Chương 11 Đằng sau nụ cười
Sự thiếu chính xác không tồn tại trong nhiếp ảnh. Tất cả các bức ảnh đều chính xác. Không có bức ảnh nào là sự thật cả.
Richard AVEDON
1.Yves Dalanegra sống trong một dinh thự lớn trên đồi Biot. Trước khi ngẫu hứng đến nhà ông, tôi đã gọi vào số điện thoại mà Claude Angevin cung cấp. May mắn đầu tiên: trong khi mỗi năm ông sống sáu tháng ở Los Angeles, Dalanegra hiện đang ở Côte d’Azur. May mắn thứ hai, ông biết chính xác tôi là ai: Florence và Olivia, hai cô con gái lớn của ông mà tôi đã gặp ở trường trung học – tôi chỉ lờ mờ nhớ về họ, nhưng ký ức rất thật – đọc các tiểu thuyết tôi viết và đánh giá cao về tôi. Do đó, ông bột phát mời tôi đến gặp ông ở tòa biệt thự kiêm xưởng sáng tác của ông trên đường Vignasses.
Hãy chuẩn bị tinh thần đón nhận một điều bất ngờ, Angevin đã cảnh báo tôi như thế. Trong lúc tra cứu thông tin trên trang web của Dalanegra, thông tin về ông trên Wikipedia và các bài báo khác trên mạng Internet, tôi hiểu rằng người đàn ông này đã trở thành một ngôi sao thực sự trong lĩnh vực nhiếp ảnh. Quá trình ông đạt đến điều đó vừa đặc biệt vừa đáng ngạc nhiên. Cho đến tận năm bốn mươi lăm tuổi, Dalanegra vẫn sống cuộc sống của một ông bố tốt. Làm kiểm soát quản lý trong một công ty nhỏ và vừa ở Nice, ông đã kết hôn và sống với một người phụ nữ, Catherine, trong suốt hai mươi năm, và họ có với nhau hai mặt con. Năm 1995, cái chết của mẹ ông đã gây ra một cú hích, khiến ông thay đổi hoàn toàn quỹ đạo của bản thân. Dalanegra ly hôn, rời bỏ chỗ làm và đến New York để thoải mái sống với đam mê riêng: nhiếp ảnh.
Nhiều năm sau, trong mục chân dung trang cuối của tờ Giải phóng, ông thổ lộ rằng ông chọn thời kỳ này để thừa nhận xu hướng đồng tính của mình. Những bức ảnh khiến ông nổi tiếng là ảnh chụp những nhân vật nam khỏa thân, công khai ngả theo quan điểm mỹ học của Irving Penn và Helmut Newton. Rồi, theo thời gian, công việc của ông trở nên đậm cá tính hơn. Từ đó trở đi, ông chỉ còn chụp những thân hình lột ra ngoài những ống kính quen chụp cái đẹp: những phụ nữ thừa cân quá mức hoặc thấp bé, những người mẫu có làn da cháy nắng, những người què cụt, những bệnh nhân đang trong quá trình hóa trị. Những hình thể đặc biệt mà Dalanegra đẩy đến mức thăng hoa. Lúc đầu còn nghi hoặc, sau đó tôi đã phải sững sờ trước sức mạnh trong công việc của ông, công việc không có chút gì là phê phán hay gàn dở. Ta gần với các họa sĩ theo truyền thống Flamand hơn là một chiến dịch quảng cáo đầy tính toán và khôn khéo ca ngợi sự đa dạng của thân thể con người. Rất tinh tế, với cách dàn cảnh đầy sáng tạo và khéo léo tận dụng ánh sáng, các bức ảnh của ông giống những bức vẽ cổ điển đưa ta về một thế giới nơi vẻ đẹp sát cánh với niềm vui, khoái lạc và sung sướng.
Tôi lái xe chầm chậm trên con đường nhỏ chạy ngược lên đồi, giữa những rặng ô liu và những bức tường thấp bằng đá ong. Mỗi đoạn bằng phẳng lại mở ra một con đường hẹp hơn nữa dẫn vào một tòa nhà: những ngôi nhà kiểu nông thôn cũ kỹ đã được cải tạo, những ngôi nhà mang phong cách đương đại, những căn biệt thự kiểu Provence xây dựng từ những năm 1970. Qua một khúc cua tay áo, những cây ô liu thân đầy mấu và vòm lá rung rinh tránh sang một bên để nhường chỗ cho một khoảnh đất trồng cọ mà ta tưởng không thể nào xuất hiện ở nơi đây, như thể người ta vừa bứng cả một mảng Marrakech mang đặt giữa vùng Provence. Yves Dalanegra đã cho tôi mã số mở cổng. Tôi đỗ xe trước hàng rào bằng sắt rèn và đi bộ xuyên qua lối đi rợp bóng cọ, đến tận ngôi nhà.
Đột nhiên, một khối màu vàng hung vừa lao vào tôi vừa sủa ầm ĩ. Một con chó béc giê to tướng, giống chó Anatolie. Tôi có một nỗi sợ ám ảnh đối với loài chó. Hồi sáu tuổi, trong bữa tiệc sinh nhật một cậu bạn, con chó Beauceron của gia đình họ đột ngột lao vào tôi. Chẳng biết vì nguyên nhân gì, nó tấn công mặt tôi. Tôi suýt mất một bên mắt trong vụ ấy, và từ đó trở đi, ngoài vết sẹo trên sống mũi, tôi vẫn giữ trong lòng một nỗi sợ sâu thẳm và vô hạn độ đối với loài chó.
“Yên nào, Ulysse!”
Viên quản gia, một người đàn ông thấp bé có đôi cánh tay cơ bắp không hề tương xứng với thân hình, xuất hiện đằng sau con chó. Ông ta mặc một bộ đồ thủy thủ và đội chiếc mũ kiểu thuyền trưởng Popeye.
“Ngoan nào, chó!” ông ta lớn tiếng hét lên.
Lông ngắn, đầu to, cao tám mươi xăng-ti-mét: con chó chăn cừu nhìn tôi đầy thách thức, khiến tôi không dám bước thêm. Hẳn là nó cảm nhận được nỗi sợ hãi của tôi.
“Tôi đến gặp ông Dalanegra!” tôi giải thích với viên quản gia. “Chính ông ấy đã cho tôi mã số mở cổng.”
Người đàn ông hoàn toàn tin tưởng tôi, nhưng Ulysse thì đã ngoạm lấy gấu quần tôi. Tôi không thể nào kìm nổi một tiếng hét, buộc viên quản gia phải can thiệp và đấu tay bo với con chó để nó nhả miếng mồi ra.
“Nhả ra, Ulysse!”
Đã có phần bực mình, thuyền trưởng Popeye xin lỗi rối rít. “Tôi không biết con chó này làm sao nữa. Bình thường, nó dễ thương như một con gấu bông. Chắc hẳn là vì trên người anh có mùi gì đó.”
Mùi của nỗi sợ, tôi vừa thầm nghĩ vừa đi tiếp.
Nhiếp ảnh gia này đã cho xây một căn nhà rất độc đáo: căn nhà mang phong cách California có hình chữ L, xây bằng những khối bê tông trong mờ. Một bể bơi vô cực lớn mở ra tầm nhìn tuyệt vời về phía ngôi làng và đồi Blot. Từ những ô cửa kính mở hé vang lên một bè song ca opera: giai điệu nổi tiếng nhất trong hồi II tác phẩm Hiệp sĩ hoa hồng của Richard Strauss. Thật lạ lùng, cửa ra vào không có chuông. Tôi gõ cửa, nhưng không ai trả lời vì tiếng nhạc quá to. Theo phong cách của người miền Nam, tôi đi vòng qua khu vườn để tiến lại gần nơi phát ra tiếng nhạc.
Dalanegra nhìn thấy tôi qua cửa kính, và bằng một cái vẫy tay, ông ra hiệu cho tôi vào nhà qua một trong những ô cửa lửng rộng rãi.
Nhiếp ảnh gia đang hoàn tất một buổi chụp hình. Nhà ông chỉ là một căn xưởng cũ rộng mênh mông được biến thành studio ảnh. Đằng sau ống kính, một người mẫu đang mặc lại quần áo. Một vẻ đẹp tròn trịa mà người nghệ sĩ vừa được ghi lại mãi mãi – tôi đoán ra điều ấy nhờ vào những phụ kiện dàn cảnh – trong tư thế của Maja khỏa thân, kiệt tác của Goya. Tôi đã đọc được đâu đó rằng đây là sở thích mới nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh này: tái hiện lại các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy với những người mẫu béo tốt.
Khung cảnh bài trí hào nhoáng, nhưng lành mạnh: một chiếc ghế xô-pha bọc nhung xanh lá cây, những cái gối tựa êm ái, những tấm rèm đăng ten, những tấm phủ mỏng manh khiến ta có cảm giác chúng đang sủi bọt như trong bồn tắm.
Dalanegra xưng hô thân mật với tôi ngay lập tức:
“Cháu khoẻ không, Thomas? Vào đi (How are you, Thomas? Come on), cháu có thể vào đây, chúng ta xong việc rồi!”
Về ngoại hình, trông ông giống Chúa Giê su. Hay đúng hơn, nếu ta vẫn tiếp tục so sánh trong lĩnh vực hội họa, ông giống một bức chân dung tự họa của Albrecht Durer: mái tóc lượn sóng rủ xuống tận vai, khuôn mặt cân đối và hốc hác, chòm râu ngắn được cắt tỉa cẩn thận, đôi mắt nhìn chăm chú và có quầng thâm, về trang phục thì hoàn toàn khác, ông mặc quần jean thêu họa tiết, áo gi-lê kiểu cao bồi có tua viền và đi đôi giày ống cao ngang mắt cá chân.
“Bác không hiểu gì về những lời giải thích của cháu qua điện thoại. Bác vừa từ Los Angeles về tối qua, và đang mệt phờ râu trê đây.”
Dalanegra mời tôi ngồi xuống đầu một chiếc bàn lớn bằng gỗ mộc trong lúc ông chào tạm biệt người mẫu. Khi ngắm nhìn những bức ảnh treo la liệt khắp nơi, tôi bỗng nhận ra rằng nam giới không tồn tại trong các tác phẩm của Dalanegra. Bị phủ nhận, bị gạch bỏ khỏi bản đồ, họ đã dành ra một vị trí rõ ràng, cho phép phụ nữ tiến triển trong một thế giới vốn được giao cho giống đực.
Khi quay lại phía tôi, nhiếp ảnh gia nhắc đến hai cô con gái, rồi kể về một nữ diễn viên từng thủ vai trong một bộ phim chuyển thể từ một trong các tiểu thuyết của tôi, và đã được ông chụp ảnh. Khi đã cạn chủ đề, ông hỏi tôi:
“Nói cho bác biết xem bác có thể làm gì cho cháu.”
2.“Chính bác là người đã chụp bức ảnh này, tất nhiên (of course)!” Dalanegra thừa nhận.”
Tôi đã đi thẳng vào chủ đề, bởi vì ông có vẻ sẵn sàng giúp đỡ, và cho ông xem bìa cuốn sách của Pianelli. Ông gần như giằng lấy cuốn sách từ tay tôi và xem xét bức ảnh như thể đã nhiều năm nay ông không nhìn thấy nó.
“Hôm đó là tiệc cuối khóa, đúng không?”
“Đúng ra là vũ hội cuối năm, vào giữa tháng Mười hai năm 1992.”
Ông gật đầu. “Hồi ấy, bác phụ trách câu lạc bộ nhiếp ảnh của trường. Hẳn là bác đang ở gần đó và ghé qua chốc lát để chụp ảnh Florence và Olivia. Thế rồi bác bị cuốn theo và giơ máy chụp khắp nơi. Nhưng phải đến vài tuần sau, khi mọi người bắt đầu nói về việc cô gái này bỏ trốn cùng anh chàng giáo viên, bác mới nghĩ đến việc rửa ảnh. Bức ảnh này nằm trong loạt ảnh đầu tiên mà bác rửa ra. Bác đã đề xuất đưa nó cho Nice Buổi sáng, và họ mua nó ngay lập tức.”
“Nhưng nó đã được cắt xén lại, phải không bác?”
Ông nheo mắt.
“Đúng thế, cháu tinh mắt đấy. Bác đã phải tách riêng hai nhân vật chính để làm nổi bật sức mạnh của bố cục.”
“Bác còn giữ ảnh gốc không?”
“Bác đã cho số hóa tất cả những bức ảnh bác từng chụp phim từ năm 1974,” ông tuyên bố.
Tôi tưởng mình đã gặp may, nhưng rồi lại thấy ông nhăn mặt:
“Tất cả đều được lưu trữ đâu đó tại một máy chủ hoặc trên đám mây, như người ta vẫn nói hiện nay, nhưng thực sự bác không biết làm cách nào để tiếp cận được chúng.”
Trước vẻ thất vọng của tôi, ông bảo ông sẽ gọi cho trợ lý của ông tại Los Angeles qua Skype. Trên màn hình máy tính của ông hiện ra khuôn mặt của một cô gái Nhật vẫn còn chưa hoàn toàn tỉnh ngủ.
“Chào Yûko, cô giúp tôi một việc được không?”
Với đôi bím tóc đuôi sam dài màu xanh ngọc lam, áo sơ mi trắng tinh và cà vạt nữ sinh, trông cô giống một nhân vật cosplay đang sắp sửa đến dự một hội nghị.
Dalanegra giải thích rõ ràng với cô thứ ông cần tìm, và Yûko hứa là sẽ liên lạc lại với chúng tôi thật nhanh.
Sau khi gác máy, nhiếp ảnh gia bước đến sau quầy bếp bằng đá và lấy một máy xay để pha đồ uống. Ông bỏ chung rau chân vịt, mấy miếng chuối và sữa dừa vào phần cối thủy tinh. Ba mươi giây sau, ông rót món sinh tố sủi bọt mầu xanh nhạt đó vào hai chiếc cốc lớn.
“Cháu nếm thử thứ này xem!” ông vừa nói vừa tiến lại gần tôi. “Rất tốt cho da và dạ dày đấy.”
“Bác không có loại whisky nào thay cho thứ này sao?”
“Rất tiếc, bác đã thôi rượu từ hai mươi năm nay rồi.”
Ông uống ực một hơi hết nửa cốc sinh tố, trước khi quay trở lại chủ đề Vinca:
“Với cô gái này thì chẳng cần phải là một tay có hạng mới chụp được, ông vừa tuyên bố vừa đặt chiếc cốc xuống bên cạnh máy tính. Cháu nhấn nút, và thế là, khi cháu rửa ra, ảnh còn đẹp hơn cả thực tế. Bác hiếm khi gặp người nào có sức quyến rũ như vậy.”
Những lời này khiến tôi nhăn nhó khó chịu. Dalanegra nói như thể ông đã chụp ảnh Vinca nhiều lần rồi.
“Đúng là như thế!” ông khẳng định khi tôi hỏi ông câu đó.
Trước vẻ bối rối của tôi, ông kể cho tôi nghe một chuyện mà tôi không biết.
“Hai hay ba tháng gì đó trước khi mất tích, Vinca đã nhờ bác chụp ảnh cho nó. Bác tưởng nó muốn tự xây dựng cho mình một tuyển tập ảnh để theo nghề người mẫu, giống như một số bạn gái của hai đứa con bác, nhưng cuối cùng Vinca đã thú nhận với bác rằng những bức ảnh ấy là để dành cho bạn trai của nó.”
Ông cầm con chuột và bắt đầu nhấp vào nút mở trình duyệt web.
“Bác và con bé đã chụp được hai buổi rất thành công. Bản in mềm thôi, nhưng rất quyến rũ.”
“Những bức ảnh ấy, bác có giữ lại không?”
“Không, đó là một phần trong thỏa thuận và bác cũng không nài thêm, nhưng có điều lạ là vài tuần trước, chúng đã xuất hiện trở lại trên mạng Internet.”
Ông xoay màn hình về phía tôi. Ông vừa kết nối vào tài khoản Instagram của nhóm Heterodites, hội nữ sinh ủng hộ nữ quyền của trường Saint-Ex sùng bái Vinca. Trên trang web của họ, những cô gái trẻ đã đăng tải chừng hai chục bức ảnh mà Dalanegra vừa kể với tôi.
“Làm sao họ có được những hình ảnh này?”
Nhiếp ảnh gia xua tay trong khoảng không.
“Quản lý của bác đã liên hệ với họ về vấn đề bản quyền. Họ khẳng định chỉ nhận được chúng qua email, do một người lạ gửi đến.”
Tôi xem xét kỹ càng những bức ảnh chưa từng nhìn thấy, trong lòng có chút xúc động. Quả là một bài thơ ca ngợi nhan sắc. Ta nhìn thấy trong đó toàn bộ những gì làm nên sức quyến rũ của Vinca. Không có gì ở cô là hoàn hảo. Nét đặc biệt trong nhan sắc của cô nằm ở sự tổng hòa của tất cả những điểm nhỏ không hoàn hảo đó, rốt cuộc chúng tạo thành một tổng thể duyên dáng và cân đối, khẳng định lại câu ngạn ngữ cổ nói rằng cái tổng thể không bao giờ là phép cộng của từng phần nhỏ.
Đằng sau nụ cười của cô, đằng sau chiếc mặt nạ vẽ bởi đôi chút ngạo mạn kia, tôi đoán thấy một nỗi đau khổ mà hồi ấy tôi không nhận ra. Hay ít ra là một cảm giác bất an, khẳng định với tôi những điều sau này tôi đã trải nghiệm khi ở bên những người phụ nữ khác: sắc đẹp cũng là một trải nghiệm trí tuệ, một quyền lực mong manh mà đôi khi ta không biết rõ mình đang tận dụng hay đang chịu đựng nó.
“Sau đó,” Dalanegra nói tiếp, “Vinca đã yêu cầu bác thực hiện những thứ tệ hại hơn, gần như khiêu dâm. Đến đó thì bác từ chối bởi vì bác có cảm giác đó là ý muốn của gã bạn trai, chứ con bé thì không thực sự muốn làm.”
“Bạn trai cô ấy là ai? Alexis Clément ư?”
“Bác cho là thế. Thời nay, chuyện này có vẻ vớ vẩn, nhưng hồi ấy thì cũng hơi đáng sợ. Bác không muốn dấn sâu vào. Nhất là…”
Ông bỏ lửng câu nói để tìm từ ngữ thích hợp.
“Nhất là sao ạ?”
“Chuyện này không dễ giải thích đâu. Hôm nay thì Vinca trông rất rạng rỡ, rồi hôm sau lại ủ rũ hoặc bơ phờ. Bác thấy con bé không ổn định chút nào. Với lại nó còn có một đề nghị khác khiến bác lạnh cả người: nó yêu cầu bác đi theo nó, một cách bí mật, để chụp những bức ảnh có lẽ là sẽ được dùng để tống tiền một gã lớn tuổi hơn nó, chuyện ấy thật tồi tệ và nhất là…”
Một âm thanh lanh lảnh thông báo có email mới, cắt ngang câu chuyện của Dalanegra.
“A! là Yûko!” ông vừa nói vừa liếc mắt nhìn vào màn hình.
Ông nhấp chuột để mở email có chứa khoảng năm chục bức ảnh chụp vũ hội cuối năm. Ông đeo cặp kính hình bán nguyệt lên mắt, và nhanh chóng tìm ra bức ảnh trứ danh chụp Vinca cùng Alexis Clément đang khiêu vũ.
Rafa đã nhìn đúng. Bức ảnh đúng là đã được cắt xén. Khi thu nhỏ kích thước lại để thấy toàn cảnh, bức ảnh mang một ý nghĩa hoàn toàn khác: Vinca và Clément không khiêu vũ cùng nhau. Vinca nhảy một mình, vừa nhảy vừa nhìn vào một người nào đó. Một người đàn ông chỉ xuất hiện phần lưng, một hình ảnh mờ nhạt ở cận cảnh.
“Chết tiệt!”
“Chính xác thì cháu đang tìm kiếm điều gì?”
“Bức ảnh của bác đúng là dối trá.”
“Giống như mọi bức ảnh khác thôi,” ông bình thản trả lời.
“Được rồi, bác đừng chơi chữ nữa.”
Tôi nhặt một chiếc bút chì nằm lăn lóc trên bàn và chỉ vào hình ảnh mờ nhạt, không rõ ràng trên bức ảnh.
“Cháu muốn nhận diện gã này, gã đang ở đây ấy. Có thể gã đó có liên quan đến vụ Vinca mất tích.”
“Chúng ta hãy xem những bức ảnh khác xem,” ông đề nghị.
Tôi kéo ghế lại gần màn hình máy tính và áp sát vào người ông già nhiếp ảnh gia để cùng ông xem xét những bức ảnh khác. Dalanegra chủ yếu chụp hai cô con gái, nhưng trên một số bức ảnh ta có thể nhìn thấy những người khác trong vũ hội. Đây là khuôn mặt Maxime, kia là Fanny. Nhóm học sinh mà tôi đã gặp vài thành viên trong sáng hôm đó: Eric Lafitte, Régis là thằng ngu, cô nàng Kathy Laneau xuất sắc… Cả tôi nữa, tôi cũng xuất hiện trong một bức ảnh, trong khi tôi không hề nhớ gì về buổi vũ hội đó. Trông tôi không mấy thoải mái, hơi lơ đãng, với chiếc áo sơ mi xanh da trời muôn thuở và áo vest blazer. Nhóm giáo viên, lúc nào cũng trong một cấu hình duy nhất. Một đám những gã tệ hại tụ tập với nhau cho ấm: N’Dong, giáo viên toán tàn ác thường có niềm vui ranh ma là hành hạ học sinh trên bảng, Lehmann, giáo viên vật lý mắc chứng loạn tâm thần hưng-trầm cảm, và giáo viên tai ác nhất, ả Fontana, không thể nào khiến học sinh tôn trọng trong giờ học, nhưng lại tính sổ một cách tàn nhẫn nhất trong các cuộc sinh hoạt lớp. Ở phía bên kia, là các giáo viên nhân đạo hơn: cô DeVille, cô giáo văn học Anh xinh đẹp dạy các lớp dự bị, nổi tiếng với đòn đáp trả cực kỳ đặc biệt của mình – chỉ bằng một câu trích dẫn Shakespeare hoặc Epictetus, cô có thể khóa mỏ bất cứ kẻ quấy rầy nào – và thầy Graff, quân sư cũ của tôi, thầy giáo Pháp văn tuyệt vời mà tôi từng được học vào năm lớp mười và mười một.
“Chết tiệt, ta không bao giờ nhìn thấy cảnh nghịch hướng được!” tôi cáu kỉnh khi xem đến cuối loạt ảnh.
Tôi biết rằng mình vừa lướt qua, rất gần, một tiết lộ quan trọng.
“Đúng thế, thật bực mình,” Dalanegra vừa đồng tình vừa uống nốt cốc sinh tố.
Tôi còn chưa đụng đến cốc của mình, việc đó vượt quá sức tôi. Trong phòng, độ sáng đã giảm. Rất thuận lợi cho việc sử dụng hiệu ứng ánh sáng, lớp bê tông trong mờ biến ngôi nhà thành một thứ bong bóng, trong đó bất cứ thay đổi nhỏ nào về độ sáng cũng dội lại, làm chuyển động những cái bóng mờ khiến chúng vật vờ như những bóng ma.
Dù sao, tôi cũng cảm ơn ông già nhiếp ảnh gia vì đã giúp đỡ tôi, và trước khi chia tay, tôi hỏi liệu ông có thể gửi những bức ảnh này cho tôi qua email hay không, ông lập tức gửi luôn.
“Theo bác, liệu rằng tối ấy có ai khác ngoài bác cũng chụp ảnh hay không?” tôi hỏi ông khi đã đứng ở ngưỡng cửa.
“Chắc là có vài học sinh,” ông đoán chừng. “Nhưng hồi ấy còn chưa có máy ảnh kỹ thuật số. Nên người ta phải tiết kiệm phim.”
Hồi ấy… Cụm từ đó vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch của căn phòng khách đã bị biến thành giáo đường ấy, và khiến cả ông lẫn tôi đều đột ngột cảm thấy mình già hẳn đi.
3.Tôi lại ngồi vào trong chiếc Mercedes của mẹ và lái đi vài ki-lô-mét mà không rõ là mình phải đi đâu. Chuyến viếng thăm ông nhiếp ảnh gia khiến tôi thất vọng và hẫng hụt. Có thể tôi đang đi sai hướng, nhưng tôi có nghĩa vụ phải khai thác hướng điều tra này cho đến cùng. Tôi phải tìm ra danh tính của người đàn ông trong bức ảnh.
Đến Biot, tôi băng qua những sân golf để đến bùng binh Brague. Thay vì tiếp tục đi về phía ngôi làng cổ, tôi rẽ vào đường Colles. Con đường dẫn đến Sophia Antipolis. Một sức mạnh mời gọi nào đó đưa tôi quay về trường trung học Saint-Exupéry. Sáng nay, tôi đã không đủ dũng khí để đối mặt với những bóng ma ở đó, những bóng ma đã bị tôi phủ nhận sự tồn tại trong suốt một thời gian quá dài.
Trên đường đi, tôi nhớ lại những bức ảnh khác nhau mà tôi đã xem ở nhà Dalanegra. Một trong số chúng đã khiến tôi cảm thấy đặc biệt bất ổn. Đó là bức ảnh chụp một bóng ma, đích thực: Jean-Christophe Graff, thầy giáo Pháp văn cũ của tôi. Tôi nhấp nháy mắt. Những kỷ niệm ùa về, cùng với những nỗi buồn đi kèm. Thầy Graff là giáo viên đã định hướng cho tôi trong việc đọc sách, và đã khuyến khích tôi viết những bài viết đầu tiên. Ông là một người tốt bụng, tinh tế, hào phóng. Người cao gầy như một con cò hương, khuôn mặt thanh tú, gần như nữ tính, thầy luôn quàng một cái khăn, ngay cả giữa mùa hè. Một người thầy có thể đưa ra những ý kiến phân tích văn chương xuất sắc, nhưng luôn tỏ ra hơi lạc lõng, ở bên lề của thực tại.
Jean-Christophe Graff tự sát năm 2002. Đã mười lăm năm rồi. Đối với tôi, ông chính là một nạn nhân mới của lời nguyền dành cho những người tử tế. Quy luật bất công đó, cái số phận tồi tệ đó luôn đè nặng lên một số người hơi mong manh quá mức, những người có sai lầm duy nhất là cố cư xử tốt với những người khác. Tôi không còn nhớ rõ ai đã khẳng định rằng con người chỉ phải đón nhận từ số phận những gì họ đủ khả năng chịu đựng, nhưng điều đó là sai. Thông thường, số phận là một tên khốn kiếp tai ác đồi bại thường đạt được cực khoái bằng cách nghiền nát cuộc đời của những người yếu ớt nhất, trong khi có biết bao kẻ khốn kiếp lại sống một cuộc đời dài đầy sung sướng.
Cái chết của thầy Graff đã hủy hoại tôi. Trước khi lao mình từ sân thượng tòa chung cư nơi ông sống xuống đất, thầy đã viết cho tôi một bức thư rất xúc động mà tôi nhận được ở New York một tuần sau khi ông chết. Tôi chưa từng kể với bất cứ ai về bức thư đó. Trong thư, ông tâm sự với tôi việc ông không thể thích nghi với sự tàn nhẫn của cuộc đời, và thú nhận rằng ông chết vì cô độc. Ông nhắc đến việc ông vỡ mộng khi nhận thấy rằng sách vở, thứ thường giúp ông vượt qua những thời kỳ đen tối, ngày nay không còn có thể giúp ông giải quyết khó khăn được nữa. Đầy hổ thẹn, ông kể với tôi về một tình yêu lớn lao nhưng không được đáp lại, mối tình đã làm tan vỡ trái tim ông. Trong những dòng cuối cùng của bức thư, ông chúc tôi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống và đảm bảo với tôi rằng không có giây phút nào ông nghi ngờ về việc tôi sẽ thành công ở nơi ông đã thất bại: công cuộc kiếm tìm đầy vinh quang để có được một tâm hồn tri kỷ, để đối mặt với những bất ổn của cuộc đời. Nhưng ông cũng tự huyễn hoặc mình với những ảo tưởng về khả năng của tôi, và trong những ngày tồi tệ nhất, càng lúc tôi càng hay nghĩ rằng không phải không có khả năng tôi cũng sẽ có kết cục như ông.
Tôi buộc mình phải xua đuổi những ý nghĩ u uất ấy ra khỏi đầu, trong lúc lái xe đến rừng thông. Lần này, tôi không dừng xe trước quán Dino, mà lái đến tận chòi canh ở cổng trường. Cứ nhìn vào dáng dấp của anh ta, thì người bảo vệ chắc hẳn là con trai của Pavel Fabianski. Chàng trai trẻ đang xem các video clip của Jerry Seinfeld trên điện thoại. Tôi không có thẻ, nhưng phỉnh anh ta bằng cách khẳng định rằng tôi đến giúp sức cho việc chuẩn bị ngày hội. Anh ta mở thanh chắn cho tôi mà không tìm hiểu gì thêm, và quay trở lại với cái màn hình. Tôi đi vào bên trong khuôn viên trường, và, sẵn sàng vi phạm các quy định, tôi lái xe đến đỗ ngay trên tấm bê tông lót đường trước mặt Agora.
Tôi đi vào bên trong tòa nhà, nhảy qua cánh cửa con và lao vào phòng chính. Tin tốt lành là Zélie không lảng vảng quanh đây. Một tấm áp phích nhỏ ghim vào chiếc bảng bằng gỗ bần nhắc nhở rằng các buổi tập của câu lạc bộ kịch mà bà làm giáo chủ vĩ đại sẽ diễn ra vào các ngày thứ Tư và chiều thứ Bảy.
Đằng sau quầy mượn sách, một cô gái trẻ đeo kính đang ngồi ở chỗ của Zélie. Ngồi vắt tréo chân trên chiếc ghế văn phòng, cô đang chìm đắm vào việc đọc bản tiếng Anh cuốn On Writing của Charles Bukowski. Cô có những đường nét mềm mại và mặc áo sơ mi màu xanh nước biển cổ cánh sen, quần soóc bằng vải tweet, quần tất thêu nổi và đi đôi giày tây pha hai màu.
“Xin chào, cô làm việc với Eline Bookmans?”
Cô ta ngước mắt khỏi cuốn sách và tươi cười nhìn tôi.
Một cách bản năng, tôi thích cô gái này. Tôi thích búi tóc gọn ghẽ tương phản với viên kim cương ở cánh mũi cô; những đường lượn được xăm vòng sau tai cô rồi chạy xuống và mất hút bên trong cổ áo sơ mi; chiếc cốc cô dùng để uống trà, có in dòng chữ Đọc sách là quyến rũ (Reading is sexy). Đây là điều hiếm khi xảy ra với tôi. Không thể so sánh với một tiếng sét ái tình, nhưng là thứ gì đó khiến tôi nói rằng người đang ở trước mặt tôi thuộc phe tôi chứ không phải phe của đối thủ, cũng không nằm trong vùng đất vô chủ (no man’s land) đầy chật những người không hề có điểm chung nào với tôi.
“Tôi tên là Pauline Delatour,” cô tự giới thiệu. “Anh là giáo viên mới à?”
“Không hẳn, tôi là…”
“Tôi đùa đấy, tôi biết anh là ai, Thomas Degalais ạ. Tất cả mọi người đều nhìn thấy anh ở đó sáng nay, trên quảng trường Cây Dẻ.”
“Tôi từng là học trò ở đây, rất lâu rồi, tôi giải thích. Có thể trước cả khi cô chào đời kia.”
“Cái này thì anh nói quá rồi, và nếu anh muốn dành cho tôi một lời khen, thì phải cố gắng nhiều hơn chút nữa.”
Pauline Delatour vừa cười vừa vén một lọn tóc ra sau rai, rồi hạ cái chân đang bắt tréo xuống và đứng dậy. Tôi nghĩ mình đã nắm bắt được rõ hơn điều gì khiến mình thích thú ở cô. Cô kết hợp những điều hiếm khi có thể đi cùng nhau: vẻ gợi cảm tự tin, nhưng không chút phô trương, một niềm vui sống thực sự và một vẻ đẳng cấp tự nhiên khiến ta có cảm giác rằng cho dù cô có làm gì, sự tầm thường cũng không thể xâm chiếm cô.
“Cô không phải người ở đây, đúng không?”
“Người ở đây?”
“Người miền Nam. Người vùng Côte d’Azur.”
“Không, tôi là người Paris. Tôi đến đây từ sáu tháng trước, khi công việc này được tạo ra.”
“Có lẽ cô có thể giúp tôi, Pauline ạ. Hồi tôi còn là học sinh ở đây, có một tờ báo của trường có tên là Chuyến thư miền Nam.”
“Hiện nay tờ báo vẫn còn.”
“Tôi muốn tra cứu các số báo lưu trữ.”
“Tôi sẽ mang cho anh. Anh quan tâm đến năm bao nhiêu?”
“Có lẽ là năm học 1992-1993. Sẽ rất tuyệt nếu cô có thể tìm giúp tôi cuốn niên giám (yearbook) của năm học đó.”
“Anh có tìm thứ gì đó đặc biệt không?”
“Thông tin về một nữ sinh từng học ở trường này: Vinca Rockwell.”
“Tất nhiên rồi, cô nàng Vinca Rockwell nổi tiếng… Thật khó mà không từng nghe nói đến cô ấy, ở đây.”
“Cô đang ám chỉ cuốn sách của Stéphane Pianelli mà Zélie tìm cách kiểm duyệt sao?”
“Chủ yếu là tôi ám chỉ những cô nàng con cưng mà ngày nào tôi cũng gặp, những người tưởng mình là người ủng hộ nữ quyền bởi vì họ đã đọc ba chương đầu của cuốn Chuyện người tùy nữ.”
“Nhóm Heterodites…”
“Họ cố giành lấy ký ức về cô gái ấy để biến cô ấy thành một hình mẫu biểu tượng chắc chắn chẳng giống gì với cô nàng Vinca Rockwell tội nghiệp kia hết.”
Pauline Delatour gõ ngón tay trên bàn phím máy tính và viết lại trên một tờ giấy nhắn thông tin liên quan đến các tài liệu mà tôi đã hỏi cô.
“Anh có thể tìm chỗ ngồi đi. Tôi sẽ mang báo ra cho anh ngay khi tìm thấy chúng.”
4.Tôi ngồi vào chỗ của mình trước kia: ở cuối phòng, nơi bức tường thụt vào, sát gần cửa sổ. Từ đây có thể nhìn ra một khoảnh sân vuông nhỏ hoàn toàn lỗi thời, với đài phun nước bị dây thường xuân trùm kín, và những phiến đá lát. Được bao bọc bởi một ban công bằng đá màu hồng, khoảnh sân này luôn khiến tôi nghĩ đến một tu viện. Chỉ cần thêm những bài thánh ca Gregoriano là ta có thể tiếp cận đời sống tâm linh rồi.
Tôi đặt lên bàn chiếc ba lô Eastpak màu lam ngọc đã lấy được ở nhà cha mẹ tôi, rồi lấy bút và đồ nghề ra, như thể sắp viết một bài văn nghị luận. Tôi cảm thấy dễ chịu. Ngay khi được bao bọc giữa những cuốn sách và chìm vào trong một bầu không khí liên quan đến học hành, là có điều gì đó dịu đi trong tôi. Tôi cảm nhận rõ, trong từng thớ thịt của mình, nỗi sợ hãi đang trở lui. Cách này hiệu quả chẳng khác gì thuốc Lexomil, nhưng rõ ràng là khó mang theo người hơn nhiều.
Tắm trong mùi sáp và mùi nến tan chảy, phần này của căn phòng – vốn có cái tên hoa mỹ là phòng văn chương – vẫn giữ được nét quyến rũ trước đây của nó. Tôi có cảm giác mình đang ở trong một ngôi đền. Những cuốn giáo trình văn học nằm phủ bụi trên giá. Đằng sau tôi, một tấm bản đồ học đường Vidal-Lablache cũ kỹ – nó đã lạc hậu từ khi tôi còn là học sinh – thể hiện thế giới vào những năm 1950, với những đất nước ngày nay đã biến mất: Cộng hòa Liên bang Xô viết, Cộng hòa Đông Đức, Nam Tư, Tiệp Khắc…
Hiệu ứng hoài niệm của Proust bắt đầu có tác dụng, những kỷ niệm trào dâng trong lòng tôi. Đây chính là nơi tôi có thói quen làm bài tập và ôn tập. Đây chính là nơi tôi đã viết truyện ngắn đầu tiên của mình. Tôi lần lượt nhớ lại những lời nói của cha tôi – Con sống trong một thế giới văn chương và lãng mạn, nhưng cuộc đời thực thì không phải như thế. Cuộc đời rất tàn nhẫn. Tồn tại là một cuộc chiến – rồi đến lời nhận xét của mẹ tôi: Con không có bạn bè, Thomas ạ. Bạn bè duy nhất của con là những cuốn sách.
Sự thật là thế, và tôi tự hào về điều ấy. Tôi vẫn luôn tin chắc rằng những cuốn sách đã cứu vớt tôi, nhưng liệu chuyện này có kéo dài suốt cuộc đời tôi không? Chắc hẳn là không. Chẳng phải đó chính là lời cảnh báo ngầm mà Jean-Christophe Graff đã gửi đến tôi trong bức thư của thầy đó sao? Đến một lúc nào đó, những cuốn sách đã lạnh lùng bỏ rơi thầy, và Graff đành lao mình xuống khoảng không. Để giải quyết vụ Vinca Rockwell, phải chăng tôi phải rời bỏ thế giới đầy che chở của những cuốn sách để vật lộn với cái thế giới tối tăm và bạo lực mà cha tôi đã nói đến?
Hãy tham chiến đi… một giọng nói bên trong tôi thì thầm.
“Báo và cuốn niên giám (yearbook) của anh đây!”
Giọng nói đầy tự tin của Pauline Delatour kéo tôi về với thực tại.
“Tôi có thể hỏi anh một câu không?” cô vừa hỏi vừa đặt lên mặt bàn một chồng Chuyến thư miền Nam cũ.
“Tôi thấy cô không có vẻ gì là kiểu người chờ được người khác cho phép cả.”
“Tại sao anh không bao giờ viết về vụ Vinca Rockwell?”
Cho dù tôi có làm gì, cho dù tôi có nói gì, thì người ta luôn kéo tôi về với những cuốn sách.
“À thì, bởi vì tôi là tiểu thuyết gia, không phải phóng viên.”
Cô vẫn hỏi thêm, “Anh hiểu rõ tôi muốn nói gì mà. Tại sao anh không bao giờ kể lại câu chuyện của Vinca?”
“Bởi vì đó là một câu chuyện buồn, mà tôi thì không chịu đựng nổi nỗi buồn.”
Phải nhiều hơn thế mới có thể khiến cô gái này nản lòng.
“Nhưng đó chính là đặc quyền của tiểu thuyết gia mà, không phải sao? Viết ra những điều hư cấu để thách thức thực tại. Không đơn giản là để sửa chữa thực tại, mà để chiến đấu với nó trên lãnh thổ của chính nó. Chẩn bệnh cho thực tại, để phủ nhận nó tốt hơn. Hiểu rõ nó để chống lại nó bằng một thế giới thay thế, với đầy đủ nhận thức.”
“Đoạn trường thoại nhỏ vừa rồi là của cô à?”
“Không, tất nhiên rồi, nó là của anh. Điều anh thường nhấn mạnh trong phân nửa những lần trả lời phỏng vấn… Nhưng áp dụng nó trong cuộc đời thực thì khó khăn hơn, đúng không?”
Và cô bỏ mặc tôi ở đó, sau những lời nói tốt đẹp vừa rồi, thỏa mãn về tác động cô đã gây ra cho tôi.