← Quay lại trang sách

CÔ GÁI và THẦN CHẾT Chương 13 Quảng trường Thảm họa

Có những khoảnh khắc trong sự thật không hề có cả nhan sắc lẫn lòng tốt.

Anthony BURGESS

1.

19 giờ.

Tôi rời khỏi trường trung học để ghé qua bệnh viện Fontonne một lần nữa. Lần này, tránh xa quầy tiếp đón, tôi lên thẳng khoa tim mạch. Vừa ra khỏi thang máy, tôi gặp ngay một nữ y tá mặc bộ quần áo blu màu hồng, cô ta hỏi tôi:

“Anh chính là con của bà Annabelle Degalais!”

Làn da đen như gỗ mun, mái tóc tết có ánh sắc vàng, nụ cười rạng rỡ: cô gái trẻ này tỏa ra một thứ ánh sáng vui vẻ trong khung cảnh ảm đạm của bệnh viện. Cô có dáng vẻ của Lauryn Hill thời kỳ hát Killing Me Softly.

“Tôi tên là Sophia. Tôi rất thân quen với mẹ anh. Lần nào đến gặp chúng tôi, bà cũng kể về anh đấy!”

“Hẳn là cô nhầm tôi với anh trai tôi, anh Jérôme. Anh ấy làm việc cho tổ chức Bác sĩ không biên giới.”

Tôi đã quen với những lời tán tụng mà mẹ tôi dành cho con trai lớn của bà, và cũng không nghi ngờ gì về việc anh Jérôme xứng đáng với những lời tán tụng ấy. Dù thế nào, ta cũng không thể nào đấu ngang cơ với một ai đó đang hằng ngày cứu sống nhiều mạng người trong những đất nước bị chiến tranh hoặc thiên tai tàn phá.

“Không, không đâu, người mà bà kể với chúng tôi chính là anh: nhà văn. Thậm chí anh còn ký tặng tôi một trong những cuốn tiểu thuyết của anh, thông qua trung gian là mẹ anh.”

“Thế thì ngạc nhiên thật đấy.”

Nhưng Sophia vẫn bám riết không chịu nhả. “Tôi để cuốn sách đó trong phòng nghỉ của y tá! Anh vào thử xem, ở ngay cạnh đây thôi.”

Bởi vì cô ta vừa khơi dậy sự tò mò trong tôi, tôi liền theo cô ta đến đầu hành lang, bước vào một căn phòng trải dài. Ở đó, cô ta đưa cho tôi cuốn Vài ngày bên em, tiểu thuyết mới nhất của tôi. Quả đúng là trên đó có lời đề tặng: Tặng Sophia, hy vọng rằng câu chuyện này sẽ khiến cô thích thú và suy nghĩ. Chân thành, Thomas Degalais. Chỉ có điều đó không phải chữ của tôi, mà là chữ của mẹ tôi! Một hình ảnh siêu thực lướt qua tâm trí tôi: mẹ đang bắt chước chữ ký của tôi để trả lời các câu hỏi mà độc giả dành cho tôi.

“Và tôi có ký tặng nhiều sách như thế này không?”

“Chừng chục cuốn, ở bệnh viện này có nhiều người đọc sách của anh lắm.”

Thái độ đó khiến tôi bối rối. Tôi đã bỏ sót điều gì đó.

“Mẹ tôi, bà ấy điều trị ở đây lâu chưa?”

“Từ Giáng sinh năm ngoái, chắc thế. Lần đầu tiên tôi điều trị cho bà là trong phiên trực đêm giao thừa. Bà lên cơn đau tim đúng lúc nửa đêm.”

Tôi ghi thông tin đó vào một góc trong đầu.

“Tôi đến gặp Fanny Brahimi.”

“Bác sĩ vừa đi rồi,” Sophia trả lời tôi. “Anh muốn nói chuyện với bác sĩ về mẹ anh sao?”

“Hoàn toàn không phải vậy, Fanny là bạn cũ của tôi, chúng tôi học cùng nhau suốt, kể từ hồi tiểu học.”

Sophia gật đầu.

“Vâng, bác sĩ đã cho tôi biết chuyện đó khi gửi gắm mẹ anh cho tôi. Thật đáng tiếc, suýt thì anh đã gặp được bác sĩ rồi.”

“Tôi phải gặp cô ấy, chuyện này rất quan trọng, cô có số điện thoại di động của cô ấy chứ?”

Sophia lưỡng lự một lát, rồi nở nụ cười tiếc nuối. “Tôi không có quyền cho anh số điện thoại của bác sĩ, thật đấy. Nhưng nếu là anh, tôi sẽ vòng qua làng Biot…”

“Vì sao?”

“Hôm nay là tối thứ Bảy. Chị ấy thường ăn tối trên quảng trường Arcades, cùng với bác sĩ Sénéca.”

“Thierry Sénéca? Nhà nghiên cứu sinh vật học sao?”

“Vâng.”

Tôi vẫn còn nhớ anh ta: một học sinh lớp cuối cấp phân ban khoa học, nhập học ở Saint-Ex trước chúng tôi một hoặc hai năm gì đó. Anh ta đã mở một phòng thí nghiệm phân tích y tế ở Biot 3000, khu kinh tế nằm dưới chân làng. Đặc biệt, đó chính là nơi cha mẹ tôi thường lấy máu và làm các xét nghiệm.

“Vậy ra Sénéca là bạn trai của Fanny?” tôi hỏi.

“Có thể nói như vậy,” cô nàng y tá gật đầu, hơi có chút ngượng ngùng, chắc hẳn vừa nhận ra mình đã ba hoa quá mức.

“OK, cảm ơn cô.”

Tôi đã đi đến đầu kia hành lang thì Sophia hỏi với theo, đầy tử tế, “Cuốn tiểu thuyết sắp tới khi nào ra vậy?”

Tôi giả vờ không nghe thấy và chui vào thang máy. Thông thường, câu hỏi này sẽ khiến tôi thích thú, giống như một cái nháy mắt mà các độc giả gửi đến tôi. Nhưng khi cánh cửa thang máy đóng lại, tôi nhận ra rằng có lẽ sẽ không có cuốn tiểu thuyết nào sắp ra. Thứ Hai này, người ta sẽ tìm thấy cái xác của Alexis Clément và sẽ tống giam tôi trong vòng mười lăm hoặc hai mươi năm. Đồng thời với việc mất tự do, tôi còn mất luôn hoạt động duy nhất khiến tôi cảm thấy mình còn sống. Để trốn chạy khỏi những ý nghĩ dằn vặt đó, tôi kiểm tra điện thoại di động, như một cái máy. Có một cuộc gọi nhỡ của cha tôi – người chưa bao giờ gọi điện thoại cho tôi – và một tin nhắn của Pauline Delatour, tôi không biết cô nàng đã xoay xở thế nào để có được số điện thoại của tôi: ‘Tôi rất tiếc về chuyện vừa rồi. Tôi không biết mình bị làm sao nữa. Đôi khi tôi làm những việc rất ngu ngốc. P/S: Tôi đã tìm ra một cái tựa cho cuốn sách mà rốt cuộc anh sẽ viết về Vinca: Cô gái và Màn đêm.’

2.

Tôi vào lại trong xe và nhắm thẳng hướng làng Biot mà lái. Phải khó khăn lắm tôi mới tập trung nhìn đường được. Toàn bộ sự chú ý của tôi đã bị bức ảnh mà tôi tìm thấy trong tờ báo của trường xâm chiếm. Đội một bộ tóc giả, Fanny – người vẫn luôn có mái tóc màu vàng – giống Vinca đến mức choáng váng. Không phải chỉ màu tóc, mà cả dáng dấp, biểu cảm trên khuôn mặt, cách ngẩng đầu. Hình ảnh giống nhau như chị em sinh đôi đó khiến tôi nghĩ đến những bài tập ứng tác mà mẹ tôi thường đưa ra cho các học sinh trong câu lạc bộ kịch. Những đoạn tình huống thật và sinh động mà đám thanh niên rất thích thú. Hoạt động đó yêu cầu đóng vai nhiều nhân vật liên tiếp mà ta gặp trên đường phố, tại một điểm dừng xe buýt, trong một viện bảo tàng. Mọi người gọi đó là trò tắc kè đổi màu, và Fanny luôn đóng đạt xuất sắc.

Một điều phỏng đoán dần hình thành trong đầu tôi. Thế nếu Fanny và Vinca đổi vị trí cho nhau thì sao? Thế nếu vào sáng cái ngày Chủ nhật chết tiệt ấy, chính Fanny là người đã đi tàu đến Paris thì sao? Có thể chuyện ấy nghe kỳ cục, nhưng không phải là không thể. Tôi vẫn còn nhớ những lời chứng mà tất cả những người tìm cách điều tra vụ việc đã thu thập được. Chính xác thì họ đã nói gì, từ người bảo vệ trường, mấy gã trên đường, các hành khách trên chuyến tàu cao tốc đi Paris cho đến người trực đêm ở khách sạn? Họ nói rằng họ đã gặp một cô gái trẻ tóc hung, một cô gái tóc hung xinh đẹp, một cô gái có đôi mắt xanh nhạt và mái tóc màu gỉ sắt. Những lời miêu tả đủ độ mơ hồ để trùng khớp với giả thuyết của tôi. Có thể cuối cùng tôi cũng đã nắm bắt được nó, cái hướng điều tra mà tôi tìm kiếm suốt chừng ấy năm qua! Một khả năng hợp lý rằng Vinca vẫn còn sống. Trong suốt chuyến đi, tôi thầm nhắc đi nhắc lại kịch bản đó để khiến nó có vẻ là một hiện thực. Vì một lý do nào đó mà tôi không biết, Fanny đã che giấu cho vụ bỏ trốn của Vinca. Mọi người đều tìm kiếm Vinca ở Paris, nhưng có thể cô chưa từng lên chuyến tàu đó.

Tôi đến cổng làng Biot khi mặt trời chiếu rọi nốt những tia nắng cuối cùng. Bãi đỗ xe công cộng đã kín chỗ. Đèn cảnh báo bật sáng, vô số những chiếc xe đứng làn đôi đang chờ những chiếc khác rời đi. Sau khi đã đi hai vòng làng mà không tìm được chỗ đỗ xe, tôi đành kiên nhẫn cho xe lướt dọc con đường Bachettes chạy sâu về phía Combes. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy một chỗ đỗ cách đó chừng tám trăm mét, đằng trước sân tennis. Tôi giải thoát bản thân khỏi chiếc xe rồi dồn sức chạy ngược lên: một sườn dốc hai mươi độ như muốn bẻ gãy chân ta và khiến ta hụt hơi. Tôi gần như đã đến cuối chặng khổ hình thì nhận được cuộc gọi tiếp theo của cha tôi.

“Ba thấy lo quá, Thomas ạ. Mẹ con vẫn chưa về. Chuyện này thật không bình thường. Bà ấy chỉ đi mua vài thứ thôi mà.”

“Con cho là ba đã gọi cho mẹ rồi chứ?”

“Tệ một điều là mẹ con đã để điện thoại ở nhà. Ba có thể làm gì bây giờ?”

“Con chịu thôi, ba ạ. Ba có chắc là mình không lo lắng vô ích không?”

Tôi càng ngạc nhiên hơn trước phản ứng của ông, bởi vì mẹ tôi dành cả cuộc đời để du ngoạn hoặc di chuyển. Vào đầu những năm 2000, bà đã gia nhập một tổ chức phi chính phủ liên quan đến việc đi học của các bé gái ở châu Phi và thường xuyên vắng nhà, nhưng chuyện đó dường như chẳng hề khiến cha tôi khó chịu bao giờ.

“Không đâu,” Richard trả lời. “Chúng ta đang có khách và mẹ con sẽ không bao giờ bỏ bom ba như thế này.”

Tôi sợ phải hiểu chuyện đó. Richard rên rỉ vì vợ ông không có ở nhà để chăm lo công việc nội trợ, thế đấy!

“Nếu ba thực sự lo lắng, hãy bắt đầu bằng việc gọi đến các bệnh viện!”

“Được rồi,” cha tôi làu nhàu.

Khi ngắt máy, tôi rốt cuộc cũng lên đến lối vào khu vực dành cho người đi bộ. Ngôi làng còn nên thơ hơn cả trong ký ức của tôi. Mặc dù vẫn còn lại vài dấu vết sự thống trị xưa kia của các hiệp sĩ dòng Đền, nhưng chủ yếu là dân cư đến từ phía Bắc nước Ý đã tạo nên kiến trúc của làng Biot. Vào giờ này trong ngày, sắc đỏ son và gỉ đồng trên các mặt tiền sưởi ấm cho các con phố nhỏ lát đá, khiến du khách có cảm giác mình đang đi dạo trong một thành phố nhỏ ở Savone hoặc ở Gênes.

Hai bên đường phố chính san sát các cửa hàng bay bán những sản phẩm muôn thuở của vùng Provence (xà phòng, nước hoa, các đồ thủ công mỹ nghệ bằng gỗ ô liu), cũng như các xưởng nghệ thuật giới thiệu tác phẩm của các thợ thủy tinh, họa sĩ và nghệ nhân tạc tượng địa phương. Trước hàng hiên một quầy rượu vang, một phụ nữ trẻ trang bị một chiếc đàn ghi ta đang hoan hỉ sát hại vốn liếng tiết mục của ban nhạc Cranberries, nhưng những người xung quanh, những người đang vừa gõ nhịp vừa vỗ tay, bổ sung vào không khí vui vẻ thoải mái cho khoảng thời gian sẩm tối này.

Tuy nhiên, trong tâm trí tôi, Biot vẫn gắn liền với một kỷ niệm rất đặc biệt. Năm học lớp sáu, tôi đã thực hiện bài thuyết trình đầu tiên trong đời học sinh về một câu chuyện xảy ra tại địa phương, câu chuyện vẫn luôn khiến tôi say mê. Vào cuối thế kỷ 19, không vì lý do gì rõ ràng, một tòa nhà lớn nằm trên một trong những con phố của làng đột nhiên đổ sụp. Thảm họa xảy ra vào buổi tối, lúc cư dân trong tòa nhà đang quây quần để ăn mừng lễ ban thánh thể lần đầu tiên cho một đứa trẻ. Trong vòng vài giây, những con người bất hạnh ấy bị nghiền nát và chôn vùi. Những người cứu hộ đã lôi ra được chừng ba chục cái xác từ trong đống đổ nát. Thảm kịch đó đã in hằn lên tâm trí mọi người trong một thời gian dài, và hơn một thế kỷ sau, chấn thương vẫn còn rõ rệt bởi vì không ai dám dựng lại nhà trên đống đổ nát đó. Bị kiên quyết bỏ trống từ thuở ấy, ngày nay nơi này mang tên là quảng trường Thảm họa.

Khi đến quảng trường Arcades, tôi ngạc nhiên thấy nó vẫn giống hệt như khi tôi rời đi hai mươi lăm năm trước. Quảng trường trải dài đến tận nhà thờ Sainte-Marie-Madeleine, được bao bọc bởi hai hành lang có mái vòm, bên trên là những tòa nhà hai hoặc ba tầng màu sắc rực rỡ.

Tôi không mất nhiều thời gian để tìm Thierry Sénéca.

Ngồi ở một bàn trong quán cà phê Les Arcades, anh ta giơ tay vẫy tôi, như thể chính tôi mới là người anh ta đang đợi, chứ không phải Fanny. Mái tóc màu nâu cắt ngắn, cái mũi cân đối, bộ râu tỉa tót cẩn thận, Sénéca không thay đổi nhiều lắm. Anh ta ăn mặc theo phong cách trẻ trung thoải mái: quần vải, áo sơ mi, áo thun vắt trên vai. Ta có cảm giác anh ta vừa nhảy từ cầu tàu lên, và anh ta gợi cho tôi nhớ đến một số quảng cáo cũ của công ty giày Sebago, hoặc những tấm áp phích bầu cử, thời tôi còn là một đứa trẻ, trên đó các ứng cử viên của đảng RPR(1) muốn thể hiện mình là những gã dễ mến và thoải mái. Kết quả thường là ngược với ý muốn ban đầu của họ.

“Chào Thierry, tôi vừa nói vừa đến bên anh ta trong hành lang có mái che.”

“Chào Thomas. Đã lâu không gập.”

“Tôi đang tìm Fanny. Hình như cô ấy ăn tối với anh.”

Phác một cử chỉ, anh ta mời tôi ngồi xuống ghế đối diện.

“Chắc cô ấy sắp đến rồi đấy. Cô ấy kể với tôi là đã gặp lại cậu sáng nay.”

Đã nhuộm sắc hồng, bầu trời chiếu rọi thứ ánh sáng vàng óng như đường ngào lên những phiến đá cũ kỹ. Trong không khí phảng phất mùi vị ngọt ngào của món xúp pistou(2) và những món hầm.

“Anh yên tâm, tôi sẽ không phá hỏng buổi tối của hai người đâu. Tôi chỉ muốn xác minh một chuyện, chỉ mất khoảng hai phút thôi.”

“Không vấn đề gì.”

Quán cà phê Les Arcades là một thể chế thực sự ở Biot. Picasso, Fernand Léger, Chagall trước đây từng là khách quen của quán. Được phủ khăn kẻ ca rô, những chiếc bàn thoải mái tràn ra khắp quảng trường.

“Đồ ở đây vẫn ngon như thế chứ? Trước kia tôi thường cùng cha mẹ đến đây.”

“Thế thì cậu sẽ không bị bỡ ngỡ đâu. Thực đơn vẫn như thế suốt bốn mươi năm nay.”

Chúng tôi chuyện phiếm một lúc về món ớt chuông chao dầu, hoa bí nhồi nhân, thỏ rô ti rắc rau thơm, và về vẻ đẹp của những cái xà lộ thiên nâng đỡ hành lang bên ngoài. Rồi tiếp đó là một khoảng im lặng dài, trước khi tôi quyết định lấp đầy nó.

“Thế nào, phòng thí nghiệm của anh hoạt động tốt chứ?”

“Cậu không cần nhọc công bắt chuyện với tôi đâu, Thomas ạ,” Thierry đáp lại bằng giọng gần như hung hãn.

Giống như Pianelli đã làm sáng nay, nhà sinh vật học lấy ra một điếu thuốc lá điện tử và bắt đầu rít những hơi khói ngắn thơm mùi kem caramel. Tôi tự hỏi những người như Francis hoặc cha tôi sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy các gã trai ngày nay khoan khoái ngậm trong miệng những thứ khói có mùi kẹo ngọt hoặc uống các loại sinh tố thanh lọc cơ thể làm từ rau chân vịt thay cho một ly Scotch.

“Cậu có biết cái lý thuyết cũ mèm ngu ngốc về tri âm tri kỷ không?” Thierry Sénéca tiếp tục lên tiếng và nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thách thức. “Cái lý thuyết khẳng định rằng tất cả chúng ta đều tìm kiếm một nửa hoàn hảo của mình ấy. Con người duy nhất và độc nhất có khả năng chữa lành vĩnh viễn cho chúng ta khỏi căn bệnh cô đơn.”

Tôi trả lời, không chút bối rối:

“Trong Bữa tiệc, Platon đã gán lý thuyết ấy cho Aristophane và tôi không thấy nó có gì là ngu ngốc cả. Tôi thấy nó nên thơ, và thích biểu tượng ấy.”

“Ờ, tôi quên mất cậu vẫn luôn là anh chàng lãng mạn vĩ đại nhất phân ban khoa học,” anh ta chế giễu.

Không hiểu Thierry muốn nói đến chuyện gì, tôi để mặc cho anh ta tiếp tục:

“À thì, Fanny cũng tin vào lý thuyết đó, cậu thấy đấy. Tôi hiểu là ta có thể nghĩ như thế khi mới mười ba, mười bốn tuổi, nhưng khi ta đã xấp xỉ bốn mươi, thì chuyện đó quả là có vấn đề.”

“Anh đang định nói với tôi điều gì vậy, Thierry?”

“Có những người vẫn bị kẹt đâu đó trong thời gian. Những người mà với họ, quá khứ không bao giờ trôi qua.”

Tôi có cảm giác Sénéca đang phác họa chân dung của chính tôi, nhưng tôi không phải người anh ta muốn nói đến.

“Cậu có biết tận đáy lòng, Fanny tưởng tượng điều gì không? Cô ấy nghĩ rằng một ngày nào đó, cậu sẽ quay lại tìm cô ấy. Cô ấy thực sự tin rằng một buổi sáng đẹp trời, cậu sẽ nhận ra rằng cô ấy chính là người phụ nữ của cuộc đời cậu, và cậu sẽ đến, cưỡi trên một con chiến mã, đưa cô ấy đến một số phận tốt đẹp hơn. Trong ngành tâm thần học, người ta gọi đó là…”

“Tôi nghĩ là anh có chút châm biếm đấy,” tôi cắt lời anh ta.

“Giá mà đúng như thế…”

“Hai người ở cùng nhau lâu chưa?”

Tôi nghĩ anh ta sắp dồn tôi vào thế bí, nhưng Thierry lại chọn con đường thành thật.

“Năm hoặc sáu năm gì đó. Chúng tôi đã có những thời kỳ hạnh phúc thực sự, và những thời khắc khó khăn hơn. Nhưng cậu thấy đấy, mặc dù chúng tôi rất vui vẻ, mặc dù chúng tôi sống tương đối dễ chịu, thì cậu vẫn luôn là người cô ấy nghĩ đến. Fanny không thể ngăn mình tự nhủ rằng điều đó sẽ mãnh liệt hơn, trọn vẹn hơn nếu cùng làm với cậu.”

Cụp mắt nhìn xuống, cổ họng nghẹn ngào, Thierry Sénéca nói bằng giọng trầm đục. Nỗi đau khổ của anh ta không phải là giả vờ.

“Thật khó mà đấu lại cậu, cậu biết đấy, gã trai khác biệt với những gã trai khác ạ. Nhưng cậu thì có gì khác biệt cơ chứ, hả Thomas Degalais, ngoại trừ việc là một kẻ phá đám và kẻ bán những giấc mơ?”

Anh ta nhìn tôi với một vẻ pha trộn giữa thù oán và đau khổ, như thể tôi vừa là nguyên nhân gây ra nỗi khó chịu lại vừa là vị cứu tinh tiềm tàng của anh ta. Thậm chí tôi còn không tìm cách thanh minh, bởi vì những điều anh ta nói với tôi có vẻ rất thái quá.

Anh ta gãi chòm râu cằm, rồi lấy điện thoại di động từ trong túi ra để cho tôi xem bức ảnh mà anh ta dùng làm hình nền: một thằng nhóc tám hoặc chín tuổi gì đó đang chơi tennis.

“Con trai anh đấy à?”

“Đúng thế, Marco đấy. Mẹ thằng bé đòi được quyền nuôi dưỡng và đã đưa nó đến Argentina, nơi cô ta sống cùng với bạn trai mới. Tôi đau khổ muốn chết vì không được gặp thằng bé thường xuyên.”

Chuyện của anh ta thật cảm động, nhưng việc một người tôi chưa từng thân thiết đột nhiên trút bầu tâm sự khiến tôi cảm thấy khó chịu.

“Tôi muốn có một đứa con nữa,” Sénéca khẳng định. “Tôi những muốn có đứa con đó với Fanny, nhưng một chướng ngại vật ngăn cô ấy vượt ngưỡng. Và chướng ngại vật ấy chính là cậu, Thomas ạ.”

Tôi muốn trả lời anh ta rằng tôi không phải bác sĩ tâm lý của anh ta, và cái chướng ngại vật ấy chắc chắn là chính anh ta nếu Fanny không muốn có con, nhưng trông Thierry khốn khổ và bồn chồn đến nỗi tôi không có tâm địa nào vùi dập anh ta thêm nữa.

“Tôi sẽ không đợi cô ấy mãi đâu,” anh ta đe dọa.

“Đó là vấn đề của anh, không phải của t…”

Tôi không kịp nói hết câu. Fanny vừa xuất hiện bên dưới mái vòm và đứng sững lại khi nhìn thấy chúng tôi ngồi bên bàn. Cô vẫy tay ra dấu cho tôi – theo tôi – rồi băng ngang quảng trường để đi vào nhà thờ.

“Tôi rất vui vì cậu đã đến, Thomas ạ,” nhà sinh vật học lên tiếng trong lúc tôi đứng dậy khỏi ghế. “Hồi ấy, đã có chuyện gì đó chưa được giải quyết, và tôi hy vọng tối nay cậu sẽ làm xong việc ấy.

Tôi bỏ đi mà không chào anh ta, và tiến đến tận khoảnh sân lát đá cuội xám hồng đằng trước nhà thờ, để đến gặp Fanny bên trong nơi thờ phụng này.

3.

Ngay từ cửa vào, mùi nhang và mùi trầm ngai ngái khiến tôi chìm vào bầu không khí trầm tư. Nhà thờ mang vẻ đẹp giản dị, với một cầu thang dẫn thẳng từ cửa chính xuống đến tận gian giữa. Ngồi ở cuối cầu thang, Fanny chờ tôi trước một giá nến đồ sộ nơi hàng chục ngọn nến đang cháy sáng.

Nơi thích hợp nhất để xưng tội chăng?

Cô vẫn mang chiếc quần jean, đôi giày cao gót và chiếc áo sơ mi tôi đã thấy khi gặp cô lúc sáng. Cô cài kín cúc áo khoác và co hai đầu gối lên tận ngực, như sắp chết rét đến nơi.

“Chào Fanny.”

Mặt cô trắng bệch, đôi mắt sưng húp, vẻ mặt nhàu nhĩ.

“Chúng ta cần nói chuyện với nhau, đúng không?”

Giọng tôi vang lên cứng rắn hơn ý muốn của tôi. Cô gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Tôi đang định hỏi cô về kịch bản mà tôi đã phác ra lúc ở trong xe, thì cô ngước mắt nhìn tôi và nỗi đau khổ tôi đọc thấy trong đó khiến tôi kinh hoàng đến nỗi, lần đầu tiên, tôi không còn chắc chắn là mình muốn biết sự thật nữa.

“Tôi đã nói dối cậu, Thomas ạ.”

“Khi nào?”

“Hôm nay, hôm qua, hôm kia, hai mươi lăm năm trước… Tôi đã nói dối cậu suốt. Chẳng có điều gì trong những điều tôi kể với cậu hôm nay khớp với thực tế cả.”

“Cậu đã nói dối khi kể với tôi rằng cậu biết là có một cái xác trong tường tòa nhà thể chất?”

“Không, cái đó thì tôi nói thật.”

Bên trên đầu cô, được chiếu sáng trong ánh nến, những bức vẽ trang trí cung thánh cổ ánh lên một thứ ánh sáng hung vàng. Ở giữa khung tranh bằng gỗ mạ vàng, một Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp một tay bế Đức Chúa Hài Đồng, tay kia cầm tràng hạt màu đỏ nhạt.

“Đã hai mươi lăm năm nay tôi biết chuyện có một cái xác bị chôn trong bức tường của tòa nhà thể chất,” cô nói thêm.

Tôi những muốn thời gian dừng lại. Tôi không muốn cô nói cho tôi nghe phần tiếp theo.

“Nhưng cho đến khi cậu nói ra, tôi vẫn không hề biết rằng còn có cả xác Alexis Clément ở đó.”

“Tôi không hiểu.”

Tôi không muốn hiểu.

“Có hai cái xác trong bức tường chết tiệt ấy!” cô đứng bật dậy hét lên. “Tôi không biết chuyện Clément, Ahmed không hề nói gì với tôi hết, nhưng tôi biết chuyện về cái xác kia.”

“Cái xác kia nào?”

Tôi đã biết câu trả lời cô sắp nói với tôi, và não bộ tôi đã vạch sẵn những kế hoạch để chối bỏ sự thật.

“Xác của Vinca,” cuối cùng Fanny cũng lên tiếng.

“Không, cậu nhầm rồi.”

“Lần này, tôi đang nói sự thật với cậu, Thomas ạ. Vinca chết rồi.”

“Nếu thế thì cô ấy chết khi nào?”

“Cùng một đêm với Alexis Clément. Cái đêm thứ Bảy ngày 19 tháng Mười hai năm 1992 chết tiệt đó, cái ngày bão tuyết đó.”

“Làm sao cậu có thể khẳng định chắc chắn như thế?”

Đến lượt Fanny chăm chăm nhìn vào bức tranh Đức Mẹ cầm tràng hạt. Đằng sau Đức Mẹ Maria, hai thiên thần có vầng hào quang trên đầu đang mở rộng vạt áo choàng của bà, kêu gọi những kẻ hèn mọn nhất đến đó ẩn náu. Vào lúc này, tôi những muốn được đến đó cùng họ, để thoát khỏi những vết thương do sự thật gây ra. Nhưng Fanny đã ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi, và bằng một câu nói, phá hủy tất cả những gì có ý nghĩa đối với tôi.

“Bởi vì chính tôi đã giết cô ta, Thomas ạ.”

Fanny

Thứ Bảy, ngày 19/12/1992

Ký túc xá Nicolas-de-Staël

Kiệt quệ vì mệt mỏi, tôi ngáp liên hồi hết lần này đến lần khác. Những trang ghi chép bài học môn sinh học phân tử nhảy múa trước mắt tôi, nhưng bộ não tôi không thể nào ngốn chúng được nữa. Tôi cố chống cự để khỏi ngủ thiếp đi. Nhất là cái lạnh như xuyên thấu đến tận xương tủy tôi. Sắp trút linh hồn đến nơi, cái máy sưởi chỉ còn khạc ra một thứ không khí bụi bặm và hơi âm ấm. Tôi bật nhạc để giữ cho mình tỉnh ngủ. Từ bộ loa dàn hi-fi của tôi, nỗi chán chường sâu sắc của The Cure tuồn ra hết bài này đến bài khác: Disintegration, Plainsong, Last Dance… Chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn trơ trọi của tôi.

Bằng ống tay áo thun, tôi lau lớp hơi nước đọng trên cửa kính phòng. Bên ngoài, khung cảnh trông như không có thực. Khuôn viên trường vắng vẻ và tĩnh mịch, đông cứng bên dưới một lớp vỏ óng ánh xà cừ. Trong một lát, ánh mắt tôi nhìn hút ra xa, vượt lên trên bầu trời trắng xám như màu ngọc trai, nơi những bông tuyết vẫn thi nhau rơi xuống.

Dạ dày tôi bị bủa vây bởi cảm giác nóng rực và những tiếng sôi ùng ục. Tôi không ăn gì suốt từ hôm qua. Chạn và tủ lạnh phòng tôi trống trơn, bởi vì tôi không có xu nào trong túi. Tôi biết mình sẽ phải chấp nhận ngủ đi một chút và thôi không đặt đồng hồ báo thức lúc 5h sáng nữa, nhưng cảm giác tội lỗi ngăn không cho tôi làm thế. Tôi nghĩ đến chương trình ôn tập đã soạn ra cho hai tuần nghỉ lễ này. Tôi nghĩ đến năm thứ nhất ngành y chết tiệt sẽ loại bỏ hai phần ba số học sinh lớp dự bị của mình. Và tôi tự hỏi liệu tất cả những chuyện này thực sự có ý nghĩa gì hay không. Hay đúng hơn, tôi tự hỏi liệu mình có đang ở đúng chỗ hay không. Phải chăng thiên hướng của tôi là trở thành bác sĩ? Cuộc đời tôi sẽ đi theo hướng nào nếu tôi trượt cuộc thi này? Mỗi lần nghĩ đến tương lai của bản thân, tôi chỉ nhìn thấy một quang cảnh mờ xỉn và buồn rầu. Dù không phải đồng bằng băng giá, thì cũng là một vùng xám xịt bất tận. Màu sắc của bê tông, của những tòa chung cư, những đường cao tốc và những lần báo thức lúc 5 giờ sáng. Màu của những căn phòng trong bệnh viện, màu của thép khiến ta có một dư vị rất tồi tệ trong miệng mỗi khi thức dậy, cả người dính dớp, bên cạnh một người tồi tệ. Tôi biết đó là những gì đang chờ đợi mình, bởi tôi chưa bao giờ có được sự nhẹ nhõm, vô tư lự và lạc quan mà phần lớn các học sinh ở trường đang phô ra. Mỗi lần nghĩ đến tương lai của bản thân, tôi đều nhìn thấy nỗi sợ hãi, sự chán nản, sự trống rỗng, sự trốn chạy, nỗi đau đớn.

*

Nhưng đột nhiên, tôi nhìn thấy cậu, Thomas ạ! Qua lớp kính, dáng người oằn đi trong gió của cậu nổi bật trên nền trắng sữa của buổi chiều mùa đông ấy. Và, cũng như mọi lần, tim tôi lại nẩy lên trong lồng ngực, và tâm trạng tôi dịu lại. Đột nhiên, tôi không còn buồn ngủ nữa. Đột nhiên, tôi muốn sống và muốn tiến lên. Bởi vì chỉ với cậu cuộc đời tôi mới có thể thanh bình, đầy hứa hẹn, đầy những dự định, những chuyến đi, đầy ánh mặt trời và tiếng cười trẻ thơ. Tôi dự cảm được là có một con đường hẹp dẫn đến hạnh phúc, nhưng tôi chỉ có thể đi trên con đường đó cùng với cậu. Tôi không biết bằng phép mầu nào, nỗi đau khổ, sự đê hèn, sự nham hiểm chất chứa trong tôi từ thời thơ ấu dường như xóa nhòa khi chúng ta ở bên nhau. Nhưng tôi biết rằng nếu không có cậu, tôi sẽ cô độc mãi mãi.

Đột nhiên, tôi nhìn thấy cậu, Thomas ạ, nhưng ảo ảnh đó tan biến cũng nhanh chóng như khi nó xuất hiện, và tôi hiểu rằng cậu không đến vì tôi. Tôi nghe tiếng bước chân cậu đi lên cầu thang và vào phòng cô ta. Cậu không bao giờ đến đây vì tôi. Cậu đến vì Người khác. Vì Cô ta, Luôn luôn là vì Cô ta.

Tôi hiểu Vinca hơn cậu nhiều. Tôi biết cô ta có thứ đó trong ánh mắt, trong cách di chuyển, trong cách cô ta vén một lọn tóc ra sau tai, hoặc khẽ hé miệng để mỉm một nụ cười như có như không. Và tôi biết rằng thứ đó không chỉ tai hại, mà còn gây chết người. Mẹ tôi cũng có thứ đó: thứ hào quang độc hại khiến đám đàn ông phát điên. Cậu không biết điều đó, nhưng khi mẹ rời bỏ chúng tôi, bố đã thử tự sát. Ông ấy tự lao mình vào cái khung sắt han gỉ của một khối bê tông. Do liên quan đến bảo hiểm, nên mọi người vẫn khẳng định rằng đó là một vụ tai nạn lao động, nhưng thực ra ông ấy đã cố ý tự sát. Sau tất cả những nhục nhã mà mẹ tôi gây ra cho ông, con người u mê ấy vẫn khẳng định ông không thể sống thiếu mẹ tôi, và sẵn sàng bỏ mặc ba đứa con còn nhỏ dại.

Còn cậu, cậu là người khác biệt, Thomas ạ, nhưng cậu phải tự giải thoát mình khỏi sự chi phối đó trước khi nó phá hủy cậu. Trước khi nó khiến cậu làm những việc mà cậu sẽ phải hối tiếc suốt cả cuộc đời.

*

Cậu gõ cửa phòng tôi và tôi mở cửa cho cậu.

“Chào Thomas,” tôi vừa nói vừa gỡ bỏ cặp kính đang đeo trên sống mũi.

“Chào Fanny, tôi cần cậu giúp một tay.”

Cậu giải thích với tôi rằng Vinca không ổn, phải có người lắng nghe cô ta và phải cho cô ta uống thuốc. Cậu lục tung tủ thuốc cá nhân của tôi, thậm chí còn nhờ tôi pha trà cho cô ta. Chẳng khác nào một con ngốc, tất cả những gì tôi nghĩ ra được để đáp lại cậu là tôi sẽ lo việc đó. Và bởi vì tôi không còn trà, tôi buộc phải nhặt lại một túi trà đã dùng vứt dưới đáy thùng rác.

Tôi chỉ có tác dụng như thế, tất nhiên: phục vụ Vinca, con chim nhỏ tội nghiệp đang bị thương. Nhưng cậu nghĩ tôi là ai thế? Chúng ta từng rất hạnh phúc trước khi cô ta xuất hiện và ăn tươi nuốt sống cuộc đời chúng ta! Hãy nhìn xem cô ta đã biến chúng ta thành người thế nào! Hãy nhìn cậu đã buộc tôi phải làm gì để thu hút sự chú ý của cậu và khiến cậu phải ghen tuông: chính cậu là người đã ném tôi vào vòng tay của tất cả những gã trai mà tôi qua lại. Chính cậu đã ép tôi khiến mình đau khổ.

Tôi lau nước mắt trước khi bước ra hành lang. Ở đó, cậu xô vào tôi mà không thèm xin lỗi, cũng không thèm nói với tôi một lời, mà lao thẳng xuống cầu thang.

*

Đây rồi. Tôi đang ở trong phòng Vinca và cảm thấy mình hơi ngu ngốc, hoàn toàn đơn độc với cốc trà trên tay. Tôi không nghe thấy những gì các cậu vừa nói với nhau, nhưng tôi đoán cô ta lại giở trò quen thuộc ra thôi. Trò mà cô quá thành thạo: điều khiển người khác trong nhà hát múa rối của cô ta, còn cô ta thì tự đóng vai nạn nhân tội nghiệp.

Tôi đặt cái cốc trà chết tiệt lên bàn đầu giường và nhìn Vinca, cô ta đã ngủ thiếp đi. Một phần trong tôi hiểu được niềm ham muốn mà cô ta khơi gợi lên. Một phần trong tôi gần như muốn được nằm xuống bên cô ta, được vuốt ve làn da ngà ngọc kia, được nếm thử khuôn miệng đỏ tươi kia, được hôn lên hai làn lông mi dài cong vút kia. Nhưng lại một phản kháng khác trong tôi căm thù cô ta, và tôi đột nhiên lùi lại khi mà, chỉ trong một giây, hình ảnh của mẹ tôi chồng lên hình ảnh Vinca.

*

Lẽ ra tôi phải quay về phòng học tiếp, nhưng có điều gì đó níu giữ tôi lại trong căn phòng này. Một chai vodka mới vơi một nửa để trên mép cửa sổ. Tôi ghé miệng tu luôn hai ngụm. Rồi tôi lục lọi, tôi săm soi những thứ giấy tờ vứt bừa bãi trên mặt bàn làm việc, tôi xem lướt cuốn sổ ghi thời gian biểu của Vinca. Tôi mở các ngăn tủ, tôi thử vài bộ quần áo rồi khám phá những thứ đựng trong tủ thuốc cá nhân của cô ta. Tôi không ngạc nhiên cho lắm khi nhìn thấy trong đó các loại thuốc ngủ và thuốc an thần.

Cô ta có đủ bộ của một con nghiện hoàn hảo: Rohypnol, Tranxène, Témesta. Nếu như hai hộp Tranxène và Témesta gần như rỗng không, thì hộp đựng thuốc ngủ vẫn còn rất đầy. Tôi tự hỏi cô ta đã làm cách nào để có được những thứ thuốc này. Bên dưới đống bao bì, tôi tìm thấy những đơn thuốc cũ do một bác sĩ ở Cannes, bác sĩ Frédéric Rubens, kê. Rõ ràng lão thầy thuốc đó kê các loại thuốc gây nghiện này như thể chúng là kẹo mứt vậy.

Tôi biết các đặc tính của thuốc Rohypnol. Phân tử cấu thành loại thuốc này, flunitrazepam, được kê đơn để điều trị các trường hợp mất ngủ nghiêm trọng, nhưng bởi vì thứ này gây nghiện và có chu kỳ bán rã rất dài, nên việc sử dụng nó phải được hạn chế trong thời gian ngắn. Đây không phải loại thuốc mà ta có thể sử dụng thoải mái, hoặc trong một thời kỳ quá dài. Tôi biết rằng nó còn được dùng để tìm cảm giác phê thuốc, bằng cách pha với rượu, thậm chí pha với moóc-phin. Tôi chưa từng dùng thử, nhưng đã nghe nói rằng tác dụng của nó rất kinh khủng: mất kiểm soát, sai lạc trong hành vi và thường là hoàn toàn không nhớ gì về những chuyện đã xảy ra trong thời gian phê thuốc. Một giáo sư dạy chúng tôi ở trường đại học, một bác sĩ chuyên khoa cấp cứu, đã nói với chúng tôi rằng ngày càng có nhiều bệnh nhân được đưa đến bệnh viện do dùng thuốc quá liều, và rằng Rohypnol đôi khi còn được những kẻ hiếp dâm sử dụng để loại bỏ khả năng tự vệ của các nạn nhân, đồng thời khiến họ mất trí nhớ. Có một giai thoại lan truyền như sau: trong một bữa quậy nhạc điện tử (rave party) ở vùng nông thôn Grasse, một cô gái dùng Rohypnol liều mạnh đã tự thiêu trước khi gieo mình từ một vách núi cao để tự sát.

Tôi mệt mỏi đến nỗi không còn suy nghĩ được rạch ròi nữa. Trong một lát, không hiểu ý nghĩ đó đã nảy sinh trong óc tôi như thế nào, nhưng tôi thích thú khi nghĩ đến việc hòa những viên thuốc ngủ này vào cốc trà. Tôi không muốn giết Vinca. Tôi chỉ muốn cô ta biến mất khỏi cuộc đời tôi và cuộc đời cậu. Tôi thường mơ thấy một chiếc xe hất văng cô ta giữa đường phố, hoặc cô ta tự sát. Tôi không muốn giết cô ta, thế nhưng tôi lại dốc một vốc thuốc ra lòng bàn tay. Và dốc thuốc từ tay tôi vào cốc trà nóng bỏng. Việc đó chỉ mất vài giây, như thể tôi vừa phân thân làm đôi, như thể tôi ở bên ngoài cảnh tượng đó và một người khác không phải tôi hoàn tất cử chỉ vừa rồi.

Tôi đóng cửa và quay trở về phòng mình. Tôi không đứng vững nữa. Lần này, cảm giác mệt nhoài đã hạ gục tôi. Đến lượt tôi nằm xuống giường. Tôi cầm tập tài liệu và các phiếu giải phẫu lên. Tôi phải học, phải tập trung vào bài vở, nhưng mắt tôi tự động khép lại và giấc ngủ xâm chiếm tôi.

*

Khi tôi thức dậy, trời đã tối đen. Cả người tôi ướt sũng như đang lên cơn sốt cao. Chiếc đồng hồ báo thức chỉ mười hai rưỡi đêm. Tôi không thể nào tin nổi là mình đã ngủ một mạch suốt tám giờ đồng hồ. Tôi không biết trong lúc tôi ngủ cậu có quay lại không, Thomas ạ. Và tôi không biết Vinca thế nào rồi.

Chìm trong nỗi kinh hoàng về những chuyện đã xảy ra, tôi chạy sang gõ cửa phòng Vinca. Bởi vì không có ai trả lời, tôi quyết định vào phòng. Trên chiếc bàn đầu giường, cốc trà rỗng không. Vinca vẫn ngủ, trong tư thế như khi tôi rời phòng cô ta. Ít ra là tôi cố bắt mình tin thế, nhưng khi cúi người xuống giường, tôi nhận ra là thân thể cô ta lạnh toát, và cô ta không còn thở nữa. Tim tôi như ngừng đập, một cú sốc điện tàn phá tôi. Tôi sụp xuống.

Có thể mọi chuyện đã được định sẵn như thế. Có thể ngay từ đầu mọi việc sẽ phải kết thúc như thế: trong chết chóc và sợ hãi. Và tôi biết bước tiếp theo là gì: cả tôi cũng phải chấm dứt chuyện này. Giải thoát bản thân mãi mãi khỏi nỗi đau khổ âm ỉ vẫn bám dính lấy tôi suốt bấy lâu nay. Tôi mở toang cửa sổ căn phòng nhỏ. Không khí lạnh giá táp vào tôi, cắn rứt tôi, xâu xé tôi. Tôi vắt chân qua mép cửa sổ định nhảy xuống, nhưng không thể nào đi đến cùng hành động đó được. Cứ như thể Màn đêm, sau khi đánh hơi, không muốn đón nhận tôi. Như thể chính thần Chết cũng không muốn mất thời gian với con người nhỏ bé vô nghĩa là tôi.

*

Lờ đờ, tôi đi ngang qua khuôn viên trường giống như một cái xác sống. Hồ nước, quảng trường Cây Dẻ, những tòa nhà hành chính. Tất cả đều đen sì, tối tăm, không có sự sống. Chỉ trừ văn phòng của mẹ cậu. Và bà chính là người mà tôi đang tìm. Qua cửa kính, tôi nhìn thấy vóc dáng bà. Tôi lại gần. Bà đang tranh luận với Francis Biancardini. Khi nhìn thấy tôi, bà hiểu ra ngay là đã xảy ra chuyện gì đó rất nghiêm trọng. Francis và bà ra gặp tôi. Tôi không còn đứng vững nữa. Tôi đổ sụp trong vòng tay bà và kể cho họ nghe mọi chuyện. Những câu nói rời rạc, bị ngắt quãng bởi những tiếng nức nở. Trước khi báo cho đội cấp cứu SAMU, hai người họ vội vàng đến phòng Vinca. Francis là người đầu tiên kiểm tra cái xác. Bằng một cái gật đầu, ông xác nhận là có gọi cấp cứu cũng chẳng ích gì.

Và đúng lúc đó, tôi ngất đi.

Khi tỉnh lại, tôi đang nằm trên ghế xô-pha trong văn phòng mẹ cậu, một cái chăn đắp trên đầu gối.

Annabelle đang ở cạnh tôi. Sự bình tĩnh của bà khiến tôi ngạc nhiên, nhưng cũng giúp tôi yên tâm. Tôi vẫn luôn kính trọng bà. Từ khi tôi quen biết bà, bà vẫn luôn rất hào hiệp và tử tế với tôi. Bà đã ủng hộ và giúp đỡ tôi trong mọi đường đi nước bước. Chính nhờ bà mà tôi có được căn phòng tại ký túc xá. Bà đã mang lại cho tôi niềm tin để dám theo học ngành y, thậm chí còn động viên tôi khi cậu rời xa tôi.

Bà muốn biết tôi đã cảm thấy khá hơn chưa, và yêu cầu tôi kể lại cho bà nghe chính xác những gì đã xảy ra.

“Nhất định không được bỏ quên bất cứ chi tiết nào.”

Trong lúc kể lại mọi chuyện theo yêu cầu của bà, một lần nữa tôi lại sống trong chuỗi sự kiện định mệnh đã dẫn đến cái chết của Vinca. Nỗi ghen tuông trong tôi, cơn điên rồ của tôi, việc dùng Rohypnol quá liều. Trong khi tôi đang tìm cách thanh minh cho hành động của mình, mẹ cậu đặt một ngón tay lên môi tôi.

“Cháu có hối tiếc thì cũng không làm bạn ấy sống lại được. Có người nào khác ngoài cháu có thể đã nhìn thấy xác của Vinca không?”

“Có thể là Thomas, nhưng cháu không nghĩ thế. Chúng cháu là những học sinh duy nhất trong ký túc không đi nghỉ.”

Bà đặt tay lên cánh tay tôi, tìm cách kết nối với ánh mắt tôi và nghiêm trang tuyên bố:

“Thời khắc tiếp theo đây sẽ là thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời cháu, Fanny ạ. Cháu không chỉ phải đưa ra một quyết định khó khăn, mà còn phải quyết định thật nhanh chóng.”

Tôi không rời mắt khỏi bà, không hình dung nổi, dù chỉ trong một giây, những điều bà sắp nói.

“Cháu cần phải lựa chọn. Khả năng thứ nhất là gọi cảnh sát và kể với họ sự thật. Ngay từ tối nay, cháu sẽ ngủ trong xà lim. Trong phiên tòa, bên nguyên đơn và dư luận sẽ nghiền nát cháu. Giới truyền thông sẽ say sưa với vụ án này. Cháu sẽ là con khốn bẩn thỉu quỷ quái và ghen tuông, con quái vật đã lạnh lùng giết chết người bạn thân nhất của mình, nữ hoàng của trường trung học, người được tất cả mọi người ngưỡng mộ. Cháu đã đủ tuổi thành niên, cháu sẽ bị phán quyết một án tù dài đấy.”

Tôi hoảng hốt, nhưng Annabelle vẫn tiếp tục xoáy thêm.

“Khi ra tù, có lẽ cháu đã ba mươi lăm tuổi, và trong suốt quãng đời còn lại, cháu sẽ mang danh kẻ giết người. Nói cách khác, cuộc đời cháu chấm dứt trước cả khi nó kịp thực sự bắt đầu. Tối nay, cháu đã đặt chân vào một địa ngục mà cháu không bao giờ rời bỏ được nữa.”

Tôi có cảm giác mình đang chết chìm. Cảm giác như tôi vừa bị giáng một cú vào đầu, đang hít nước vào và không thể nào thở nổi nữa. Tôi im lặng trong một phút dài dằng dặc trước khi nói được thành tiếng:

“Còn khả năng thứ hai là thế nào thưa bác?”

“Cháu sẽ chiến đấu để thoát khỏi địa ngục. Và ta sẵn sàng giúp cháu làm được việc đó.”

“Cháu không hiểu ta làm thế bằng cách nào.”

Mẹ cậu đứng dậy khỏi ghế.

“Chuyện đó thì không phải vấn đề trực tiếp của cháu. Trước hết, phải làm biến mất cái xác của Vinca đã. Những việc còn lại, cháu càng biết ít thì càng xoay xở tốt hơn.”

“Ta không thể dễ dàng làm biến mất một cái xác được,” tôi nói.

Đúng lúc ấy, Francis bước vào văn phòng và đặt lên chiếc bàn thấp một cuốn hộ chiếu và một thẻ tín dụng. Ông nhấc điện thoại, bấm một loạt số và bật loa ngoài:

“Khách sạn Sainte-Clotilde, xin chào.”

“Xin chào, tôi muốn biết các vị còn phòng tối mai, cho hai người không.”

“Chúng tôi có phòng, nhưng đây là phòng cuối cùng đấy,” chủ khách sạn tuyên bố trước khi nói rõ giá phòng.

Vẻ hài lòng, Francis trả lời là ông lấy phòng đó. Ông đặt phòng dưới cái tên Alexis Clément.

Mẹ cậu nhìn tôi và khiến tôi hiểu rằng cỗ máy đã khởi động, chỉ còn chờ tín hiệu của tôi để tiếp tục.

“Bác để cháu ngồi một mình hai phút để suy nghĩ,” bà bảo tôi.

“Cháu không cần đến hai phút để lựa chọn giữa địa ngục và cuộc sống đâu.”

Tôi nhìn thấy trong ánh mắt bà rằng đó chính là câu trả lời mà bà đang chờ đợi. Bà lại ngồi xuống bên tôi, choàng tay qua vai tôi.

“Cháu phải hiểu một điều. Mọi chuyện chỉ có thể ổn thỏa nếu cháu làm chính xác những gì ta bảo cháu làm. Không đặt câu hỏi và không tìm hiểu lý do cũng như lời giải thích. Đó là điều kiện duy nhất, nhưng là điều kiện không thể thương lượng.”

Tôi còn chưa biết một kế hoạch như thế có thể thực hiện ra sao, nhưng tôi có cảm giác khá đáng tin là Annabelle và Francis đang kiểm soát được tình huống và có thể vãn hồi điều không thể sửa chữa.

“Nếu cháu phạm bất cứ sai lầm nào dù là nhỏ nhất, thì mọi chuyện sẽ kết thúc,” Annabelle trịnh trọng cảnh báo tôi. “Không chỉ mình cháu vào tù, mà cháu còn khiến cả ta và Francis vào tù cùng cháu.”

Tôi im lặng chấp thuận, rồi hỏi xem tôi phải làm những gì.

“Ngay lúc này, kế hoạch là cháu hãy đi ngủ để thật khỏe mạnh vào ngày mai,” bà trả lời tôi.

*

Cậu muốn biết điều gì điên rồ hơn thế không? Đêm đó, tôi đã ngủ rất ngon.

Ngày hôm sau, khi mẹ cậu đánh thức tôi, bà mặc quần jean và áo bu-dông của nam giới. Bà đã cuốn tóc lại thành một búi và che kín nó dưới một chiếc mũ lưỡi trai. Chiếc mũ của một câu lạc bộ bóng đá Đức. Khi bà đưa cho tôi bộ tóc giả màu hung và chiếc áo thun màu hồng chấm bi của Vinca, tôi hiểu ra kế hoạch của bà. Cũng giống như những bài tập ứng tác mà bà thường cho chúng tôi tập luyện ở câu lạc bộ kịch, khi bà yêu cầu chúng tôi vào vai một người nào đó. Thậm chí đó còn là phương pháp bà dùng để phân vai trong một vở diễn. Chỉ có điều lần này, việc biểu diễn ứng tác không kéo dài năm phút mà là cả một ngày và tôi không đóng vai trong một vở kịch, mà đang đóng một vai trong cuộc đời mình.

Tôi vẫn nhớ mình đã cảm thấy thế nào khi khoác lên người quần áo của Vinca và đội bộ tóc giả đó. Một cảm giác trọn vẹn, phấn khích và hoàn thiện. Tôi là Vinca. Tôi có được sự nhẹ nhõm, sự thoải mái, sự hào phóng và thứ phù phiếm sang trọng vốn chỉ thuộc về cô ta.

Mẹ cậu ngồi vào sau tay lái chiếc xe Alpine và chúng tôi rời khỏi khuôn viên trường. Tôi hạ kính xe xuống để vẫy chào ông bảo vệ khi ông nhấc thanh chắn lên, tôi ra hiệu cho hai gã nhân viên đang dọn tuyết ở đoạn bùng binh. Khi đến ga Antibes, chúng tôi nhận thấy là để bù đắp những chuyến tàu bị hủy hôm trước, công ty SNCF đã thuê một đoàn tàu bổ sung để đi Paris. Mẹ cậu đã mua cho chúng tôi hai vé. Chuyến đi đến thủ đô trôi qua nhanh như một hơi thở. Tôi đi dạo khắp các toa tàu, đủ cho mọi người để ý và mơ hồ nhớ đến tôi, nhưng không bao giờ ở lại một chỗ quá lâu. Khi chúng tôi đến Paris, mẹ cậu bảo tôi là bà đã chọn khách sạn trên phố Saint-Simon bởi vì bà đã ở đó sáu tháng trước và người trực đêm là một ông già có thể dễ dàng bị đánh lừa. Trên thực tế, khi đến khách sạn vào khoảng 22 giờ, chúng tôi đã yêu cầu trả trước tiền phòng, lấy cớ là ngày mai chúng tôi sẽ ra đi từ sáng sớm. Chúng tôi để lại đằng sau đủ manh mối để khiến người ta tin rằng Vinca đã thực sự đến đây. Chính tôi là người đã nảy ra ý tưởng gọi Coca vị Cherry; chính mẹ cậu là người có sáng kiến bỏ quên bộ đồ vệ sinh cá nhân với một cái lược có ADN của Vinca.

Cậu muốn biết điều gì điên rồ hơn không? Ngày hôm đó – cái ngày mà tôi đã kết thúc bằng cách uống hai cốc bia với một viên Rohypnol – là một trong những ngày ngây ngất nhất đời tôi.

*

Chuyến trở xuống, chuyến quay về mặt đất, cũng ngang tầm với nỗi phấn khích đó. Sáng hôm sau, tất cả lại trở lại u buồn và đáng lo ngại như trước. Ngay khi thức dậy, tôi đã suýt sụp đổ. Tôi không nghĩ mình có thể sống thêm một ngày nào nữa khi phải mang theo cảm giác tội lỗi cũng như sự ghê tởm với chính bản thân mình. Nhưng tôi đã hứa với mẹ cậu là sẽ đi đến cùng. Tôi đã phá hỏng cuộc đời mình, tôi sẽ không kéo theo bà ấy trượt dốc cùng tôi. Khi những ánh bình minh đầu tiên ló rạng, chúng tôi rời khách sạn bằng tàu điện ngầm. Lúc đầu là tuyến số 12, đi từ phố Bac đến Concorde, rồi tuyến số 1, đi thẳng đến ga Lyon. Ngày hôm trước, Annabelle đã mua cho tôi một vé quay về Nice. Sau đó, bà sẽ đến ga Montparnasse để bắt chuyến tàu đưa bà về Dax, vùng Landes.

Trong một quán cà phê đối diện với ga tàu, bà tâm sự với tôi về nhiệm vụ khó khăn nhất mà tôi còn phải giải quyết: học cách sống với những gì tôi đã làm. Nhưng bà lập tức nói thêm rằng bà không chút nghi ngờ là tôi đủ khả năng làm việc đó, bởi vì, cũng giống như bà, tôi là một nữ chiến binh, và đó là những người duy nhất được bà tôn trọng.

Bà nhắc tôi nhớ rằng với những phụ nữ như chúng tôi, xuất phát từ con số không, cuộc đời là một cuộc chiến không ngừng nghỉ: phải tranh đấu vì mọi thứ, lúc nào cũng thế. Rằng thông thường, kẻ mạnh và kẻ yếu không phải những người như ta vẫn tưởng. Rằng nhiều người âm thầm tiến hành những cuộc chiến đau đớn của riêng mình. Bà nói với tôi rằng thử thách thật sự là phải biết nói dối trong thời gian dài. Và rằng, để có thể nói dối người khác thành công thì trước hết phải nói dối chính bản thân mình.

Chỉ có một cách duy nhất để nói dối, Fanny ạ, đó là phủ nhận sự thật: nghĩa là sự thật phải bị lời nói dối của cháu hủy diệt, cho đến khi lời nói dối của cháu trở thành sự thật.

Annabelle đi cùng tôi trên sân ga, đến tận toa tàu của tôi, và bà ôm hôn tôi. Những lời nói cuối cùng của bà là để nói với tôi rằng ta có thể sống với quá khứ vấy máu. Bà biết điều đó, bởi chính bản thân bà cũng từng trải qua chuyện ấy. Và bà để tôi lại đó, cùng với một câu nói mà tôi cần chiêm nghiệm: “Nền văn minh chỉ là một tấm màng mỏng bên trên một cõi hỗn độn cháy rực.”

Chú Thích:

Rassemblement pour la République – Đảng Tập Hợp vì nền Cộng Hòa ở Pháp.

Xúp đậu nấu với pistou, một loại gia vị được làm từ đinh hương, tỏi, húng quế tươi và dầu ô liu.