← Quay lại trang sách

Chương 12 Những cô gái-có mái tóc màu lửa

Cô bé tóc đỏ, mặc váy hở tay màu xám […]

Grenouille cúi xuống, uống cái mùi lúc này không trộn lẫn tỏa lên từ gáy, từ tóc, từ cổ áo của cô […]

Chưa bao giờ nó thoải mái như thế.(1)

Patrick SÜSKIND

1.

Những tờ Chuyến thư miền Nam trải ra trước mặt, tôi vội tìm số báo tháng Một năm 1993 có bài tường thuật về vũ hội cuối năm. Tôi đã hy vọng sẽ tìm thấy ở đó thật nhiều ảnh, nhưng đáng buồn thay, chỉ có vài bức đầy trịnh trọng tái hiện bầu không khí của vũ hội, và chẳng có bức nào giúp tôi nhận diện được người đàn ông mà tôi đang tìm kiếm.

Thất vọng, nhưng tôi vẫn tiếp tục lướt qua các số báo khác để đắm mình vào bầu không khí của thời kỳ đó. Tờ báo của trường là một mỏ vàng để có cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống học đường đầu những năm 1990. Tất cả các hoạt động đều được thông tin, rồi thuật lại chi tiết trên tờ báo. Tôi lật giở các trang báo một cách ngẫu nhiên, lục lọi thông qua những sự kiện tạo nên nhịp sống hằng ngày của ngôi trường: thành tích thể thao của các nhà vô địch của trường, chuyến đi của các lớp mười một đến San Francisco, chương trình hoạt động của câu lạc bộ điện ảnh (Hitchcock, Cassavetes, Pollack), những chuyện hậu trường của đài phát thanh trường, những bài thơ và bài văn của các thành viên câu lạc bộ sáng tác văn chương. Jean-Christophe Graff đã cho đăng truyện ngắn của tôi trên tờ báo này vào mùa xuân năm 1992. Tháng Chín năm ấy, câu lạc bộ kịch thông báo chương trình hoạt động của họ cho năm sau đó. Trong số các thành tích đạt được, có vở diễn chuyển thể rất phóng khoáng – chắc hẳn là do mẹ tôi viết, hồi ấy bà là người phụ trách câu lạc bộ kịch – của một số đoạn trong cuốn Mùi hương của Patrick Süskind. Với Vinca trong vai cô gái đường phố Marais và Fanny trong vai Laure Richis. Hai cô gái tóc hung và mắt xanh, thuần khiết, đầy cám dỗ, và nếu tôi nhớ không nhầm về cuốn tiểu thuyết này, thì cuối cùng họ đã bị Jean-Baptiste Grenouille sát hại. Tôi không có chút ký ức nào về việc mình có xem vở diễn đó hay không, cũng không hề nhớ về các phản ứng mà vở diễn đã gợi lên. Tôi mở cuốn sách của Pianelli để xem cậu ta có nhắc đến vở diễn đó trong vụ điều tra không.

Anh chàng phóng viên không hề đả động gì đến vở diễn, nhưng trong lúc lật giở các trang sách, tôi bắt gặp bức ảnh chụp lại những bức thư mà Alexis Clément đã gửi cho Vinca. Khi đọc lại những bức thư ấy lần thứ một trăm, tôi bỗng rùng mình ớn lạnh khắp người, và cảm thấy nỗi thất vọng giống hệt như tôi từng cảm thấy ở nhà Dalanegra. Cảm giác mình vừa lướt qua sự thật, nhưng lại để nó tuột mất ngay lập tức. Cần thiết lập mối liên hệ giữa nội dung bức thư và tính cách của Clément, nhưng một rào chắn trong tâm trí ngăn cản tôi làm việc đó. Một nút chặn tâm lý, như thể tôi sợ ‘sự trở lại của điều bị ức chế’(2) trong ý thức của tôi. Vấn đề chính là tôi: cảm giác tội lỗi, niềm tin chắc chắn bấy lâu nay rằng tôi là người phải chịu trách nhiệm về một thảm kịch mà tôi đã có thể tránh được nếu vẫn là gã trai khác biệt với những gã trai khác. Nhưng hồi ấy, mù quáng bởi nỗi đau khổ và thứ nhục dục tàn phá kia, tôi đã không nhận ra được sự điên rồ của Vinca.

Linh tính mách bảo, tôi lấy điện thoại ra và gọi cho cha.

“Ba ơi, ba có thể giúp con một việc được không?”

“Nói xem nào,” Richard càu nhàu.

“Con đã để một số đồ trên bàn bếp.”

“Ờ, đúng là một mớ lộn xộn kinh khủng!” Ông xác nhận.

“Trong đống giấy tờ ấy, có mấy bài luận triết học cũ, ba nhìn thấy không?”

“Không.”

“Ba thử tìm xem nào, con xin ba đấy. Hoặc đưa máy cho mẹ con.”

“Mẹ con còn chưa về. Thôi được, chờ chút, ba sẽ đi lấy kính.”

Tôi giải thích cho ông biết tôi muốn gì: ông dùng điện thoại di động chụp lại những lời phê mà Alexis Clément đã viết trên mấy bài luận của tôi, rồi gửi cho tôi qua tin nhắn. Chuyện đó lẽ ra chỉ mất khoảng hai phút, nhưng trên thực tế lại kéo dài hơn mười lăm phút, được tô điểm thêm bằng những suy nghĩ mang dấu ấn rõ rệt của sự nhã nhặn trứ danh của cha tôi. Ông giận dữ đến mức cuộc trò chuyện của chúng tôi kết thúc bằng lời nhận xét sau:

“Bốn mươi tuổi đầu mà anh không có việc gì khác để làm hay sao còn đi chúi mũi vào mấy năm học trung học? Tóm lại, cuộc đời của anh chỉ được cái nước đấy ư: suốt ngày quấy rầy chúng tôi bằng cách chọc ngoáy quá khứ chăng?”

“Cảm ơn ba, hẹn lát nữa gặp lại.”

Tôi tải những ý kiến nhận xét viết tay của Alexis Clement về rồi mở trên màn hình điện thoại. Giống như một số nhà văn hợm mình, ông thầy triết học đó rất thích thể hiện mình trong khi viết, nhưng thứ tôi quan tâm không phải suy nghĩ sâu kín của gã, mà là nét chữ. Tôi phóng to và nghiên cứu những nét đậm cũng như nét mảnh. Đó là lối viết lười biếng. Chữ gã không lít nhít như kiến bò như chữ bác sĩ trên đơn thuốc, nơi đôi khi ta phải băn khoăn mất nhiều giây để có thể hiểu được ý nghĩa của một từ hoặc một cụm cừ.

Trong lúc nghiên cứu các bức ảnh, tôi cảm thấy tim mình đập nhanh dần. Tôi so sánh chúng với những bức thư gửi cho Vinca và lời đề tặng trên tập thơ của Marina Tsvetaeva. Chẳng mấy chốc, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nếu nét chữ viết trong bức thư và nét chữ trong lời đề tặng giống hệt nhau, thì chúng lại không hề giống nét chữ trong những bài luận mà gã giáo viên triết học kia đã phê.

2.

Tôi cảm thấy mạch máu phập phồng trên khắp cơ thể. Alexis Clément không phải nhân tình của Vinca. Có một người đàn ông khác, một Alexis khác. Chắc hẳn là người có bóng dáng chập chờn chỉ xuất hiện phần lưng trên bức ảnh, người đã cùng Vinca bỏ đi vào buổi sáng Chủ nhật tồi tệ ấy. Chính Alexis đã ép tớ. Tớ không muốn ngủ với ông ấy. Lời nói của Vinca là đúng, nhưng tôi lại diễn giải sai. Tất cả mọi người, suốt hai mươi lăm năm nay, đều đã diễn giải sai. Vì một bức ảnh bị cắt xén và một lời đồn lan truyền trong đám học sinh, người ta đã gán cho Vinca mối quan hệ với một người đàn ông chưa bao giờ là tình nhân của cô.

Hai tai tôi ù đi. Những hệ lụy của phát hiện này nhiều đến nỗi tôi phải khó khăn lắm mới tập hợp hết được. Hệ lụy đầu tiên là bi thảm nhất: Maxime và tôi đã giết một người vô tội. Dường như tôi vẫn còn nghe thấy những tiếng la hét của Clément trong lúc tôi đập nát ngực và đầu gối anh ta. Qua những hình ảnh chớp nhoáng, tôi lại nhìn thấy cảnh tượng ấy rõ mồn một. Vẻ mặt ngơ ngác của gã thầy giáo khi tôi đánh anh ta bằng thanh sắt. Tại sao mày lại cưỡng ép cô ấy đồ khốn kiếp! Khuôn mặt anh ta biến dạng vì nỗi ngạc nhiên, lộ rõ là anh ta không hiểu gì cả. Anh ta không tự bào chữa chỉ đơn giản là vì anh ta chẳng biết mình đang bị tôi kết tội gì. Hồi ấy, trước vẻ kinh ngạc của anh ta, một giọng nói đã vang lên trong tôi. Một sức mạnh nhắc nhở đã khiến tôi buông rơi vũ khí. Thế rồi Maxime vào cuộc.

Nước mắt trào ra, tôi đưa hai tay lên ôm đầu. Alexis Clément chết do lỗi của tôi, và tôi chẳng bao giờ có thể làm gì để đưa anh ta trở về cuộc sống được nữa. Tôi lả đi đến cả chục phút như thế, trước khi có thể nghĩ đến chuyện tiếp theo. Tôi phân tích sự lầm lẫn của chính mình. Đúng là Vinca có một người tình tên Alexis. Chỉ có điều người đó không phải là thầy giáo triết học. Điều đó có vẻ thật khó tin. Quá tàn nhẫn để có thể là sự thật, tuy nhiên đó là cách giải thích khả dĩ duy nhất.

Nhưng thế thì người đó là ai? Sau khi ra sức nghĩ ngợi, tôi cũng mơ hồ nhớ đến một học sinh: Alexis Stephanopoulos hay một cái họ nào đó đại loại thế. Là một kiểu hình mẫu của người Hy Lạp giàu có: con trai một chủ tàu buôn, thường mời bạn bè đi cùng trong những chuyến du hành đường biển quanh quần đảo Cyclades, vào các kỳ nghỉ. Tóm lại là tôi không có trong đám bạn ấy.

Tôi vớ lấy cuốn niên giám (yearbook) của năm học 1992-1993 mà Pauline Delatour đã mang cho. Theo trào lưu Mỹ, cuốn sách này là một loại niên giám bằng hình ảnh, thống kê toàn bộ các học sinh và giáo viên đã học và làm việc tại trường trong năm học đó. Tôi bồn chồn lật giở các trang. Bởi vì họ tên được sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái, tôi tìm thấy gã trai người Hy Lạp ngay sau mấy trang đầu tiên. Antonopoulos (Alexis), sinh ngày 26 tháng Tư năm 1974 tại Salonique. Hình ảnh gã trong bức ảnh giống hệt như tôi vẫn nhớ: mái tóc xoăn dài ngang vai, chiếc áo sơ mi cộc tay màu trắng, áo thun màu xanh nước biển có phù hiệu. Bức chân dung giống như một mồi lửa làm cháy bùng trí nhớ của tôi.

Tôi nhớ đó là một trong những gã trai hiếm hoi ghi danh học lớp dự bị văn học. Một gã có dáng dấp khỏe khoắn, vô địch môn bơi xuồng hay đấu kiếm gì đó. Gã theo học ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp, không thông minh cho lắm, nhưng có khả năng đọc thuộc lòng những đoạn thơ của Sapho hoặc của Theocritus. Dưới bề ngoài hào nhoáng về văn hóa, Alexis Antonopoulos chỉ là một kẻ latin lover(3) hơi đần độn. Tôi thực sự thấy khó mà tin được Vinca lại chuốc lấy gã ấy làm nhân tình. Nhưng xét từ một khía cạnh khác, tôi không phải người phù hợp nhất để bình luận về vấn đề này.

Thế nếu như, vì một lý do nào đó mà tôi không giải thích nổi, gã người Hy Lạp đó lại nuôi mối thù với Maxime và tôi? Tôi tìm máy tính bảng trong ba lô, nhưng hóa ra tôi đã để nó trong chiếc xe thuê mà mẹ tôi vừa mượn. Tôi đành dùng điện thoại di động để tìm kiếm đôi chút. Tôi dễ dàng lần ra dấu vết của Alexis Antonopoulos trong một phóng sự ảnh của trang mạng Quan điểm đăng tải hồi tháng Sáu năm 2015, viết về lễ cưới của hoàng tử Thụy Điển Carl Philip. Cùng với người vợ thứ ba của gã, Antonopoulos nằm trong (5), chia sẻ thời gian giữa California và quần đảo Cyclades. Trang web của tạp chí Vanity Fair nhắc đến việc gã hầu như năm nào cũng có mặt tại amfAR gala(6). Được tổ chức nhằm thu hút tiền tài trợ để phục vụ các nghiên cứu trong lĩnh vực phòng chống AIDS, bữa tiệc này thường được tổ chức trong khoảng thời gian diễn ra Liên hoan Phim Cannes, giữa khung cảnh sang trọng của khách sạn Eden-Roc. Như vậy là Antonopoulos vẫn gắn bó với vùng Côte d’Azur, nhưng chẳng có điều gì cho phép tôi thiết lập một mối quan hệ có thể tồn tại giữa gã và chúng tôi.

Bởi vì không tiến triển được chút nào, tôi quyết định đổi hướng điều tra. Xét cho cùng, đâu là gốc rễ tất cả những nỗi day dứt của chúng tôi? Chính là mối đe dọa mà việc phá bỏ tòa nhà thể chất cũ, một việc đã được đưa vào chương trình, đang rập rình trên đầu chúng tôi. Thậm chí việc phá bỏ này còn được đưa vào khuôn khổ các công trình lớn sẽ khiến ngôi trường thay đổi hẳn, bằng việc xây dựng một tòa nhà mới bằng kính, một trung tâm thể thao siêu hiện đại có bể bơi theo tiêu chuẩn Olympic và một khu vườn bao bọc xung quanh khuôn viên.

Dự án tổng thể này là một con rắn biển – người ta đã nói về nó từ hai mươi năm trước – nhưng nó chưa từng được triển khai, bởi vì ngôi trường chưa bao giờ huy động được đủ nguồn tài chính khổng lồ cần thiết. Theo những gì tôi biết, phương thức đầu tư tài chính của trường đã có thay đổi sau vài thập kỷ. Hoàn toàn dựa vào nguồn vốn tư nhân khi thành lập, sau đó trường trung học Saint-Exupéry đã trở thành một cấu trúc hỗn hợp, tham gia một phần hoặc trọn vẹn vào khuôn khổ của nền Giáo dục quốc gia và nhận tiền trợ cấp của Vùng. Nhưng những năm vừa qua, một luồng gió phản kháng đã thổi qua Saint-Ex. Mong muốn giải phóng mạnh mẽ đã xâm chiếm nhiều tác nhân giáo dục khác nhau, nhằm giải thoát ngôi trường khỏi bộ máy hành chính quan liêu. Việc Hollande đắc cử tổng thống đã đẩy nhanh mọi việc. Mâu thuẫn với bộ máy hành chính đã dẫn đến một hình chức gần như ly khai. Ngôi trường đã lấy lại được sự tự chủ trước đây, nhưng lại mất đi nguồn tài chính công. Học phí đã tăng lên, nhưng theo tôi đó chỉ như muối bỏ bể nếu so với số tiền cần thiết để đầu tư cho các công trình theo dự kiến. Để tiến hành một dự án như thế này, chắc hẳn trường đã phải nhận một khoản tài trợ tư nhân khổng lồ. Tôi nhớ đến những lời phát biểu của bà hiệu trưởng sáng nay, trong nghi thức đặt viên đá đầu tiên. Bà đã cảm ơn các Mạnh Thường Quân hào hiệp, những người đã cho phép triển khai công trình tham vọng nhất của trường chúng ta từ trước tới nay, nhưng lại cẩn thận không nhắc đến cái tên nào. Đó chính là một hướng điều tra cần đào sâu thêm.

Tôi không tìm thấy gì trên mạng Internet. Ít ra là không có thứ gì có thể tiếp cận trực tiếp. Bóng tối hoàn toàn dầy đặc chế ngự trong câu chuyện liên quan đến nguồn vốn của các công trình. Nếu muốn tiến triển thêm, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc lôi Stéphane Pianelli trở lại sàn nhảy. Tôi soạn rồi gửi cho anh chàng phóng viên một tin nhắn tóm tắt những gì tôi đã phát hiện ra. Để tăng sức nặng cho lời lẽ của mình, tôi gửi cho cậu ta cả những bức ảnh chụp mẫu chữ viết. Chữ viết của Alexis Clément, trên mấy bài luận triết học của tôi, và mẫu chữ của người đàn ông bí ẩn trên những bức thư và lời đề tặng gửi cho Vinca.

Chỉ giây sau cậu ta đã gọi lại. Tôi nghe máy, trong lòng có đôi chút e sợ. Pianelli là một đối tác tập luyện (sparring-partner) xuất sắc, một đầu óc nhanh nhạy giúp ta mở rộng phạm vi suy nghĩ, nhưng trong hoàn cảnh của tôi lúc này, tôi như đang đi trên dây. Tôi phải nhả thông tin cho cậu ta, đồng thời tránh để những thông tin đó một ngày nào đó sẽ được dùng để chống lại chính tôi, Maxime hoặc Fanny.

3.

“Mẹ kiếp, thật điên rồ!” Pianelli hét lên, trong giọng nói có chút âm sắc Marseille. “Làm sao chúng ta có thể bỏ sót thứ này chứ?”

Anh chàng phóng viên gần như buộc phải hét lên để át tiếng ồn của đám đông trên khán đài vòng đua Monaco.

“Những lời chứng và lời đồn đều đi theo hướng đó,” tôi nói. “Ông bạn Angevin của cậu nói đúng: tất cả mọi người đều đã bị tiêm nhiễm sai hướng ngay từ đầu.”

Tôi nói tiếp, nhắc đến bức ảnh mà Dalanegra đã cắt xén và sự hiện diện của người đàn ông thứ hai trong bức ảnh.

“Chờ đã, cậu muốn nói rằng gã đó có lẽ cũng tên là Alexis?”

“Cậu hiểu đúng rồi đấy.”

Một khoảng im lặng kéo dài, chắc hẳn là Pianelli đang ra sức suy nghĩ, ở đầu dây đằng kia, dường như tôi có thể nghe thấy âm thanh những bánh xe đang xoay trong não bộ cậu ta. Cậu ta mất chưa đầy một phút để lần ra hướng điều tra giống tôi.

“Hồi ấy, ở Saint-Ex còn có một Alexis khác nữa,” cậu ta tuyên bố. “Một gã người Hy Lạp. Chúng ta suốt ngày chế giễu gã bằng cách gọi gã là Rastapopoulos, cậu nhớ không?”

“Alexis Antonopoulos.”

“Đúng rồi!”

“Tôi đã nghĩ đến gã,” tôi nói, “nhưng tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu đó là người chúng ta tìm đấy.”

“Sao lại không chứ?”

“Đó là một thằng gà mờ. Tôi không nghĩ Vinca lại quan hệ với gã được.”

“Lập luận đó hơi thiếu thuyết phục, không phải sao? Gã giàu, đẹp trai và thật đáng ngạc nhiên nếu các cô nàng ở tuổi mười tám lại chỉ đi chơi với những kẻ thông minh đấy… Cậu không nhớ chúng ta đã thèm nhỏ dãi ra đến mức nào sao?”

Tôi đổi chủ đề.

“Cậu có thông tin nào về nguồn tài chính đầu tư cho các công trình của trường trung học không?”

Âm thanh nền đột ngột giảm đi, như thể Pianelli đã trốn được vào một nơi cách âm.

“Từ vài năm nay, Saint-Ex hoạt động theo kiểu Mỹ: phí ghi danh cao ngất ngưởng, vài phụ huynh giàu có tài trợ tiền để được trưng tên trên các tòa nhà, và một số lượng ít ỏi các suất học bổng cấp cho những học sinh có hoàn cảnh khó khăn và xứng đáng, nhằm mục đích xoa dịu lương tâm.”

“Nhưng những công trình dự kiến xây đó sẽ tốn đến tiền triệu. Làm sao ban giám đốc huy động được một khoản lớn đến thế?”

“Tôi hình dung là họ đã vay mượn một phần. Thời điểm này, lãi suất ngân hàng đang thấp và…”

“Không khoản vay nào có thể bù đắp nổi khoản chi này, Stéphane ạ. Cậu không muốn đi sâu điều tra theo hướng đó sao?”

Nhận ra mình đang bị dẫn dắt, cậu ta né tránh. “Tôi không thấy chuyện này có liên quan gì đến vụ Vinca mất tích cả.”

“Hãy làm đi, xin cậu đấy. Tôi chỉ muốn kiểm tra một chuyện thôi.”

“Nếu cậu không cho tôi biết cậu đang tìm kiếm thứ gì, thì tôi sẽ điều tra chệch hướng mắt.”

“Tôi đang tìm hiểu xem liệu có cá nhân hoặc doanh nghiệp nào tài trợ một khoản kếch xù để xây dựng các tòa nhà mới, bể bơi và khu vườn hoa hay không.”

“OK, tôi sẽ bảo một nhân viên tập sự làm việc này.”

“Không, đừng để nhân viên tập sự làm! Đây là việc quan trọng và khó khăn. Hãy yêu cầu một tay thiện chiến.”

“Hãy tin tưởng vào tôi, chàng trai trẻ mà tôi đang nghĩ đến thính mũi chẳng khác gì giống chó chuyên đánh hơi nấm cú đâu. Và cậu ta không yêu quý gì cái băng đảng đang tìm cách chiếm lấy Saint-Ex hết.”

“Vậy là một anh chàng gần giống cậu…”

Pianelli khẽ cười rồi hỏi tôi, “Cậu mong chờ là ta sẽ tìm ra ai đứng sau vụ tài trợ này?”

“Tôi không biết nữa, Stéphane ạ. Và nhân đây, tôi có chuyện này muốn hỏi. Cậu nghĩ gì về cái chết của Francis Biancardini?”

4.

“Tôi nghĩ đó là một điều tốt đẹp, và rằng hành tinh này bớt đi một gã khốn.”

Câu nói dí dỏm đầy vẻ khiêu khích của cậu ta không khiến tôi buồn cười chút nào.

“Làm ơn trả lời tôi một cách nghiêm túc đi.”

“Chẳng phải chúng ta đang điều tra về Vinca sao? Cậu đang chơi trò gì vậy hả?”

“Tôi sẽ cho cậu biết tất cả các thông tin tôi có, hứa đấy. Hướng điều tra cho rằng đây là một vụ trộm xoay theo hướng tồi tệ, cậu có tin được không?”

“Tôi không còn tin nữa từ khi người ta tìm thấy bộ sưu tập đồng hồ của ông ta.”

Rõ ràng là Pianelli nắm rất rõ thông tin. Chắc hẳn cảnh sát trưởng Debruyne đã tiết lộ thông tin này với cậu ta.

“Thế thì sao nào?”

“Theo tôi, đó là một vụ thanh toán. Chỉ một mình Biancardini đã đại diện cho toàn bộ khối ung nhọt đang gặm nhấm dần vùng Côte d’Azur: đường dây lợi ích, tham nhũng chính trị, những mối quan hệ mờ ám với giới xã hội đen.”

Tôi lên tiếng bảo vệ Francis, “Cái này thì cậu đi chệch rồi. Những mối quan hệ của Biancardini với giới xã hội đen Calabria chỉ là tin vịt. Ngay cả công tố viên Debruyne cũng từng thất bại khi đối đầu với chuyện này.”

“Đúng thế, tôi biết rõ Yvan Debruyne và đã được tiếp cận một số hồ sơ của ông ấy.”

“Tôi vẫn luôn ngưỡng mộ chuyện đó: quan tòa tuồn thông tin cho cánh phóng viên. Đẹp đẽ biết bao, nghĩa vụ giữ bí mật của tòa án.”

“Đó là một việc khác cần bàn cãi,” cậu ta cắt lời tôi, “nhưng điều tôi có thể nói với cậu, đó là Francis đã ngập đến cổ rồi. Cậu có biết đám xã hội đen thuộc Ndrangheta(8) đặt biệt danh gì cho ông ta không? Whirlpool(9)! Bởi vì ông ta là người giám sát cái thùng giặt tẩy lớn trong đường dây rửa tiền đấy.”

“Nếu Debruyne đã có được những bằng chứng chắc chắn, thì Francis phải bị kết án rồi chứ.”

“Giá mà mọi việc chỉ đơn giản như thế…” cậu ta thở dài. “Dù sao đi nữa, tôi đã nhìn thấy những sao kê ngân hàng đáng ngờ, những khoản tiền đổ sang Mỹ, chính là nơi Ndrangheta đang tìm cách cài cắm chân rết từ nhiều năm nay.”

Tôi bẻ ghi cuộc trò chuyện sang một đường ray khác. “Maxime kể với tôi rằng cậu quấy rầy cậu ấy từ khi cậu ấy tuyên bố ý định làm chính trị. Tại sao cậu lại lôi toàn bộ hồ sơ cũ về bố cậu ấy ra? Cậu biết thừa là Maxime sạch sẽ và chúng ta không phải chịu trách nhiệm về hành động của bố mẹ mình mà.”

“Như thế thì dễ dàng quá!” anh chàng phóng viên vặc lại. “Thế cậu nghĩ Maxime lấy tiền ở đâu để thành lập cái doanh nghiệp nhỏ xinh thân thiện với môi trường và cái lò ấp khởi nghiệp của cậu ta? Cậu nghĩ cậu ta sẽ lấy tiền ở đâu để đầu tư cho chiến dịch tranh cử? Chính là số tiền bẩn thỉu mà lão Francis khốn kiếp kia đã kiếm được hồi những năm 1980. Con sâu đã nằm trong quả táo ngay từ đầu rồi, anh bạn ạ.”

“Vậy Maxime không có quyền làm bất cứ việc gì nữa chăng?”

“Đừng có giả vờ là cậu không hiểu gì, nghệ sĩ ạ.”

“Đó chính là điều mà tôi chưa từng thích ở những người như cậu, Stéphane ạ: sự cố chấp, thái độ quan tòa và sở thích dạy đời. Ủy ban cứu quốc phiên bản Robespierre(10).”

“Đó chính là điều mà tôi chưa từng thích ở những người như cậu, Thomas ạ: khả năng quên lãng những thứ quấy rầy họ, năng lực khiến họ lúc nào cũng tin mình chẳng phạm bất kỳ tội lỗi nào.”

Giọng nói của Pianelli càng lúc càng cay độc. Cuộc trò chuyện của chúng tôi vạch ra một ranh giới phân định rõ hai quan điểm về thế giới, hai quan điểm mà tôi cho rằng không thể nào dung hòa được. Lẽ ra tôi có thể đáp trả rằng cậu ta hãy cút đi, nhưng tôi cần cậu ta. Vậy nên tôi đành xuống nước:

“Để lần khác chúng ta sẽ nói chuyện này.”

“Tôi không hiểu tại sao cậu lại bảo vệ Francis.”

“Bởi vì tôi hiểu ông ấy hơn cậu. Mà này, nếu cậu muốn biết thêm thông tin về cái chết của ông ấy, tôi có thể cho cậu một đầu mối.”

“Cậu thực sự là có khiếu lật ngược tình huống đấy!”

“Cậu biết nữ phóng viên của tờ Người quan sát, Angélique Guibal, chứ?”

“Không, tôi chẳng biết ai có cái tên ấy cả.”

“Có vẻ như cô ta đã tiếp cận được bản báo cáo của cảnh sát. Theo những gì tôi đọc được, Francis đã lê lết trong vũng máu và cố gắng viết tên của kẻ sát hại ông ấy lên vách kính.”

“À ờ, tôi đã đọc bài báo ấy: toàn những chuyện ngu ngốc của mấy tờ báo Paris.”

“Tất nhiên rồi, ở vào thời đại toàn tin đểu (fake news) này, may mắn thay là vẫn còn tờ Nice Buổi sáng để nghề báo chí có thể rạng danh trở lại.”

“Chắc cậu đang đùa, nhưng cũng không hoàn toàn sai đâu.”

“Cậu không thể gọi cho Angélique Guibal để kiếm thêm vài thông tin bổ sung sao?”

“Cậu tưởng rằng cùng cánh phóng viên với nhau, chúng tôi sẽ nhượng lại đầu mối như thế sao? Cậu thì sao, cậu có làm bạn với tất cả các nhà văn trên địa bàn Paris không?”

Nhưng gã này đôi lúc mới dễ nổi cáu làm sao. Hết cách lập luận, tôi đành sử dụng đến một thủ đoạn tầm thường:

“Nếu cậu thực sự giỏi hơn các phóng viên Paris, thì hãy chứng tỏ cho tôi xem đi, Stéphane. Cố gắng lấy được bản báo cáo đó của cảnh sát đi.”

“Cái bẫy hơi thô đây! Cậu tưởng cậu lừa được tôi bằng cách đó sao?”

“Đó chính là điều tôi vẫn nghĩ đấy. Cậu chỉ được cái nói mồm. Tôi không biết là Olympique Marseille lại sợ Paris Saint-Germain cơ đấy. Với những cổ động viên như cậu, thì chúng ta thất bại đến nơi rồi.”

“Cậu nói linh tinh gì thế? Chẳng liên quan gì đến nhau cả.”

Cậu ta im lặng thêm vài giây nữa, rồi chấp nhận để cho cái bẫy thú vị của tôi sập vào chân mình.

“Tất nhiên là chúng tôi giỏi hơn đám người Paris,” cậu ta cáu kỉnh. “Tôi sẽ mang nó về cho cậu, cái bản báo cáo chết tiệt ấy. Chúng tôi không có tiền gửi về từ Qatar, nhưng chúng tôi thông minh hơn.”

Cuộc trò chuyện tiếp tục trong trạng thái lộn xộn dễ chịu và kết thúc bằng điều vẫn luôn kết nối chúng tôi, vượt lên trên mọi điều khác biệt. Năm 1993, Olympique Marseille đã mang về cho người hâm mộ chiếc cúp thực sự duy nhất của châu Âu. Chiếc cúp mà không bao giờ có ai tước đoạt được của chúng tôi.

5.

Tôi đứng dậy lấy một cốc cà phê ở chiếc máy bán hàng tự động kê trong góc phòng. Một cánh cửa nhỏ cho phép ta duỗi chân duỗi cẳng trong khoảnh sân. Đó chính là điều tôi đã làm, và khi ra đến bên ngoài, tôi đẩy chuyến đi dạo đến tận những tòa nhà đầy tính lịch sử: những phòng học mang cảm hứng gô-tích xây bằng gạch đỏ.

Theo một kiểu vi phạm đặc biệt, câu lạc bộ kịch vẫn luôn đặt trụ sở tại phần chái danh giá nhất của ngôi trường. Đi đến trước lối vào ở một bên, tôi gặp vài học sinh vừa đi xuống cầu thang vừa trò chuyện ồn ào. Đã 18 giờ. Mặt trời bắt đầu ngả bóng và giờ học vừa kết thúc. Tôi đi theo cầu thang dẫn đến một giảng đường nhỏ, từ đó bốc lên mùi gỗ và khói của thông bá hương và gỗ đàn hương. Giảng đường vắng ngắt. Khắp xung quanh, trong các khung ảnh, là những bức ảnh đen trắng – vẫn là những bức ảnh ấy từ hai mươi lăm năm nay, chụp các diễn viên xuất sắc nhất của chúng tôi – cũng như những tấm áp phích giới thiệu các vở diễn và bộ phim: Giấc mộng đêm hè,(12) Cuộc trao đổi(13), Sáu nhân vật đi tìm tác giả(14)… Câu lạc bộ kịch của trường Saint-Exupéry vẫn luôn theo chủ nghĩa tinh hoa và tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái giữa những bức tường này. Không phải ngày một ngày hai mà người ta dựng ở đây vở diễn Nhà giam người điên(15) hoặc Hoa xương rồng(16). Trong điều lệ đã nói rõ rằng câu lạc bộ chỉ nhận hai mươi thành viên. Hồi ấy, tôi không hề muốn tham gia, ngay cả khi mẹ tôi điều hành câu lạc bộ cùng với Zélie. Để giảm nhẹ điều lệ, Annabelle đã làm hết khả năng để mở rộng câu lạc bộ cho nhiều học sinh hơn, cũng như áp dụng tác phong bớt trì trệ hơn, nhưng thói quen vốn ăn sâu và không ai thực sự muốn rằng cái pháo đài của khiếu nghệ thuật và lối sống khép kín này biến thành phần nối dài của Def Comedy Jam(17).

Đột nhiên, cánh cửa mở ra sau bục diễn và Zélie xuất hiện trên sân khấu. Nói rằng bà không vui khi nhìn thấy tôi đã là giảm nhẹ đi rất nhiều rồi.

“Tại sao cậu lại la cà đến đây, hả Thomas?”

Tôi nhảy lên đứng bên cạnh bà trên tấm ván kê cao.

“Sự đón tiếp của cô thực sự khiến cháu cảm thấy ấm lòng đấy.”

Bà nhìn thẳng vào mắt tôi, không hề nao núng.

“Nơi này không còn là nhà cậu nữa. Cái thời ấy đã hết rồi.”

“Cháu chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ nơi nào là nhà cháu hết, thế nên…”

“Cậu khiến tôi muốn rớt nước mắt đấy.”

Vì vẫn đang rất mơ hồ về thứ mà mình tìm kiếm, tôi quăng ra lưỡi câu đầu tiên, một cách ngẫu nhiên:

“Cô vẫn thuộc thành phần hội đồng quản trị, đúng không?”

“Chuyện đó thì có liên quan gì đến cậu?” bà vừa trả lời vừa sắp xếp lại đồ đạc trong chiếc cặp táp bằng da.

“Nếu đúng thế, thì chắc hẳn cô phải biết ai là người đầu tư tiền cho mấy công trình xây dựng này. Cháu hình dung là người ta đã phải tiến hành việc cung cấp thông tin cho các thành viên, và tổ chức bỏ phiếu.”

Bà nhìn tôi với vẻ quan tâm trở lại.

“Một phần được chi trả bằng tiền vay,” bà cho tôi biết. “Đó chính là phần công việc đã được bỏ phiếu trong cuộc họp của hội đồng quản trị.”

“Thế phần còn lại?”

Bà nhún vai và kéo khóa cặp.

“Phần còn lại sẽ được bỏ phiếu vào thời gian thích hợp, nhưng đúng là tôi cũng không rõ ban giám đốc định lấy đâu ra số tiền ấy.”

Tôi đã ghi một điểm. Không có chút liên hệ nào, một câu hỏi khác lướt qua tâm trí tôi:

“Cô còn nhớ thầy Jean-Christophe Graff không?”

“Tất nhiên là nhớ. Ông ấy là một thầy giáo giỏi,” bà thừa nhận. “Một con người mong manh, nhưng là người tốt.”

Đôi khi, Zélie không phải chỉ biết nói những điều dại dột.

“Cô có biết tại sao thầy ấy tự sát không?”

Bà đẩy tôi vào thế bí. “Cậu vẫn tưởng rằng chỉ có một câu trả lời duy nhất hợp lý để giải thích tại sao mọi người lại tự tìm đến cái chết sao?”

“Trước khi chết, thầy Jean-Christophe đã viết cho cháu một bức thư. Thầy ấy tiết lộ là mình yêu một người phụ nữ, nhưng tình yêu ấy không được đáp lại.”

“Yêu mà không được yêu đáp lại, đó là số phận của rất nhiều người.”

“Có nói nghiêm túc đi, cháu xin cô đấy.”

“Thật đáng buồn là tôi đang rất nghiêm túc đây.”

“Hồi ấy, cô có biết chuyện không?”

“Có, Jean-Christophe đã kể với tôi về chuyện ấy.”

Vì một lý do nào đó mà tôi không biết, thầy Graff, quân sư của tôi, con người tinh tế và độ lượng nhất mà tôi từng gặp, lại ưa thích Zélie Bookmans.

“Người phụ nữ ấy, cô có biết người ấy không?”

“Có.”

“Người ấy là ai?”

“Cậu đang làm phiền tôi đấy.”

“Đây là lần thứ hai có người nói với cháu câu ấy trong ngày hôm nay.”

“Và theo tôi, đấy không phải lần cuối cùng đâu.”

“Người phụ nữ ấy là ai vậy?”

“Nếu Jean-Christophe không nói với cậu, thì tôi cũng không phải người làm việc đó,” bà thở dài.

Bà nói không sai, và câu nói của bà khiến tôi cảm thấy buồn. Nhưng tôi biết nguyên nhân của họ.

“Thầy ấy không nói với cháu là vì thầy ấy ngượng…”

“Thế thì hãy tôn trọng sự ngượng nghịu của thầy ấy.”

“Cháu cho cô ba cái tên và cô cho cháu biết cháu có nhầm không, được chứ?”

“Chúng ta sẽ không chơi trò đó. Đừng có phá hỏng ký ức về những người đã chết.”

Nhưng tôi hiểu về Zélie đủ để biết rằng bà sẽ không thể cưỡng lại trò chơi xấu xa này. Bởi vì, trong vài giây, bà thủ thư này có thể sẽ có đôi chút quyền lực đối với tôi.

Quả đúng là như thế. Trong lúc khoác lên người chiếc áo vest bằng nhung tăm, bà đổi ý:

“Nếu cậu phải đưa ra một cái tên, cậu sẽ bắt đầu bằng người nào?”

Cái tên đầu tiên đã sẵn sàng. “Không phải là mẹ cháu đấy chứ?”

“Không! Cậu lôi đâu ra ý nghĩ đó thế?”

Bà bước xuống mấy bậc thang dẫn xuống từ cái bục.

“Là cô đúng không?”

Bà cười gằn. “Tôi cũng muốn như thế lắm, nhưng không phải.”

Bà đi qua giảng đường, đến tận cửa ra vào.

“Khi nào ra khỏi đây thì cậu đóng sập cửa lại, được không?” bà lên tiếng nói với tôi từ xa.

Một nụ cười nham hiểm làm khuôn mặt bà sáng lên. Tôi chỉ còn một cơ hội cuối cùng:

“Là Vinca đúng không?”

“Sai rồi. Tạm biệt (Bye, bye), Thomas!” bà vừa thốt lên vừa rời khỏi giảng đường.

6.

Tôi còn lại một mình trên bục, trước mặt một cử tọa không tồn tại. Bên cạnh tấm bảng đen, cánh cửa vẫn để mở. Tôi lờ mờ nhớ đến căn phòng mà hồi ấy đôi khi chúng tôi gọi là kho đồ thánh. Tôi đẩy cánh cửa để rồi nhận ra chẳng có gì thay đổi cả. Đó là một căn phòng trần thấp nhưng khá rộng, được dùng cho gần như mọi mục đích: hậu trường các buổi tập, nơi cất giữ trang phục, trang thiết bị và đạo cụ, cũng là nơi cất giữ các tài liệu lưu trữ của câu lạc bộ kịch.

Quả đúng là ở cuối phòng có những cái giá bằng kim loại chất đầy những hồ sơ và hộp các tông. Mỗi hộp dùng cho một năm học. Tôi lần ngược thời gian đến tận năm 1992-1993. Ở bên trong, những tờ rơi, những tấm áp phích và một cuốn sổ to, kiểu sổ moleskine, ghi lại số tiền bán vé của các buổi diễn khác nhau, những đơn đặt hàng, hoạt động bảo trì giảng đường cũng như việc quản lý đạo cụ.

Tất cả đều được ghi chép, lập danh sách cẩn thận, không phải bằng kiểu chữ nhỏ li ti và sin sít của mẹ tôi, mà bằng kiểu chữ dày hơn nhiều, tròn trịa và mảnh, của Zélie Bookmans. Tôi cầm cuốn sổ lên và giơ nó lại gần ô cửa sổ duy nhất để xem lướt bảng kê đạo cụ. Lần đầu tiên, chẳng có gì đập vào mắt tôi, nhưng lần đọc thứ hai đã cảnh báo tôi về một điều gì đó: vào đợt kiểm kê mùa xuân, ngày 27 tháng Ba năm 1993, Zélie đã viết:

Không tìm thấy một bộ tóc giả màu hung.

Tôi tự coi mình là luật sư của quỷ – thông tin nay chẳng chứng tỏ được điều gì, đạo cụ hư hỏng rất nhanh, chắc chắn không hiếm khi một bộ trang phục hoặc một phụ kiện nào đó biến mất. Nhưng biết đâu đấy. Tôi có cảm giác là phát hiện này giúp tôi tiến thêm một bước nữa về phía sự thật. Nhưng là một sự thật vừa cay đắng vừa tăm tối, và tôi đang đi giật lùi về phía nó.

Tôi đóng cửa và rời khỏi giảng đường để quay trở lại thư viện. Tôi thu dọn đồ đạc bỏ vào ba lô rồi quay ra cửa, nơi có quầy cho mượn sách.

Mắt nai ngơ ngác, nụ cười hơi quá mức, mái tóc cố tình hất ra sau lưng. Trước mặt tôi, cách tôi chừng chục mét, Pauline Delatour đang giơ bài quyến rũ với hai học sinh lớp dự bị. Hai cậu chàng cao lớn lực lưỡng tóc vàng, và cứ nhìn trang phục, lời nói cũng như mồ hôi trên thân thể, thì hai cậu vừa có một trận đấu quần vợt kịch liệt.

“Cảm ơn cô đã giúp, tôi vừa nói vừa trả lại cho Pauline các số Chuyển thư miền Nam.”

“Rất vui vì được giúp anh, Thomas ạ.”

“Tôi có thể giữ cuốn niên giám (yearbook) được không?”

“Được thôi, tôi sẽ thu xếp với Zélie, nhưng anh nhớ trả nó cho tôi đấy.”

“Một việc cuối cùng. Trong chỗ báo này thiếu mất một số: số tháng Mười năm 1992.”

“Đúng rồi, tôi cũng đã nhận thấy thế. Số báo đó không có ở chỗ của nó. Tôi đã tìm xem có phải nó bị rơi ra sau giá không, nhưng không tìm thấy.”

Hai cậu chàng vận động viên quần vợt nhìn tôi bằng ánh mắt khó chịu. Chúng sốt ruột muốn tôi rời đi. Sốt ruột muốn tôi trả lại cho chúng sự quan tâm đầy gợi cảm của Pauline.

“Không sao đâu, tôi nói.”

Tôi đã quay người đi thì cô chộp ống tay áo tôi kéo lại.

“Chờ đã! Nhà trường đã số hóa tất cả các bản lưu trữ của Chuyến thư miền Nam vào năm 2012.”

“Thế cô có thể tìm lại số báo đó không?”

Cô kéo tôi đi cùng về phía bàn làm việc, trong khi đó, bực bội vì bị lu mờ, hai cậu chàng vận động viên liền bỏ đi.

“Thậm chí tôi sẽ in cho anh một bản.”

“Tuyệt vời. Cảm ơn cô.”

Có bấm lệnh in, máy chạy mất chưa đầy một phút, rồi cô cẩn thận kẹp mấy tờ giấy lại trước khi đưa cả tập cho tôi. Nhưng tôi vừa đưa tay ra để cầm lấy, thì cô đột ngột giằng lại.

“Thứ này cũng đáng giá một lời mời ăn tối chứ, đúng không?”

Và thế là điểm yếu của Pauline Delatour đã bị lộ: việc quyến rũ thường xuyên và vô tội vạ hẳn là khiến cô cảm thấy bất an, và đòi hỏi cô phải có một nghị lực kinh khủng.

“Tôi nghĩ cô không cần đến tôi thì cũng có người mời đi ăn tối.”

“Tôi cho anh số điện thoại di động của tôi nhé?”

“Không, tôi chỉ muốn tờ báo mà cô đã tốt bụng in ra giúp tôi thôi.”

Vừa tiếp tục mỉm cười, cô vừa viết số điện thoại của mình lên tập bản in.

“Cô muốn tôi làm gì với nó, Pauline?”

Cô trả lời như một lẽ đương nhiên. “Anh thích tôi, tôi thích anh, khởi đầu thế là được rồi, phải không?”

“Mọi chuyện không diễn ra như thế.”

“Mọi chuyện vẫn diễn ra như thế từ nhiều thế kỷ rồi.”

Tôi quyết định không tiếp tục tranh cãi nữa. Tôi chỉ đưa tay ra, và rốt cuộc cô cũng đầu hàng, đưa cho tôi bản in tờ báo trên đó có ghi số điện thoại của cô. Tôi tưởng mình đã có thể yên ổn đi khỏi đó, nhưng cô không cưỡng nổi ý muốn tặng cho tôi một lời lăng mạ.

“Đồ khốn kiếp, cút đi!”

Hôm nay quả là một ngày hội đối với tôi. Tôi chờ đến lúc vào trong xe rồi mới lật xem tờ báo. Trang báo khiến tôi quan tâm là trang đăng bài tường thuật về vở diễn chuyển thể từ cuốn Mùi hương. Do các học sinh chấp bút, bài báo nói đến một vở diễn để lại nhiều cảm xúc, nhờ diễn xuất đầy nhiệt huyết của hai nữ diễn viên. Nhưng tôi chủ yếu tập trung xem các bức ảnh chụp buổi tối hôm đó. Trên bức ảnh lớn nhất, ta thấy Vinca và Fanny đang mặt đối mặt. Hai cô gái có mái tóc màu lửa. Gần giống như chị em sinh đôi. Tôi nghĩ đến Vertigo của Hitchcock và cặp đôi Madeleine Elster và Judy Barton: hai khuôn mặt của cùng một người phụ nữ.

Trên sân khấu, nếu Vinca vẫn trung thành với chính bản thân mình, thì Fanny đã biến đổi hoàn toàn. Tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa tôi và cô lúc đầu giờ chiều. Một chi tiết trở lại trong trí nhớ tôi, và tôi đoán là còn lâu mới có chuyện cô đã kể hết với tôi.

Chú Thích:

Theo Mùi hương, bản dịch Lê Chu Cầu, Nhã Nam & NXB Văn học.

Một thuật ngữ phân tâm học do Sigmund Freud đưa ra, dùng để chỉ sự trở về, một cách vô thức, của những nội dung tâm lý bị ức chế, vì không thể thú nhận hoặc không thể dung hòa được. Theo Freud, sự trở về của điều bị ức chế thể hiện qua các giấc mơ, những hành động lầm lẫn, hoặc qua các biểu hiện của bệnh tâm thần.

Người yêu La tinh – tiếng Anh trong nguyên bản.

Có ý nhắc đến lời đề tặng của Stendhal trong cuốn Tu viện thành Parme.

Người đi chu du khắp thế giới – tiếng Anh trong nguyên bản.

Sự kiện thường niên do Quỹ hỗ trợ các nghiên cứu phòng chống AIDS trụ sở chính đặt tại thành phố New York.

Giới xã hội đen vùng Calabria.

Xoáy nước – tiếng Anh trong nguyên bản. (Thực sự ở đây Whirlpool là tên một thương hiệu máy giặt nổi tiếng ở Mỹ.)

Một trong những nhà lãnh đạo của Cách mạng Pháp năm 1789.

Kịch của William Shakespeare.

Kịch của Paul Claudel.

Kịch của Luigi Pirandello.

Kịch của Jean Poiret.

Kịch của Pierre Barrilet và Jean-Pierre Gredy.

Chương trình truyền hình Mỹ.