Chương 10 Rìu chiến tranh
Bất kỳ ai cũng có thể giết người, đó chỉ là vấn đề hoàn cảnh và chẳng liên quan gì với tính cách.
Bất kỳ ai, bất cứ khi nào.
Kể cả người bà của bạn.
Tôi biết điều đó.
Patricia HIGHSMITH
1.Cuộc trò chuyện với cha khiến tôi buồn nôn, nhưng không cho tôi biết thêm điều mới mẻ gì đáng kể. Khi tôi quay trở vào bếp, mẹ đã đẩy hai cái thùng của tôi ra xa và bắt tay làm bếp.
“Mẹ sẽ làm cho con món bánh tarte nhân mơ, con vẫn thích món đó chứ?”
Có điều gì đó tôi vẫn không bao giờ hiểu nổi, nhưng lại góp phần tạo nên cá tính của bà. Cái khả năng thổi ra hơi nóng và hơi lạnh. Đôi khi, Annabelle lơi lỏng cảnh giác và có điều gì đó trong bà thả lỏng ra. Bà lại trở nên dịu dàng hơn, tròn đầy hơn, đậm chất Địa Trung Hải hơn, như thể con người Ý đột nhiên áp chế con người Áo. Có điều gì đó cháy lên trong ánh mắt bà, giống như tình yêu. Trong một thời gian dài, tôi đã bị nghiện tia lửa đó, tôi rình chờ nó, tôi tìm kiếm nó, luôn nghĩ rằng nó là dấu hiệu báo trước của một ngọn lửa ổn định hơn, nhưng ánh lửa ấy không bao giờ vượt quá mức độ của một vệt than cháy dở. Theo thời gian, tôi đã học được cách không để mình bị lừa dối nữa.
Tôi đáp lại bà bằng một câu ngắn gọn, “Mẹ không cần phải vất vả thế đâu, mẹ ạ.”
“Có chứ, mẹ thích làm việc đó, Thomas ạ.”
Ánh mắt tôi mắc vào ánh mắt mẹ và hỏi bà: ‘Tại sao mẹ làm việc đó?’ Bà đã xổ búi tóc ra. Mái tóc bà có sắc vàng của thứ cát ta vẫn thấy trên các bãi biển Antibes. Đôi mắt bà lấp lánh ánh sáng và sự trong trẻo của ngọc biếc. Tôi kiên trì hỏi: ‘Tại sao mẹ lại như thế?’ Nhưng những ngày như hôm nay, ánh mắt bà vừa quyến rũ vừa khó hiểu. Mẹ tôi, người phụ nữ xa lạ này, thậm chí còn khẽ mỉm cười. Tôi chăm chú nhìn bà trong lúc bà lấy từ trong các ngăn tủ ra một túi bột mì và một cái khay làm bánh tarte. Annabelle chưa bao giờ là kiểu phụ nữ mà đàn ông dám cho phép mình tán tỉnh. Mọi thứ ở bà đều tuyên bố chắc chắn bạn sẽ ăn đòn nếu làm thế. Bà khiến ta có cảm giác bà đang sống ở nơi khác, trên một hành tinh khác, không thể tiếp cận. Bản thân tôi, mặc dù lớn lên bên cạnh bà, vẫn luôn thấy bà quá tầm với. Quá tinh tế so với cuộc sống nhỏ mọn mà chúng tôi đang sống, quá xuất sắc để chung sống cả đời với một người như Richard Degalais. Như thể vị trí của mẹ tôi là ở giữa các vì sao.
Tiếng chuông cửa làm tôi giật mình.
“Là Maxime đấy!” Annabelle vừa thông báo vừa nhấn nút mở cửa.
Tại sao bà lại nói bằng cái sắc giọng đột nhiên vui vẻ ấy? Bà ra đón cậu bạn tôi, trong lúc tôi đi ra hàng hiên. Tôi đeo cặp kính mát lên để nhìn một chiếc Citroën màu đỏ đó đang vượt qua cánh cổng tự động. Tôi dõi mắt nhìn theo chiếc xe gia đình đó vượt qua lối đi trải bê tông rồi đỗ lại đằng sau chiếc xe mui trần của mẹ tôi. Khi cánh cửa xe mở ra, tôi thấy Maxime đưa các con gái đi theo. Hai bé gái tóc nâu bé xíu, vô cùng xinh xắn, có vẻ rất thân thiết với mẹ tôi, chúng dang tay về phía bà với sự hồn nhiên hết sức đáng yêu. Maxime đã phải đến sở cảnh sát theo lệnh triệu tập không chính thức của Vincent Debruyne. Nếu cậu ta quay về nhà và đưa theo các con gái đến đây, thì có nghĩa là cuộc nói chuyện đó diễn ra không quá tệ. Khi đến lượt cậu ta bước ra, tôi cố gắng giải mã những cảm xúc trên mặt Maxime. Tôi đang vẫy tay về phía mấy người họ thì điện thoại rung lên trong túi. Tôi liếc mắt nhìn vào màn hình. Rafael Bartoletti, nhiếp ảnh gia chính thức của tôi.
“Chào (Ciao) Rafa,” tôi nghe máy và nói.
“Chào (Ciao) Thomas. Tôi gọi cho cậu về bức ảnh cô bạn gái Vinca.”
“Tôi biết là anh sẽ thích nó.”
“Thậm chí nó còn khiến tôi bối rối đến nỗi phải yêu cầu trợ lý của tôi phóng to nó lên.”
“Thế sao?”
“Khi nghiên cứu kỹ bức ảnh, tôi đã hiểu điều gì khiến mình bối rối.”
Tôi cảm thấy bụng mình râm ran như bị kim châm.
“Cho tôi biết đi.”
“Tôi gần như chắc chắn là cô ấy không cười với bạn nhảy. Đó không phải là người cô ấy nhìn vào.”
“Sao lại thế? Vậy thì là ai?”
“Một người nào đó khác trước mặt cô ấy, cách chừng sáu hoặc bảy mét về phía trái. Theo ý tôi, cô nàng Vinca của cậu thậm chí còn không thực sự khiêu vũ với bạn nhảy. Đó là một ảo ảnh thị giác.”
“Anh muốn nói bức ảnh là một tác phẩm cắt ghép?”
“Không, hoàn toàn không phải thế, nhưng chắc chắn nó đã được cắt xén lại. Tin tôi đi, những nụ cười của ragazza(1) là dành cho một người khác.”
Một người khác…
Tôi cảm thấy thật khó tin, nhưng vẫn cảm ơn Rafa đồng thời hứa với anh là sẽ chia sẻ mọi thông tin với anh. Để yên tâm, tôi gửi thêm cho Pianelli một tin nhắn, hỏi xem cậu ta có nhận được tin tức hồi đáp gì của Claude Angevin, cựu tổng biên tập tờ Nice Buổi sáng, người chắc hẳn phải biết rõ ai là tác giả của bức ảnh trứ danh kia, hay không.
Rồi tôi đi xuống cầu thang để đến nhập hội với mẹ tôi, Maxime và hai bé gái trên thảm cỏ. Tôi lập tức nhận thấy tập hồ sơ dày cộp kẹp ở nách cậu ta, liền đưa mắt nhìn Maxime ra ý hỏi.
“Tớ sẽ nói với cậu về nó sau,” cậu ta thì thầm vào tai tôi trong lúc lấy từ băng ghế sau một cái túi, từ miệng túi nhô ra một con chó bông và một con hươu cao cổ bằng cao su.
Cậu ta giới thiệu hai con gái với tôi, hai cục năng lượng nhỏ có nụ cười rạng rỡ, và trong vài phút chúng tôi quên đi nỗi lo lắng của mình nhờ những câu pha trò của hai cô bé. Emma và Louise rất đáng yêu, vui nhộn, hoạt bát. Cứ nhìn cách cư xử của mẹ tôi – và thậm chí của cả cha tôi, người vừa mới ra nhập bọn – tôi hiểu rằng Maxime rất quen thuộc với ngôi nhà này. Trước đây, tôi thấy việc chứng kiến cha mẹ tôi trong vai trò ông bà là điều khó lòng xảy ra, thế nhưng, trong một khoảnh khắc, thậm chí tôi còn tự nhủ rằng, theo một cách nào đó, Maxime đã chiếm vị trí của tôi trong gia đình, vị trí mà tôi đã bỏ lại khi ra đi. Nhưng điều đó không hề khiến tôi cảm thấy cay đắng. Ngược lại, tôi cảm thấy nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ quá khứ của Maxime và tôi càng trở nên nặng nề hơn.
Sau chừng mười lăm phút, mẹ tôi đưa hai cô bé vào bếp để chúng giúp bà làm món bánh tarte nhân mơ – với bí mật nằm trong các hạt oải hương rắc trên phần trái cây – và đến lượt Richard cũng lên tầng để tiếp tục theo dõi phần cuối của một chặng đua xe đạp.
“Được rồi,” tôi bảo Maxime. “Bây giờ, hội đồng tác chiến họp thôi.”
2.Địa điểm dễ chịu nhất trong Biệt thự Màu Tím, đối với tôi, là khu dành cho bể bơi poolhouse(2) mà cha mẹ tôi đã cho xây bằng đá và gỗ sáng màu ngay từ khi họ đến ngôi nhà này. Với phần bếp ngoài trời, phòng khách mùa hè và những tấm bạt bay phần phật trong gió, khu poolhouse giống với một dinh thự trong một dinh thự. Tôi yêu thích nơi này và đã ở đó hàng ngàn giờ đồng hồ để đọc sách, cuộn người trong một chiếc xô-pha bọc vải mộc.
Tôi ngồi xuống đầu chiếc bàn bằng gỗ tếch ẩn dưới một giàn cây hình vòm có mấy gốc kim ngân leo quanh. Maxime ngồi xuống bên phải tôi.
Không vòng vèo, tôi cho cậu ta biết những điều Fanny đã tiết lộ với tôi: lúc cuối đời, Ahmed cảm thấy cần phải xoa dịu lương tâm. Viên chỉ huy công trường đã thú nhận với cô bạn tôi việc ông chôn giấu thi thể của Clément trong tường tòa nhà thể chất theo lệnh của Francis. Và nếu đã kể với Fanny thì ông ta cũng có thể kể chuyện đó với những người khác. Đó không phải một tin tốt lành với chúng tôi, nhưng ít ra chúng tôi cũng thoát khỏi màn sương mù và xác định được ai là kẻ phản bội. Rốt cuộc, nếu không phải kẻ phản bội thì ít nhất cũng là kẻ đóng vai trò cầu nối để quá khứ quay trở lại đập thẳng vào mặt chúng tôi.
“Ahmed chết hồi tháng Mười một. Nếu ông ta kể với cảnh sát thì họ hẳn đã có đủ thời gian để dò tìm các bức tường của nhà thể chất rồi,” Maxime nhận xét.
Mặc dù nỗi lo lắng vẫn hiện rõ mồn một trên mặt Maxime, nhưng tôi thấy cậu ta đỡ mệt mỏi hơn sáng nay, và đã chế ngự được cảm xúc tốt hơn.
“Đồng ý với cậu. Hẳn là ông ấy đã kể chuyện với một người nào đó, nhưng không phải là cảnh sát. Còn cậu? Cậu ghé qua sở cảnh sát chưa?”
Cậu ta vò tung mớ tóc sau gáy.
“Ờ, tớ đã gặp cảnh sát trưởng Debruyne. Cậu nói đúng: anh ta không muốn hỏi tớ về vụ Alexis Clément.”
“Vậy anh ta tìm kiếm điều gì?”
“Anh ta muốn nói chuyện với tớ về cái chết của bố tớ.”
“Để nói với cậu điều gì về chuyện đó?”
“Tớ sẽ giải thích cho cậu sau, nhưng trước hết, cậu phải đọc cái này đã.”
Cậu ta đặt tập hồ sơ mang theo xuống trước mặt tôi.
“Cuộc gặp gỡ với Debruyne đã khiến tớ băn khoăn về một chuyện: thế nếu cái chết của bố tớ có liên quan đến vụ giết Alexis Clément thì sao?”
“Đến đây thì tớ chẳng hiểu gì hết.”
Maxime nói rõ những gì cậu ta suy nghĩ, “Tớ tin rằng bố tớ đã bị sát hại bởi chính kẻ gửi những bức thư nặc danh này cho chúng ta.”
“Sáng nay cậu đã bảo tớ là bác Francis chết sau khi vụ đột nhập vào nhà ông xoay theo hướng tồi tệ!”
“Tớ biết, nhưng tớ đã giảm nhẹ vụ việc, để nói cho ngắn gọn, nhưng sau khi được soi sáng bởi những gì biết được từ phía cảnh sát, tớ đang thấy nghi ngờ.”
Đưa tay lên phác một cử chỉ, cậu ta bảo tôi mở tập hồ sơ ra.
“Đọc thứ này đi, rồi chúng ta sẽ tiếp tục nói về chuyện đó. Tớ đi pha một cốc cà phê đây, cậu muốn uống không?”
Tôi gật đầu. Maxime đứng dậy đi về phía một hốc tường, nơi có đặt một máy pha espresso và bộ đồ uống cà phê.
Tôi tập trung tâm trí vào việc đọc tập hồ sơ. Nó bao gồm rất nhiều bài báo cắt ra, nói về làn sóng những vụ đột nhập lan tràn ở Core d’Azur vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017. Gần năm mươi vụ trộm, liên quan đến tất cả các ngóc ngách giàu có ở tỉnh Alpes-Maritimes, từ Saint-Paul-de-Vence đến các dinh thự sang trọng ở Cannes hoặc vùng nội địa Nice, rồi cả Mougins. Phương thức gây án (Modus operandi) lần nào cũng giống nhau. Bốn hoặc năm kẻ đội mũ trùm kín mặt đột nhập vào các ngôi nhà, xịt hơi cay vào người trong nhà trước khi trói và giam họ lại. Băng nhóm đó có trang bị vũ khí, hung dữ và nguy hiểm. Chúng ưu tiên nhắm vào tiền mặt và đồ trang sức. Rất nhiều lần, lũ côn đồ không ngần ngại hành hạ nạn nhân để lấy được mật khẩu thẻ tín dụng hoặc mã số két của họ.
Những vụ (5) ký tên Sean Lorenz, một trong những họa sĩ đương đại có giá nhất trên thị trường nghệ thuật. Việc phá hủy bức tranh đã gây ra một làn sóng xúc động lan đến tận nước Mỹ. Tờ New York Times và kênh CNN đã nhắc đến vụ trộm, và cái tên Aurelia Park, trước đây từng là bất động sản danh giá ở vùng Côte d’Azur, hiện trở thành một thứ vùng không nên đến (no-go zone). Trong vòng một quý, theo một cách hoàn toàn vô lý, giá nhà đã giảm ba mươi phần trăm. Để chấm dứt cơn kinh hoàng, lực lượng an ninh của tỉnh đã thành lập một đội đặc nhiệm chuyên lần theo bọn trộm cắp.
Kể từ đó, việc điều tra được đẩy nhanh. Lấy dấu vết ADN, nghe trộm điện thoại và giám sát trên diện rộng. Hồi đầu tháng Hai, cảnh sát đã đổ bộ từ sáng sớm vào một ngôi làng ở biên giới nước Ý. Họ đã bắt được chừng chục gã, người Macedonia, một số kẻ trong tình trạng bất hợp pháp, những kẻ khác đã được ghi nhận là từng thực hiện những vụ trộm cắp tương tự. Họ đã lục soát nhiều căn nhà và phát hiện ra nhiều đồ trang sức, tiền mặt, vũ khí nóng, đạn được, trang thiết bị tin học và giấy tờ giả. Họ đã tìm thấy nhiều mũ trùm đầu, dao và một phần số tài sản bị lấy cắp. Năm tuần sau, họ tóm được kẻ cầm đầu mạng lưới đang ẩn náu trong một khách sạn ở ngoại ô Paris. Hắn cũng là kẻ chứa chấp, và đã tẩu tán phần lớn đồ ăn cắp tại những nước phương Đông. Bị giao trả về Nice, lũ du côn bị đưa vào điều tra và tống giam trong lúc chờ đưa ra tòa xử. Một số đã thừa nhận các vụ việc, nhưng không có vụ đột nhập nhà Francis. Không đáng ngạc nhiên cho lắm, bởi chúng có nguy cơ lãnh án hai mươi năm tù nếu tội danh của chúng bị xác định lại là cố sát.
3.Cơn rùng mình lan khắp người, tôi lật qua các trang hồ sơ báo chí với cảm giác pha trộn giữa kinh hãi và kích động. Những tài liệu tiếp theo dành riêng để nói về vụ đột nhập và tấn công Francis Biancardini. Bố Maxime không chỉ đơn thuần là bị hành hung. Ông đã bị tra tấn và đánh đập đến chết. Một số bài báo nhắc đến việc mặt ông sưng vù cực độ, thân thể ông đầy những vết rạch, hai cổ tay hằn sâu vết còng. Tôi hiểu rõ hơn điều Maxime vừa gợi ra. Một kịch bản hình thành trong đầu tôi. Ahmed đã nói chuyện với một người nào đó, người đó đã vây dồn Francis trước khi tra tấn ông. Chắc chắn là để buộc ông phải thú nhận một điều gì đó. Nhưng là điều gì? Trách nhiệm của ông trong cái chết của Clément chăng? Hay là trách nhiệm của chúng tôi?
Tôi đọc lại tập tài liệu. Một nữ phóng viên của tờ Người quan sát, Angélique Guibal, dường như đã tiếp cận được bản báo cáo của cảnh sát. Bài báo của cô ta chủ yếu nói về việc phá hủy bức tranh của Sean Lorenz, nhưng cũng nhắc đến các vụ trộm khác ở Aurelia Park. Theo ý cô ta, Francis chắc chắn vẫn còn sống sau khi những kẻ tấn công ông rời đi. Cuối bài báo, cô ta có liên hệ đối chiếu với vụ án Omar Raddad(7), khẳng định rằng Biancardini đã lết đến tận cửa sổ và cố gắng viết điều gì đó lên kính bằng máu của chính mình. Như thể ông biết những kẻ tấn công mình là ai.
Câu chuyện đó khiến máu tôi đông lại. Tôi vẫn luôn yêu mến Francis, thậm chí trước cả những gì ông đã làm cho chúng tôi trong vụ giết Clément. Ông rất ân cần với tôi. Tôi kinh hoàng khi nghĩ đến những thời khắc cuối cùng của cuộc đời ông.
Tôi ngẩng đầu khỏi tập tài liệu.
“Chúng đã lấy của Francis thứ gì trong vụ đột nhập này?”
“Chỉ một thứ duy nhất: bộ sưu tập đồng hồ, nhưng theo bên bảo hiểm, giá trị của nó ít nhất cũng phải ba trăm ngàn euro.”
Tôi nhớ đến niềm đam mê của ông. Francis say đắm nhãn hiệu đồng hồ Patek Philippe của Thụy Sĩ. Ông sở hữu hàng chục mẫu đồng hồ của nhãn hiệu đó, và rất nâng niu chúng. Khi tôi còn là một thiếu niên, ông luôn thích thú cho tôi xem chúng và kể cho tôi nghe chuyện về chúng, đến mức niềm phấn khích của ông truyền cả sang tôi. Tôi nhớ đến những mẫu đồng hồ Calatrava, Grande Complication và Nautilus do Gérald Genta vẽ kiểu mà ông sở hữu.
Một câu hỏi vẫn khiến tôi day dứt suốt từ sáng nay.
“Bố cậu sống ở Aurelia Park từ khi nào? Tớ cứ tưởng ông ấy vẫn sống ở đây, trong ngôi nhà bên cạnh, như hồi trước.”
Maxime có vẻ hơi khó xử.
“Ông đi đi lại lại giữa hai nơi đã nhiều năm rồi, trước khi mẹ tớ mất rất lâu. Aurelia Park là dự án bất động sản của bố tớ. Ông đã đầu tư tiền vào đó với tư cách là người khởi xướng, và đổi lại, ông giành được một trong những biệt thự đẹp nhất khu. Nói thật với cậu, tớ chưa bao giờ có ý muốn đặt chân đến đó, và kể cả sau khi ông chết, tớ vẫn muốn để người gác cổng chăm lo cho căn biệt thự ấy thì hơn. Tớ nghĩ đó là một thứ không gian riêng. Nơi bố tớ đưa nhân tình hoặc gái gọi đến. Hồi ấy, thậm chí tớ còn nghe nói ông ấy tổ chức các bữa tiệc thác loạn ở đó.”
Francis vẫn luôn nổi tiếng là người đam mê sắc dục. Tôi vẫn nhớ quả thực ông thường công khai nhắc đến những cuộc chinh phục của mình, nhưng có lẽ tôi không bao giờ đủ khả năng nhắc lại những cái tên. Mặc cho cái tính phóng đãng ấy, tôi vẫn luôn yêu quý ông, một cách hoàn toàn tự nhiên, bởi tôi đoán rằng ông bị giam cầm trong một nhân cách phức tạp và luôn day dứt. Những lời đả kích phân biệt chủng tộc cũng như những phát biểu coi thường phụ nữ và chống nữ quyền của ông luôn thái quá và kịch. Nhất là tôi thấy chúng dường như hơi mâu thuẫn với hành động của ông. Phần lớn công nhân của ông là người Magreb, và ông rất thân thiết với họ. Ông là một ông chủ kiểu cũ, đúng là rất gia trưởng, nhưng những ai làm việc cho ông đều có thể trông cậy ở ông. Còn về phụ nữ, một hôm mẹ tôi từng nhận xét với tôi rằng tất cả bọn họ đều đảm nhiệm một chức vụ nào đó trong công ty của ông.
Một kỷ niệm lướt qua tâm trí tôi, rồi lại thêm một kỷ niệm nữa, xa xôi hơn.
Hồng Kông, năm 2007. Tôi ba mươi ba tuổi. Cuốn tiểu thuyết thứ ba của tôi vừa ra mắt bạn đọc. Đơn vị quản lý đã tổ chức cho tôi một chuyến đi ngắn để ký tặng sách ở châu Á: Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội, hiệu sách Pigeonnier ở Đài Bắc, Đại học Ewha danh giá ở Seoul, hiệu sách Parenthèses ở Hồng Kông. Tôi đã ngồi chung bàn với một nữ phóng viên tại quán rượu trên tầng hai mươi lăm của khách sạn Mandarin Oriental. Đường chân trời (Skyline) của Hồng Kông trải ra hút tầm mắt, nhưng đã một lúc lâu, tôi mải mê ngắm nghía một người đàn ông, ngồi cách chúng tôi chừng chục mét. Đó là Francis, thế nhưng tôi không nhận ra ông. Ông đang đọc Wall Street Journal mặc một bộ vest cắt may hoàn hảo (đệm vai, ve cổ lật vuông góc kiểu Paris) và nói thứ tiếng Anh trôi chảy đủ để tranh luận với anh chàng phục vụ về sự khác nhau giữa các loại Whisky Nhật và Whisky Scotland. Đến một lúc, cô nàng phóng viên hiểu rằng tôi đã không nghe cô nói hồi lâu, và phật ý. Tôi vội chữa cháy bằng cách vắt óc tìm ra câu trả lời có chút tinh tế đáp lại câu hỏi của cô nàng. Và khi tôi ngước mắt lên, Francis đã rời khỏi quán rượu.
Mùa xuân năm 1990, tôi còn chưa đầy mười sáu tuổi. Tôi đang chuẩn bị kỳ thi lấy bằng tú tài. Chỉ có một mình tôi ở nhà. Cha mẹ tôi, anh trai và chị gái tôi đã đi nghỉ ở Tây Ban Nha. Tôi thích sự cô độc đó. Từ sáng đến tối, tôi chúi mũi vào đống sách mà chúng tôi phải đọc theo chương trình. Hết bài đọc này lại đến bài đọc khác, mỗi khám phá là một lời mời gọi để tôi thám hiểm âm nhạc, hội họa và những bình luận của người đương thời về tác phẩm tôi vừa đọc. Cuối một buổi sáng, trong lúc lấy báo, tôi nhận ra người đưa thư đã bỏ vào thùng thư nhà tôi một bức thư gửi cho Francis. Tôi quyết định mang bức thư sang cho ông ngay lập tức. Bởi vì giữa hai nhà chúng tôi không có hàng rào, tôi đi vòng qua sau nhà và vượt qua bãi cỏ của gia đình Biancardini. Một ô cửa kính đang để ngỏ. Không lên tiếng, tôi vào phòng khách, chỉ với ý định là sẽ đặt bức thư lên bàn rồi rời đi. Đột nhiên tôi nhìn thấy Francis ngồi trong một chiếc ghế bành. Ông không nghe thấy tôi bước vào vì dàn Hi-Fi đang phát một khúc ngẫu hứng của Schubert (bản thân điều này đã là đáng ngạc nhiên trong một ngôi nhà nơi thông thường chỉ có Michel Sardou và Johnny mới được chấp nhận).
Càng khó tin hơn nữa, Francis đang đọc sách. Và không phải cuốn sách vớ vẩn nào. Tôi đứng bất động, nhưng nhìn thấy bìa sách phản chiếu trong tấm kính. Hồi ký Hadrien của Marguerite Yourcenar. Tôi sững sờ. Francis luôn ra sức rêu rao rằng suốt đời mình ông chưa từng mở một cuốn sách nào. Ông tuyên bố rằng ông khinh bỉ những gã mọt sách sống trong bong bóng nước của chính mình trong khi ông còng lưng trên công trường từ lúc mới mười bốn tuổi. Tôi nhón chân quay trở ra, trong đầu đầy ắp những băn khoăn. Tôi từng chứng kiến không biết bao nhiêu gã ngu ngốc cố chứng tỏ mình là người thông minh nhất, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy một người đàn ông thông minh muốn tỏ ra mình là kẻ ngu si.
4.“Ba ơi, ba ơi!”
Những tiếng gọi kéo tôi ra khỏi dòng hoài niệm. Từ đầu kia thảm cỏ, Emma và Louise đang chạy về phía chúng tôi, mẹ tôi chạy theo chúng. Theo phản xạ, tôi đóng tập hồ sơ lại, cùng với những thứ kinh hoàng chứa đựng trong đó. Trong lúc hai cô bé lao vào người bố, mẹ tôi thông báo:
“Mẹ giao hai cô bé cho các con. Mẹ đi mua thêm mơ ở tiệm Vergers de Provence.”
Rồi bà vung vẩy trước mặt tôi chìa khóa chiếc Mini Cooper mà tôi đã bỏ trong hộp đựng đồ trước cửa ra vào.
“Mẹ lấy xe của con, Thomas ạ. Xe của mẹ bị vướng xe của Maxime rồi.”
“Chờ một chút, bác Annabelle, cháu sẽ lái nó ra.”
“Không, không, sau đó bác còn phải ghé qua trung tâm thương mại, và bác bị muộn mất rồi.”
Bà vừa nhìn tôi vừa nói thêm, “Với lại như thế này, Thomas ạ, con sẽ không thể bỏ trốn như một tên trộm được. Cũng không coi thường món bánh tarte nhân mơ của mẹ được.”
“Nhưng con sắp đi đây. Con cần xe!”
“Con sẽ lấy xe của mẹ, chìa khóa cắm trên ổ đấy.”
Mẹ tôi bỏ đi, không để tôi có thời gian đối đáp thêm lời nào nữa. Trong lúc Maxime lấy từ trong túi ra một mớ đồ chơi để hai cô bé có thứ mà bận rộn, điện thoại di động của tôi rung lên trên mặt bàn. Số điện thoại lạ. Trong tâm trạng nghi hoặc, tôi nghe máy. Là Claude Angevin, cựu tổng biên tập tờ Nice Buổi sáng, quân sư của Stéphane Pianelli.
Người đàn ông này khá dễ chịu, nhưng rất ba hoa chích chòe. Ông ta giải thích với tôi rằng ông ta đã chuyển đến ở vùng Douro, và dành đến cả năm phút để ca ngợi vẻ đẹp quyến rũ của vùng đất Bồ Đào Nha đó. Tôi kéo ông ta về với vụ án Vinca Rockwell, cố gắng dò hỏi để biết được mức độ tin tưởng của ông ta đối với những gì được công bố chính thức.
“Toàn là giả mạo hết, nhưng ta chẳng bao giờ chứng minh được điều đó.”
“Tại sao ông lại tin như thế?”
“Linh cảm. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng tất cả mọi người đều đi chệch hướng điều tra: cảnh sát, phóng viên, các gia đình. Nói riêng với cậu, thậm chí tôi còn tin rằng chúng ta điều tra nhầm nữa cơ.”
“Sao lại như thế được?”
“Ngay từ đầu, chúng ta đã để tuột mất điều cốt yếu. Tôi không chỉ nói với cậu về một chi tiết, tôi đang nói với cậu về điều gì đó rất lớn lao. Một thứ không ai nhìn thấy, và đã định hướng việc tìm kiếm theo những đường ray chẳng dẫn đến đâu cả. Cậu hiểu ý tôi muốn nói chứ?”
Những điều ông ta nói có vẻ mơ hồ, nhưng tôi vẫn hiểu và cũng chung ý tưởng. Cựu phóng viên tiếp tục:
“Stéphane kể với tôi là cậu đang tìm kiếm tác giả bức ảnh chụp hai người khiêu vũ?”
“Vâng, ông biết người đó là ai không?”
“Dĩ nhiên rồi (Claro que sei)! Đó là bố của một học sinh: Yves Dalanegra.”
Cái tên ấy gợi lại trong tôi điều gì đó. Angevin giúp tôi nhớ lại: “Tôi đã tiến hành tìm kiếm. Ông ấy là bố của Florence và Olivia Dalanegra.”
Lúc này, tôi chỉ còn mang máng nhớ về Florence. Một cô gái cao lớn có vóc dáng khỏe khoắn, có lẽ phải cao hơn tôi cả chục xăng-ti-mét. Cô học lớp cuối cấp ban sinh học vào năm tôi thi lấy bằng tú tài ban khoa học, nhưng chúng tôi học cùng lớp thể dục. Thậm chí tôi còn phải chơi cùng với cô trong đội bóng ném hỗn hợp. Ngược lại, tôi không nhớ gì về bố cô.
“Ông ấy đã đích thân đề nghị chúng tôi dùng bức ảnh, vào năm 1993, ngay sau bài báo đầu tiên của chúng tôi về vụ mất tích của Vinca Rockwell và Alexis Clément. Chúng tôi đã mua nó không chút ngần ngại, và từ đó trở đi, nó được sử dụng rất nhiều.”
“Chính ông là người đã chỉnh sửa bức ảnh?”
“Không, dù sao tôi cũng không nhớ mình từng làm việc đó. Tôi nghĩ chúng tôi đã đăng nó giống hệt như khi ông Dalanegra bán nó cho chúng tôi.”
“Yves Dalanegra, ông có biết hiện giờ ông ấy sống ở đâu không?”
“Ờ, tôi đã tìm được cho cậu vài thông tin. Tôi gửi nó qua email cho cậu, nhưng hãy chuẩn bị tinh thần đón nhận một điều bất ngờ nhé.”
Tôi cho Angevin địa chỉ hòm thư điện tử của tôi và cảm ơn ông, còn ông bắt tôi phải hứa là sẽ báo cho ông nếu việc điều tra của tôi có tiến triển.
“Ta không thể quên lãng Vinca Rockwell như thế được,” ông tuyên bố với tôi trước khi chào tạm biệt.
Ông định nói câu ấy với ai chứ, ông nội!
Khi tôi gác máy, cốc cà phê mà Maxime pha cho tôi đã nguội lạnh. Tôi đứng dậy để rót cho hai chúng tôi mỗi người một cốc mới. Sau khi chắc chắn là hai cô bé đang bận rộn, Maxime đến bên máy pha cà phê espresso cùng tôi.
“Cậu vẫn chưa kể với tớ tại sao cảnh sát trưởng Debruyne lại triệu tập cậu.”
“Anh ta muốn tớ xác nhận một chuyện có liên quan đến cái chết của bố tớ.”
“Đừng bắt tớ phải đợi nữa. Cậu phải xác nhận điều gì?”
“Tối hôm thứ Tư, gió thổi rất mạnh và biển động. Sóng đã cuốn vào bờ một khối lượng lớn rong tảo và rác rưởi. Sáng hôm kia, các nhân viên môi trường đô thị đã đổ bộ để làm sạch bờ biển.”
Đôi mắt nhìn mông lung nhưng vẫn hướng về phía hai cô con gái, Maxime uống một ngụm cà phê rồi nói tiếp:
“Trên bãi biển Salis, một nhân viên tòa thị chính đã tìm thấy một cái túi bằng sợi đay bị sóng đánh vào bờ. Cậu đoán thử xem bên trong có gì…”
Tôi lắc đầu, hoàn toàn mù tịt.
“Cái túi đó đựng số đồng hồ của bố tớ. Cả bộ sưu tập.”
Tôi lập tức đánh giá tầm quan trọng của tiết lộ này. Đám người Macedonia chẳng liên quan gì đến cái chết của Francis. Vụ đột nhập nhà ông không phải một vụ trộm. Kẻ sát hại Francis đã khôn khéo lợi dụng trào lưu xâm nhập tư gia (home jacking) để dàn cảnh vụ giết người. Hắn chỉ mang theo bộ sưu tập đồng hồ để làm giả một vụ trộm. Rồi hắn vứt bỏ chúng nhằm xóa dấu vết hoặc bởi vì hắn sợ bị khám xét đột xuất.
Tôi trao đổi một ánh mắt với Maxime, rồi cả hai chúng tôi cùng quay nhìn về phía hai bé gái. Một làn sóng giá băng ào ạt xô vào tôi. Từ giờ trở đi, hiểm nguy rình rập khắp nơi. Chúng tôi đang bị bám gót bởi một kẻ thù vô cùng quyết liệt, không phải một kẻ tống tiền hoặc chỉ đơn giản là ai đó tìm cách dọa cho chúng tôi sợ, như tôi tưởng lúc đầu.
Mà là một kẻ giết người.
Một kẻ giết người đang khơi mào trận chiến, hắn đang tiến hành một cuộc trả thù bền bỉ và độc ác.
Gã trai khác biệtvới những gã trai khác
Tôi đã hạ mui chiếc xe của mẹ. Được bao bọc giữa vùng truông Địa Trung Hải và bầu trời xanh thẳm, tôi lái xe vào sâu trong vùng nông thôn. Tiết trời mát mẻ, quang cảnh điền viên nên thơ. Hoàn toàn trái ngược với những day dứt đang xáo động tâm trí tôi.
Nói cho chính xác, tôi đang lo sợ, nhưng cũng đầy phấn khích. Mặc dù vẫn còn chưa hoàn toàn dám thú nhận với chính mình, nhưng tôi đang nuôi hy vọng trở lại. Trong vòng vài giờ đồng hồ chiều hôm đó, tôi thực sự tin chắc rằng Vinca chưa chết và tôi sẽ gặp lại cô. Và rằng như thế, đột nhiên, cuộc đời tôi sẽ tìm lại được ý nghĩa của nó, sự nhẹ nhõm của nó, và cảm giác tội lỗi tôi đang kéo lê theo mình sẽ bay biến mãi mãi.
Trong vòng vài giờ đồng hồ, tôi tin rằng tôi sẽ thắng ván cược của mình: không chỉ biết được sự thật về vụ Vinca Rockwell, mà còn thoát khỏi cuộc kiếm tìm này, tươi tỉnh và hạnh phúc trở lại. Đúng thế, tôi thực sự tin rằng tôi sẽ giải thoát Vinca khỏi cái ngục tù bí ẩn nơi cô đang bị giam cầm, và đến lượt cô sẽ giải thoát tôi khỏi cơn phiền muộn và những năm tháng phí hoài.
Ban đầu, tôi tìm kiếm Vinca không ngơi nghỉ, rồi năm tháng trôi đi, tôi chờ đợi đến khi chính cô là người tìm thấy tôi. Nhưng tôi chưa từng cam chịu từ bỏ, bởi vì tôi còn giấu trong ống tay áo một con bài mà tôi là người duy nhất biết được. Một ký ức nữa. Không phải một bằng chứng chính thức, nhưng là niềm tin sâu sắc. Thứ niềm tin có thể phá hủy một cuộc đời hoặc mang lại cho nó một sức bật mới, trong một phiên tòa đại hình.
*Cảnh tượng đó diễn ra cách đây vài năm. Năm 2010, trong khoảng thời gian từ Giáng sinh đến năm mới, New York đã bị tê liệt bởi một trận bão tuyết, một trong những trận bão tuyết kinh khủng nhất từng xảy ra với thành phố này. Người ta đóng cửa các sân bay, hủy tất cả các chuyến bay, và trong suốt ba ngày, Manhattan sống dưới một lớp vỏ bọc tạo bởi băng và tuyết. Ngày 28 tháng Mười hai, sau thời gian tưởng như là ngày tận thế đó, mặt trời rực rỡ chiếu sáng thành phố suốt cả ngày dài. Vào khoảng giữa trưa, tôi ra khỏi căn hộ và bắt đầu đi dạo một vòng về phía quảng trường Washington. Ở cổng công viên, trong lối đi nơi những người chơi cờ đang tập trung, tôi thử chơi một ván với Serguei, một ông già người Nga mà tôi đã gặp vài lần. Trước đó, trong những ván cờ mức hai mươi đô-la, ông già luôn thắng tôi sát ván. Tôi ngồi xuống sau một trong những chiếc bàn bằng đá, quyết tâm phục thù.
Tôi vẫn còn nhớ như in khoảnh khắc ấy. Tôi có một nước đi rất hay: dùng quân mã của mình ăn quân tượng của đối thủ. Tôi nhấc quân cờ khỏi bàn cờ, đồng thời ngước mắt nhìn lên. Và đó chính là lúc tim tôi như bị một thanh đoản kiếm xuyên qua.
Vinca ở đó, ở đầu lối đi, cách tôi chừng mười lăm mét.
Chìm đắm trong một cuốn sách, cô ngồi trên chiếc ghế dài, hai chân bắt tréo, tay cầm chiếc cốc giấy. Tỏa sáng. Còn rạng rỡ và dịu dàng hơn cả thời trung học. Cô mặc một chiếc quần jean sáng màu, một chiếc áo vest bằng da đanh màu xanh mù tạt và quàng một chiếc khăn to tướng. Mặc dù cô đội một chiếc mũ không vành, tôi vẫn đoán ra tóc cô ngắn hơn và đã mất đi ánh hung đỏ trước đây. Tôi dụi mắt. Cuốn sách cô đang cầm trên tay chính là tác phẩm của tôi. Đúng lúc tôi sắp mở miệng để gọi cô, Vinca ngẩng đầu lên. Trong một khoảnh khắc, mắt chúng tôi gặp nhau và…
“Thôi nào, cậu có chơi hay không hả, chết tiệt! Serguei nhắc tôi.”
Trong vài giây, Vinca vượt khỏi tầm mắt tôi, đúng lúc một nhóm người Trung Quốc đổ bộ vào công viên. Tôi đứng dậy, vừa rẽ đám đông vừa chạy đuổi theo, nhưng khi tôi đến gần chiếc ghế dài, Vinca đã biến mất.
*Ký ức đó đáng tin cậy đến mức nào? Tôi chỉ nhìn thấy Vinca trong một thoáng, phải thừa nhận điều đó. Vì sợ rằng cảnh tượng đó sẽ phai nhạt, tôi đã chiếu lại nó, hết lần này đến lần khác, trong tâm trí, để nó lắng đọng lại mãi mãi. Bởi vì hình ảnh ấy xoa dịu tôi, nên tôi bấu víu vào nó, nhưng tôi biết rằng nó rất mong manh. Mọi ký ức đều bao hàm một phần hư cấu và tái tạo, mà ký ức này lại quá đẹp đẽ để có thể là sự thật.
Nhiều năm trôi qua, và cuối cùng tôi đâm ra nghi ngờ tính xác thực của những gì mình đã nhìn thấy. Chắc là tôi đã tự thuyết phục bản thân về một điều gì đó. Ngày hôm nay, khoảnh khắc ấy mang một ý nghĩa đặc biệt. Tôi nhớ lại những điều Claude Angevin, ông cựu tổng biên tập của tờ Nice Buổi sáng, vừa tuyên bố với tôi. Tất cả mọi người đều đi chệch hướng điều tra: cảnh sát, phóng viên, các gia đình. Nói riêng với cậu, thậm chí tôi còn tin rằng chúng ta điều tra nhầm nữa cơ. Ngay từ đầu, chúng ta đã để tuột mất điều cốt yếu…
Angevin nói đúng. Tuy nhiên, mọi sự đang thay đổi. Sự thật đang trên đà lộ diện. Có thể tôi đang bị một kẻ giết người bám gót, nhưng tôi không sợ. Bởi vì hắn chính là người giúp tôi lần ngược tới tận Vinca. Kẻ giết người này chính là vận may của tôi…
Nhưng tôi không thể một mình đánh bại hắn. Để xuyên thủng bức màn bí mật về vụ mất tích của Vinca Rockwell, tôi cần chìm vào ký ức của bản thân, đến thăm gã trai khác biệt với những gã trai khác vốn là tôi trước đây, đâu đó trong khoảng thời gian từ năm lớp mười cho đến giữa năm học cuối cấp. Một chàng thanh niên tích cực và dũng cảm, một người có trái tim thuần khiết, được tô điểm thêm chút nét duyên. Tôi biết mình không thể nào làm chàng trai ấy sống dậy, nhưng sự hiện diện của cậu ấy chưa bao giờ biến mất. Ngay trong những thời khắc tối tăm nhất, tôi vẫn mang cậu ấy trong mình. Một nụ cười, một lời nói, một ý nghĩ khôn ngoan đôi lúc vẫn lướt qua tôi, và nhắc nhở tôi về con người tôi trước đây.
Bây giờ, tôi tin chắc rằng chỉ có cậu ấy mới đủ khả năng khiến sự thật lộ ra. Bởi vì, qua công cuộc tìm kiếm Vinca, tôi đồng thời, và chủ yếu, đang tìm lại chính bản thân mình.
Chú Thích:
Cô gái trẻ – tiếng Ý trong nguyên bản.
Biệt thự có bể bơi – tiếng Anh trong nguyên bản.
Khơi lại chiến tranh - tiếng Anh trong nguyên bản.
Một vụ án tại Pháp mà trên hiện trường có dòng chữ được cho là của nạn nhân để chỉ đích danh kẻ giết người.
Dĩ nhiên rồi – tiếng Bồ Đào Nha trong nguyên bản.