nhớ. Tôi lần lượt mang từng cái thùng lên tầng trên và mở chúng ra để phân loại.
Tôi đặt lên bàn bếp tất cả những thứ ít nhiều có liên hệ với năm 1992 và có thể hữu ích cho cuộc điều tra của mình. Một cái balô hiệu Eastpak màu ngọc lam nhằng nhịt nét bút xóa, hai cặp đựng giấy tờ đầy những ghi chép về các bài học trên những tờ giấy có kẻ ô li. Những phiếu điểm thời đi học chứng tỏ trước đây tôi từng là một học sinh gương mẫu và ngoan ngoãn: thái độ rất tích cực trong giờ học, học sinh ngoan và có động lực, luôn tích cực tham gia bài học, trí tuệ rất nhanh nhạy.
Tôi chìm đắm vào mấy bài tập đã giúp tôi ghi điểm: một bài luận phức hợp về bài thơ Người ngủ trong thung(1), một bài luận khác về đoạn mở đầu của Người đẹp của Lãnh chúa. Thậm chí tôi còn tìm thấy nhiều bài tập triết học có lời phê của chính Alexis Clément khi gã dạy tôi vào năm cuối cấp trung học. Những ‘khả năng suy nghĩ rất thú vị. 14/20,’ dành cho một bài văn nghị luận về ‘Nghệ thuật có thể bỏ qua các nguyên tắc không?’ Trong một bài tập khác về ‘Ta có thể hiểu về dục vọng hay không?’ – quả là điềm báo… – ông thầy thậm chí còn tỏ ý khen ngợi: ‘Một bài luận chất lượng, mặc dù vẫn còn một vài điểm khinh suất, dựa trên khả năng làm chủ tốt các khái niệm và được minh họa bằng những ví dụ cho thấy học sinh thật sự có trau dồi kiến thức về văn học và triết học. 16/20.’
Giữa các kho báu khác trong thùng các tông, có bức ảnh chụp cả lớp năm học cuối cấp, cũng như một loạt những mixtape(2) mà tôi đã tỉ mỉ soạn thảo công phu cho Vinca, nhưng vì một lý do nào đó, tôi đã không bao giờ dám gửi cho cô. Tôi ngẫu nhiên mở chiếc hộp đựng băng cát-sét và nhớ lại danh sách những bản nhạc trong cuốn băng gốc của cuộc đời tôi. Toàn bộ con người Thomas Degalais hồi đó chứa đựng trong những giai điệu và lời bài hát ấy. Đó vẫn còn là gã trai khác biệt với những gã trai khác, hơi xa cách, tốt bụng, vô cảm với các trào lưu thời trang, đồng điệu với những tình cảm sâu sắc trong lòng: Samson François chơi nhạc Chopin, Jean Ferrat hát Đôi mắt Elsa, Léo Ferré đọc thơ Một mùa địa ngục. Nhưng còn có cả Moondance của Van Morrison và Love Kills của Freddie Mercury, giống như một cảm giác báo hiệu…
Còn có cả những cuốn sách. Những cuốn khổ nhỏ bỏ túi, giấy ố vàng, từng đồng hành với tôi thời kỳ đó. Những tên sách mà tôi thường nhắc đến trong các buổi phỏng vấn, khi tôi khẳng định rằng ngay từ rất sớm, nhờ vào những cuốn sách, tôi đã hiểu rằng tôi sẽ không bao giờ đơn độc.
Giá mà mọi chuyện chỉ đơn giản như thể…
Một trong số những cuốn sách này không thuộc về tôi. Tuyển tập thơ của Marina Tsvetaeva có lời đề tặng của Alexis mà tôi đã lấy trong phòng Vinca vào hôm sau ngày gã bị giết.
Tặng Vinca,
Tôi muốn mình chỉ là một linh hồn không thể xác để không bao giờ rời xa em.
Yêu em chính là sống.
Alexis
Tôi không thể kìm nén được một nụ cười độc ác. Hồi ấy, lời đề tặng đã lừa bịp tôi. Giờ thì, tôi biết rằng gã khốn ngu ngốc ấy đã xào lại câu nói của Victor Hugo trong bức thư gửi Juliette Drouet. Bịp bợm đến thế là cùng.
“Thế nào, Thomas, con làm trò gì ở đây vậy?”
Tôi quay người lại. Tay cầm một cái kéo tỉa cây, cha tôi vừa bước vào bếp.
Vừa nhắc đến bịp bợm thì…
3.Dù không mấy trìu mến, nhưng cha tôi lại khá hay tiếp xúc và không hà tiện những cái ôm hôn, mặc dù lần này chính tôi là người muốn lùi lại một bước khi ông tiến lại ôm hôn tôi.
“Cuộc sống ở New York thế nào? Không quá chật vật với Trump chứ?” ông vừa hỏi vừa cẩn thận rửa tay dưới vòi nước.
“Chúng ta có thể vào văn phòng của ba không?” tôi đáp lại, lờ câu hỏi của ông đi. “Con muốn cho ba xem thứ này.”
Mẹ tôi đang lượn lờ quanh đây, và tôi không muốn lôi kéo bà vào chuyện này, ở thời điểm này.
Richard vừa lau khô tay vừa cằn nhằn về việc tôi vừa về nhà đã giở trò bí hiểm, rồi ông đưa tôi vào hang ổ của ông ở tầng trên. Một phòng làm việc kiêm thư viện rộng rãi, được bài trí như một phòng hút thuốc lá kiểu Anh với bộ xô-pha Chesterfield, những bức tượng châu Phi và bộ sưu tập súng săn cổ. Được xuyên thủng bởi hai ô cửa kính lớn, căn phòng này là nơi có tầm nhìn đẹp nhất trong ngôi nhà.
Vừa bước vào phòng, tôi liền đưa cho ông điện thoại di động của tôi, trên đó có hiển thị bài báo đăng trên tờ Nice Buổi sáng nói về việc phát hiện ra chiếc túi có chứa cả trăm ngàn franc.
“Ba đã đọc bài báo này chưa?”
Richard cầm kính nhưng không đeo mà chỉ giơ lên để liếc nhanh màn hình qua mắt kính, rồi ông lại đặt kính xuống.
“Ờ, câu chuyện này thật điên rồ.”
Hai tay khoanh trước ngực, ông đứng sững bên một ô cửa sổ, rồi bằng một cái hất cằm, ông chỉ vào những ngọn đèn chiếu trên thảm cỏ bao quanh bể bơi.
“Lũ sóc châu Á khốn kiếp đang xâm chiếm chúng ta. Chúng ăn cả dây điện, con có hình dung nổi không?”
Tôi kéo ông về với bài báo. “Số tiền này hình như đã được giấu ở đó vào thời kỳ ba vẫn còn tại chức, không phải sao?”
“Có thể lắm, ba cũng không biết nữa,” ông vừa nói vừa nhăn mặt nhưng không quay đầu lại. “Con có thấy là chúng ta đã buộc phải đốn hạ một cây cọ không? Bệnh mọt đỏ.”
“Ba không biết cái túi đó có thể là của ai sao?”
“Cái túi nào?”
“Cái túi đựng số tiền người ta tìm thấy ấy.”
Richard nổi cáu. “Làm sao mà ba biết được? Tại sao con lại làm phiền ba với chuyện ấy?”
“Cảnh sát đã lấy được hai dấu vân tay, một phóng viên kể với con như thế. Một trong hai dấu vân tay đó là của Vinca Rockwell. Ba còn nhớ cô ấy không?”
Nghe nhắc đến Vinca, Richard quay nhìn tôi rồi ngồi xuống chiếc ghế bành bằng da rạn.
“Tất nhiên, cô gái đã mất tích. Cô ta có… vẻ tươi mát của những đóa hồng.”
Ông nheo mắt, và trước sự ngạc nhiên sửng sốt của tôi, ông giáo Pháp văn già trước đây bắt đầu đọc một đoạn văn của François de Malherbe:
… Nhưng nàng thuộc về một thế giới nơi những điều tốt đẹp nhất,
Lại có số phận hẩm hiu nhất,
Và hoa hồng nàng đã sống cuộc sống của những đóa hồng,
Chỉ trong một buổi sáng…
Richard để vài giây im lặng trôi qua, rồi, lần đầu tiên, chính ông là người lên tiếng trước với tôi:
“Con nói là có hai dấu vân tay, đúng không?”
“Cảnh sát còn chưa biết dấu vân tay còn lại là của ai, bởi vì nó không có trong hồ sơ lưu. Nhưng con cá rằng dấu vân tay đó là của ba, nếu sai thì cứ tay con mà chặt.”
“Lại còn thế nữa cơ đấy,” ông ngạc nhiên.
Tôi ngồi xuống trước mặt ông và chờ ông xem những bức ảnh chụp màn hình từ những trang mạng mà Pianelli đã gửi cho tôi.
“Ba còn nhớ cái túi này không? Chính là cái túi mà ba thường mang theo khi ba con ta đi chơi quần vợt. Ba thích mê lớp da mềm và lớp hoen màu xanh đậm ngả đen của nó.”
Một lần nữa, cha tôi lại phải dùng đến cặp kính để nhìn vào điện thoại của tôi.
“Ba không thấy rõ lắm. Màn hình điện thoại của con bé xíu.”
Ông vớ cái điều khiển từ xa để trên chiếc bàn thấp trước mặt ông rồi bật ti-vi lên, như thể cuộc trò chuyện giữa chúng tôi đã kết thúc. Ông lướt qua các kênh thể thao – L’Equipe, Canal+ Sport, Eurosport, beIN – dừng lại một lát trước màn hình truyền trực tiếp một cuộc đua xe đạp ở Ý, rồi nhảy sang trận bán kết giải Madrid Masters giữa Nadal và Djokovic.
“Chúng ta thực sự nhớ anh ta, anh chàng Federer ấy.”
Nhưng tôi không buông tha cho ông. “Con muốn ba xem qua cả thứ này nữa. Ba yên tâm, đây là những hình chụp cận cảnh.”
Tôi giao lại cho ông chiếc phong bì bằng giấy kraft. Ông lấy mấy bức ảnh ra, vừa xem xét chúng vừa liếc mắt xem trận đấu quần vợt. Tôi nghĩ ông sẽ bị dao động, nhưng ông chỉ vừa lắc đầu vừa thở dài. “Ai đã đưa cho con thứ này?”
“Không quan trọng! Cho con biết những thứ này có nghĩa là gì!”
“Con xem ảnh rồi đấy. Con còn cần ba phải mô tả chi tiết hơn nữa hay sao?”
Ông bật to tiếng ti-vi, nhưng tôi giằng lấy điều khiển từ xa khỏi tay ông và tắt ti-vi đi.
“Ba đừng tưởng có thể thoát khỏi chuyện này bằng cách đó!”
Ông lại thở dài và lục tìm trong túi áo blazer điếu xì gà hút dở mà lúc nào ông cũng có bên mình.
“OK, ba đã bị gài bẫy, ông vừa thừa nhận vừa xoay điếu xì gà giữa những ngón tay. Hồi ấy, con bé khốn kiếp đó không ngừng lượn lờ quanh ba. Nó đã khiêu khích ba, và ba đã gục ngã. Rồi nó tống tiền ba. Và ba cũng khá ngu ngốc, nên đã cho nó một trăm ngàn franc.”
“Làm sao ba có thể làm việc đó?”
“Làm việc gì? Nó đã mười chín tuổi. Nó ngủ với hết thằng này đến thằng khác. Ba không hề ép nó. Chính nó đã tự lao vào vòng tay ba!”
Tôi đứng dậy và giơ ngón tay chỉ thẳng vào ông.
“Ba biết cô ấy là bạn của con mà!”
“Thế theo con thì chuyện đó thay đổi được gì?” ông vặc lại. “Trong lĩnh vực đó, ai biết thân người nấy. Với lại, nói riêng chúng ta với nhau, con đâu có mất gì đáng kể. Vinca là một con bé khó chịu, một cô ả không biết làm tình. Nó làm thế chỉ để lấy tiền.”
Tôi không biết mình ghét điều gì nhất, sự ngạo mạn hay sự ác độc của ông.
“Ba có bao giờ nghe chính mình nói chưa?”
Richard cười khẩy, không có chút gì là dao động hay cảm thấy khó chịu. Tôi đoán rằng một phần trong con người ông thậm chí còn thích thú với cuộc trò chuyện này. Hình ảnh người cha đang khẳng định lại quyền lực của mình đối với đứa con trai bằng cách khiến nó phải chịu đựng đau khổ và sỉ nhục nó hẳn đang khiến ông vô cùng khoái trá.
“Ba thật đê tiện. Ba khiến con ghê tởm.”
Rốt cuộc, những lời lăng nhục của tôi cũng khiến ông nóng mặt. Đến lượt ông đứng dậy khỏi ghế và tiến về phía tôi, cho đến khi chỉ còn cách mặt tôi chưa đầy hai chục xăng-ti-mét.
“Con không hề biết gì về con bé đó! Nó chính là kẻ thù, nó đã đe dọa phá hoại gia đình ta!”
Ông chỉ vào những bức ảnh nằm rải rác trên bàn.
“Thử hình dung xem điều gì sẽ xảy ra nếu mẹ con hoặc phụ huynh học sinh bắt gặp thứ này! Con sống trong một thế giới văn chương và lãng mạn, nhưng cuộc đời thực thì không phải như thế. Cuộc đời rất tàn nhẫn.”
Tôi những muốn giáng một quả đấm vào giữa mặt ông để cho ông thấy rằng quả thực, cuộc đời có thể rất tàn nhẫn, nhưng có làm thế cũng chẳng ích gì. Với lại, tôi vẫn cần ông cung cấp thông tin.
“Vậy là ba đã đưa số tiền ấy cho Vinca,” tôi nói, buộc mình phải hạ giọng xuống một quãng. “Thế sau đó đã xảy ra chuyện gì?”
“Chuyện vẫn xảy ra với bọn tống tiền: con bé đòi thêm và ba không nhượng bộ nữa.”
Vừa tiếp tục mân mê điếu xì gà, ông vừa nheo mắt để gọi lại ký ức.
“Lần cuối cùng con bé xuất hiện, đó là ngày hôm trước kỳ nghỉ Giáng sinh. Thậm chí nó còn đến gặp ba cùng với một cái que thử thai, để gia tăng sức ép.”
“Đứa bé trong bụng cô ấy là con của ba!”
Ông nổi đóa. “Chắc chắn là không!”
“Làm sao ba có thể biết được chuyện đó?”
“Việc ấy không khớp với chu kỳ kinh nguyệt của nó.”
Lời giải thích thật thảm hại. Cứ như thể cha tôi biết được tí gì về chuyện ấy. Dù sao, Richard vẫn luôn nói dối như cuội. Và điều khiến ông trở nên nguy hiểm, là sau một thời gian, chính ông cũng tin vào những lời nói dối của bản thân.
“Nếu đứa bé đó không phải con của ba, thì là của ai?”
Ông trả lời như một sự hiển nhiên. “Của thằng khốn vẫn lén lút ngủ với con bé, ba cho là thế. Thằng ấy tên là gì ấy nhỉ, gã giáo viên triết học chết tiệt ấy?”
“Alexis Clement.”
“Phải rồi, là hắn, Clément.”
Tôi tỏ vẻ trang trọng, hỏi ông, “Ba còn biết điều gì khác về vụ Vinca Rockwell mất tích không?”
“Theo con thì ba có thể biết được điều gì nữa đây? Dù sao chăng nữa, con không nghĩ là ba có dính líu đến tất cả những vụ ấy đấy chứ? Khi con bé biến mất, ba đang ở Papeete cùng anh chị con.”
Lập luận của ông hoàn toàn xác đáng, và về điểm này thì tôi tin ông.
“Số tiền một trăm ngàn franc đó, theo ý ba, tại sao cô ấy lại không mang theo khi biến mất?”
“Ba chẳng biết gì về chuyện đó hết, và cũng hoàn toàn không quan tâm.”
Ông châm lại điếu xì gà, nó tỏa ra mùi hăng hắc, và lấy lại chiếc điều khiển từ xa. Ông bật to tiếng lên. Djoko chật vật đối đầu với Nadal. Anh chàng người Mallorca dẫn trước với tỉ số 6-2, 5-4 và đang tận dụng lợi thế để giành quyền vào trận chung kết.
Bầu không khí trở nên ngột ngạt khó thở. Tôi vội vàng rời khỏi phòng, nhưng Richard không để tôi đi mà không rao giảng chêm một bài học về cuộc sống.
“Có lẽ đã đến lúc con phải chai sạn lên, Thomas ạ. Và con phải hiểu rằng tồn tại cũng chính là một cuộc chiến. Con vốn là người thích sách vở, vậy hãy đọc lại Roger Martin du Gard: ‘Toàn bộ cuộc đời là một cuộc chiến. Cuộc sống chính là chiến thắng kéo dài.’”
Chú Thích:
Tác phẩm của nhà thơ Arthur Rimbaud.
Mixtape là sản phẩm không chính thức của giới rapper, bao gồm nhiều ca khúc họ tự sáng tác và được phát hành miễn phí.