Chương 14 Vụ nổ
Hắn chìm vào đêm tối.
Và đúng lúc hắn biết điều đó, hắn thôi không còn biết nữa.
Jack LONDON
1.Gần như chìm vào một cơn sốt, Fanny kết thúc câu chuyện của cô trong trạng thái như sắp phát điên. Cô rời khỏi những bậc thang đẽo vào đá và đứng dậy, ngay giữa nhà thờ, vẫn run rẩy như sắp gục ngã đến nơi. Loạng choạng giữa những băng ghế gỗ, cô khiến tôi nghĩ đến hành khách cuối cùng trên một con tàu đang chìm dần.
Còn tôi, tôi cũng không kiên cường hơn chút nào. Hơi thở tôi gần như ngừng lại. Tôi đã hứng chịu những lời thú nhận đó chẳng khác nào từng ấy cú đấm móc khiến tôi sắp bị hạ Knock-Out và chìm vào cơn hỗn loạn. Tâm trí tôi đã bão hòa, không thể nào sắp xếp được các sự kiện theo đúng trật tự của chúng được. Vinca đã bị Fanny sát hại với sự tòng phạm có chủ ý của mẹ tôi để làm biến mất cái xác… Tôi không chối bỏ sự thật, nhưng đối với tôi, dường như nó không tương thích với những gì tôi vẫn biết về tính cách của mẹ tôi cũng như tính cách của cô bạn tôi.
“Chờ đã, Fanny!”
Fanny vừa lao ra khỏi nhà thờ. Một giây trước, cô như sắp ngất xỉu đến nơi, thế mà lúc này, cô bỏ chạy như thể cuộc sống của cô phụ thuộc vào việc đó!
Mẹ kiếp!
Tôi lao chạy chệnh choạng trên cầu thang, và khi đến lượt tôi ra được sân trước nhà thờ, Fanny đã ở xa. Tôi đuổi theo, nhưng bị trẹo mắt cá chân đau điếng. Cô đã ở quá xa, và chạy nhanh hơn tôi rất nhiều. Tôi tập tễnh đi cắt ngang ngôi làng và cố đi xuống con dốc Vachettes càng nhanh càng tốt. Tôi tìm thấy xe của mình, trên đó có cài một phiếu phạt, tôi vò nhàu nó, ngồi vào trước tay lái và lưỡng lự không biết phải làm gì tiếp theo.
Mẹ tôi. Tôi phải nói chuyện với mẹ tôi. Bà là người duy nhất có thể xác thực với tôi những gì Fanny vừa kể, và giúp tôi tách bạch đâu là thật đâu là giả. Tôi bật điện thoại di động, vì đã tắt nó đi lúc ở trong nhà thờ. Không có tin nhắn mới nào của cha tôi, nhưng một tin nhắn của Maxime yêu cầu tôi gọi lại cho cậu ta. Tôi vừa làm thế vừa cho xe nổ máy.
“Chúng ta phải nói chuyện với nhau, Thomas ạ. Tớ đã phát hiện ra một chuyện. Một chuyện rất nghiêm trọng đã…”
Tôi cảm nhận được nỗi xúc động trong giọng nói của cậu ta. Không hắn là nỗi sợ hãi, nhưng rõ ràng là sự yếu đuối không che đậy.
“Nói cho tớ biết đi.”
“Không nói qua điện thoại được. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Tổ Đại Bàng sau. Tớ vừa đến buổi dạ tiệc ở Saint-Ex, tớ phải thực hiện chiến dịch một chút.”
Trên đường về, trong khoang lái yên tĩnh của chiếc Mercedes, tôi cố gắng sắp đặt lại trật tự cho những suy nghĩ trong đầu. Như vậy là vào thứ Bảy ngày 19 tháng Mười hai năm 1992, trong khuôn viên trường trung học Saint-Exupéry, đã có hai vụ giết người chỉ cách nhau vài giờ đồng hồ. Đầu tiên là Alexis Clément, rồi sau đó là Vinca. Hai cái chết xảy ra gần như đồng thời đã cho phép mẹ tôi và Francis dựng nên một kịch bản khó tin để bảo vệ cả ba chúng tôi: Maxime, Fanny và tôi. Bảo vệ chúng tôi bằng cách trước hết là làm cho hai cái xác biến mất, sau đó, và đây mới thực sự là cú ra tay thiên tài, bằng cách chuyển hiện trường vụ án từ Côte d’Azur về Paris.
Kịch bản này có chút gì đó lãng mạn – sự liên minh của một ông bố và một bà mẹ sẵn sàng gánh chịu mọi rủi ro để cứu ba đứa thanh niên là chúng tôi khi đó… – nhưng trí não tôi vẫn chối bỏ chuyện ấy bởi vì nó xác nhận chính thức là Vinca đã chết.
Trong lúc nhớ lại những gì Fanny vừa kể, tôi quyết định gọi cho một bác sĩ để xác minh lại một điểm khiến mình băn khoăn. Tôi cố gọi cho bác sĩ đa khoa của tôi ở New York, nhưng lại chỉ có số điện thoại phòng khám của ông, mà phòng khám thì không mở cửa vào dịp cuối tuần. Vì không quen bất kỳ bác sĩ nào khác, tôi đành quyết định gọi cho anh trai mình.
Nói rằng chúng tôi ít gọi điện thoại cho nhau là một cách nói giảm nhẹ. Thật đáng sợ khi làm em của một người hùng. Mỗi lần nói chuyện với anh, tôi có cảm giác mình đang ăn cắp của anh khoảng thời gian mà lẽ ra anh có thể dành để chăm sóc những đứa trẻ, và điều đó khiến cuộc trò chuyện của chúng tôi có một giọng điệu nực cười.
“Chào em trai!” anh thốt lên khi nhấc máy.
Vẫn như mọi khi, sự nhiệt tình của anh không những không có tác dụng lan tỏa mà còn ngốn hết sức lực của tôi.
“Chào Jérôme, mọi chuyện thế nào?”
“Đừng mất công với những câu mào đầu (small talk) nữa, Thomas. Nói cho anh biết anh có thể làm gì cho em?”
Ít nhất, ngày hôm nay, anh cũng giúp cho nhiệm vụ của tôi nhẹ nhàng hơn.
“Em vừa gặp mẹ chiều nay. Anh có biết lần mẹ bị nhồi máu cơ tim không?”
“Tất nhiên.”
“Tại sao anh không báo cho em?”
“Chính mẹ là người yêu cầu anh không được làm thế. Mẹ không muốn khiến em lo lắng.”
Chắc anh đang nói đùa…
“Anh có biết thuốc Rohypnol không?”
“Ờ, tất nhiên rồi. Đó là một thứ chết tiệt, nhưng ngày nay nó cũng không còn thực sự được kê toa nữa.”
“Anh từng dùng thuốc đó chưa?”
“Chưa, tại sao em lại muốn biết điều đó?”
“Là vì một cuốn tiểu thuyết em đang viết. Một câu chuyện xảy ra hồi những năm 1990. Phải ngốn bao nhiêu viên thuốc thì mới dẫn đến cái chết?”
“Anh chịu thôi, còn tùy thuộc vào định lượng thuốc. Phần lớn thuốc viên chứa 1mg flunitrazepam.”
“Vậy thì sao?”
“Vậy thì, anh cho là chuyện đó còn tùy thuộc vào từng thể trạng.”
“Anh không giúp em được nhiều lắm.”
“Kurt Cobain từng uống thuốc đó với ý định tự sát.”
“Em tưởng ông ta tự bắn một viên đạn vào đầu mình chứ.”
“Anh đang nói với em về một dự định tự sát bất thành, vài tháng trước đó. Hồi ấy, người ta đã tìm thấy chừng năm chục viên thuốc trong dạ dày ông ta.”
Fanny đã nói là một vốc thuốc, vậy còn lâu mới được năm chục viên.
“Thế nếu anh uống chừng mười lăm viên?”
“Em sẽ mê man đấy, có lẽ gần như hôn mê, nhất là nếu em pha thuốc vào rượu. Nhưng một lần nữa, mọi chuyện còn phụ thuộc vào định lượng. Hồi những năm 1990, phòng thí nghiệm sản xuất Rohypnol còn bán ra thị trường cả dạng viên 2mg. Trong trường hợp đó, mười lăm viên cộng với rượu Jim Beam thực sự có thể đưa em về chầu trời.”
Quay trở lại vạch xuất phát…
Một câu hỏi không nằm trong dự kiến lướt trí tôi.
“Anh có biết một bác sĩ người Cannes từng hành nghề hai mươi năm trước, hình như tên là Frédéric Rubens không?”
“Bác sĩ Mabuse! Ở đấy ai mà chẳng biết ông ta, và không phải theo hướng tốt đẹp gì đâu.”
“Mabuse là biệt danh của ông ta à?”
“Ông ta còn có các biệt danh khác nữa,” Jérôme vừa nói vừa cười khùng khục. “Frédo nghiện, Fred Krueger bán ma túy… Bản thân ông ta cũng vừa là một con nghiện vừa là tay cung cấp thuốc. Ông ta tham gia tất cả các đường dây ám muội mà người ta có thể tưởng tượng ra được và trong khả năng ông ta: chất kích thích, hành nghề y bất hợp pháp, buôn bán đơn thuốc…”
“Ông ta đã bị xóa tên khỏi đội ngũ bác sĩ rồi chứ?”
“Ờ, nhưng theo ý kiến anh thì không được sớm cho lắm.”
“Anh biết ông ta còn sống ở Côte d’Azur không?”
“Với tất cả những gì đã nốc vào người, ông ta không thọ được lâu. Rubens chết từ hồi anh vẫn còn là sinh viên. Cuốn sách sắp tới của em là trinh thám y học à?”
2.Trời gần như đã tối hẳn khi tôi đến trường trung học. Thanh chắn tự động đã bị chặn lại trong trạng thái mở. Chỉ cần báo với bảo vệ, anh ta sẽ kiểm tra xem tên bạn có được ghi trong danh sách không. Tôi chẳng ghi tên ở đâu cả, nhưng anh chàng đã nhìn thấy tôi vài giờ trước. Anh ta nhận ra tôi và để tôi vào, yêu cầu tôi đỗ xe trong bãi đỗ đã được sắp xếp ở gần hồ.
Ban đêm, nơi này tuyệt đẹp, thống nhất và hài hòa hơn là dưới ánh mặt trời. Được gió mistral quét qua, bầu trời quang đãng và đầy sao. Từ bãi đỗ xe, những chiếc đèn rọi, đuốc và dây trang trí sáng lấp lánh mang lại cho khuôn viên trường vẻ quyến rũ, và chỉ dẫn khách thăm đi về phía tổ chức cuộc vui. Có nhiều lễ hội tùy theo các khóa. Dạ tiệc diễn ra tại tòa nhà thể chất dành để đón tiếp các khóa học trong những năm từ 1990 đến 1995.
Vào đến bên trong tòa nhà, tôi bỗng cảm thấy khó chịu. Ta gần như đang ở trong một bữa tiệc hóa trang, và chủ đề có lẽ là trang phục tệ nhất của bạn vào những năm 1990. Đám người trạc tứ tuần lôi từ trong ngăn tủ ra nào Converse, nào quần 501 thủng lỗ cạp cao, nào áo bomber Schott và sơ mi bằng vải tartan ca rô kẻ to. Những người ưa thích thể thao thì mặc quần baggy, quần áo thể thao Tacchini và áo phao Chevignon.
Tôi nhìn thấy Maxime từ xa, cậu ta mặc một chiếc áo thể thao của đội Chicago Bulk. Mọi người xúm xít quanh cậu ta như thể cậu ta đã là dân biểu rồi. Cái tên Macron xuất hiện trên môi tất cả mọi người. Trong cái nhóm của những nhà thầu khoán, người làm nghề tự do và công chức này, người ta vẫn ngạc nhiên khi biết rằng từ nay trở đi, đất nước này sẽ được lãnh đạo bởi một tổng thống chưa tròn bốn mươi tuổi, nói được tiếng Anh, hiểu biết về hoạt động của nền kinh tế và thể hiện, theo một cách thực tế, mong muốn vượt lên trên những khác biệt về hệ tư tưởng cũ kỹ trước đây. Nếu một ngày nào đó có điều gì phải thay đổi ở đất nước này, thì sẽ là bây giờ hoặc không bao giờ.
Khi Maxime nhìn thấy tôi, cậu ta giơ tay làm hiệu: mười phút nữa nhé? Tôi gật đầu đồng ý, và trong lúc chờ đợi, tôi hòa mình vào đám đông. Tôi đi ngang căn phòng, đến tận bàn để đồ ăn, và thật mỉa mai, thấy mình đang áp sát vào bức tường nơi xác của Alexis Clément và Vinca thối rữa từ hai mươi lăm năm nay. Bức tường được trang trí bằng những dây hoa và những tấm áp phích cũ. Giống như sáng nay, tôi không hề cảm thấy chút khó chịu đặc biệt nào. Không có những sóng điện tồi tệ. Nhưng tôi biết rằng não bộ tôi đang đưa ra tất cả các biện pháp phòng vệ khả dĩ để chối bỏ cái chết của Vinca.
“Tôi lấy cho anh thứ gì nhé, thưa anh?”
Ơn Chúa, lần này thì có rượu. Thậm chí có cả một nhân viên phục vụ quầy đang pha cocktail theo yêu cầu.
“Anh có thể pha cho tôi một ly caïpirinha không?”
“Rất sẵn lòng.”
“Cho hai ly đi!” một giọng nói vang lên sau lưng tôi.
Tôi quay lại và nhận ra Olivier Mons, chồng của Maxime, người đang điều hành thư viện đa phương tiện ở Antibes. Tôi khen ngợi anh có hai cô con gái nhỏ đáng yêu, và chúng tôi nhắc lại vài giai thoại về thời xưa cũ không được tuyệt vời cho lắm. Trong khi tôi nhớ trước đây anh là một chàng mọt sách điệu đà, thì bây giờ anh tỏ ra là một người quyến rũ và đầy hài hước. Tuy nhiên, sau chừng hai phút trò chuyện, anh tâm sự với tôi là từ vài ngày nay anh cảm thấy Maxime rất lo lắng. Anh chắc chắn là cậu ta giấu anh nguyên nhân khiến cậu ta bứt rứt đến thế, và cũng chắc chắn là tôi có biết được điều gì đó.
Tôi quyết định nửa đùa nửa thật nói với anh rằng, trong bối cảnh cuộc bầu cử sắp tới, có lẽ một số kẻ thù của Maxime sẽ tìm cách lôi các xác chết từ trong ngăn tủ ra để khiến cậu ta nhụt chí, từ bỏ việc ứng cử. Tôi nói một cách mơ hồ, xa xôi nhắc đến cái giá phải trả khi làm chính trị. Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ ở bên để giúp đỡ cậu ta, và rằng những mối đe dọa kia chẳng mấy chốc sẽ chỉ còn là một kỷ niệm xưa cũ.
Và Olivier tin tôi. Đó là một trong những điều kỳ quặc của cuộc sống. Mặc dù vốn có bản tính hay lo lắng, nhưng tôi lại có năng lực kỳ lạ là có thể khiến mọi người cảm thấy yên tâm.
Anh chàng phục vụ mang đồ uống cho chúng tôi, và sau khi chạm cốc, chúng tôi thích thú ngắm nhìn trang phục của các khách mời. Về mặt này, cũng giống như tôi, Olivier rất giản dị. Ta không thể nói như thế về tất cả mọi người. Đa số phụ nữ rõ ràng là đang tiếc nuối thời những chiếc áo lửng khiến rốn họ lộ ra lấp ló. Những người khác mặc quần soóc jean, váy hai dây bên ngoài áo phông, đeo những chuỗi hạt ôm sát cổ hoặc túi xách có dây đeo dài xoắn vặn như sợi thừng. May mắn thay, không ai dám diện những đôi giày độn đế xuồng Buffalo. Tất cả những chuyện này có ý nghĩa gì? Chỉ là để mua vui, hay còn là cố gắng níu giữ một điều gì đó của thời thanh xuân đã mất?
Chúng tôi gọi thêm hai ly cocktail nữa.
“Và lần này, đừng tiếc tay khi cho cachaça(2) nhé!” tôi yêu cầu.
Anh chàng phục vụ nghe lời và pha cho chúng tôi món đồ uống rất đậm đặc. Tôi chào Olivier, rồi tay cầm ly cocktail, tôi đi ra hàng hiên nơi những người hút thuốc đang tụ tập.
3.Bữa tiệc mới chỉ bắt đầu, nhưng một gã đã công khai bán cocain và cỏ ở cuối phòng. Tất cả những thứ tôi vẫn luôn trốn tránh. Mặc áo bu-dông cũ vá víu và áo thun Depeche Mode, Stéphane Pianelli đang chống khuỷu tay lên lan can, vừa hút thuốc vừa nhấm nháp một ly bia không cồn.
“Rốt cuộc, cậu không đến xem hòa nhạc à?”
Cậu ta khẽ nghiêng đầu, hướng về một cậu bé chừng năm tuổi đang thích thú trốn dưới các gầm bàn.
“Lẽ ra bố mẹ tôi trông Ernesto hộ tôi, nhưng đến phút cuối họ lại vướng việc bận,” cậu ta vừa giải thích vừa nhả ra một làn hơi nước có mùi bánh mì tẩm gia vị.
Nỗi ám ảnh của Pianelli còn thể hiện cả trong cái tên cậu ta đặt cho con trai mình.
“Chính cậu là người chọn cho thằng bé cái tên Ernesto đúng không? Giống như Ernesto Guevara?”
“Ờ, thì sao chứ? Cậu không thích à?” cậu ta vừa hỏi vừa nhướng một bên lông mày lên, vẻ đe dọa.
“Có, thích chứ,” tôi trả lời để không làm cậu ta mếch lòng.
“Mẹ thằng bé nghĩ rằng cái tên đó quá sáo rỗng.”
“Mẹ thằng bé là ai?”
Khuôn mặt cậu ta sầm lại.
“Cậu không biết cô ấy đâu.”
Pianelli khiến tôi phì cười. Cậu ta thấy việc quan tâm đến đời tư của mọi người là hoàn toàn hợp lý, với điều kiện đó không phải cuộc đời cậu ta.
“Là Céline Feulpin đúng không?”
“Đúng, là cô ấy đấy.”
Tôi vẫn nhớ rất rõ Céline. Một cô nàng học ban Văn học, rất hăng hái trong việc chống bất công và luôn đi đầu trong các phong trào bãi khóa của học sinh trung học. Cặp bài trùng phiên bản nữ giới của Stéphane, người mà cô theo đuổi lúc học khoa Văn. Trong vòng ảnh hưởng của phái cực tả hai người họ đã cùng tham gia nhiều cuộc chiến vì quyền sinh viên và những người thiểu số. Tôi mới gặp cô, cách đây chừng hai hay ba năm gì đó, trên một chuyến bay New York-Genève. Hoàn toàn thay đổi. Cô mang một chiếc túi Lady Dior, đi cùng một bác sĩ người Thụy Sĩ, và có vẻ rất yêu anh ta. Chúng tôi đã trò chuyện vài câu, tôi thấy cô rất vui vẻ và rạng rỡ, nhưng tôi tránh không nhắc đến chuyện này với Pianelli.
“Tôi có mấy thứ cho cậu đây,” cậu ta nói để chuyển sang chủ đề khác.
Cậu ta bước sang bên một bước, và khuôn mặt cậu ta đột nhiên được chiếu sáng bởi một bóng đèn màu trắng gắn trên dây trang trí sáng lung linh. Cả cậu ta cũng có quầng thâm, và đôi mắt đỏ ngầu như thể đã lâu không ngủ.
“Cậu lấy được thông tin về nguồn tài chính cho các công trình trong trường rồi à?”
“Không hẳn. Tôi đã cử nhân viên tập sự của tôi làm việc đó, nhưng bí mật được giữ kín. Nếu tìm được điều gì, cậu ta sẽ liên hệ với cậu.”
Pianelli đưa mắt tìm con trai và khẽ vẫy tay ra hiệu với thằng bé.
“Bù lại, tôi đã ngó qua dự án cuối cùng một chút. Các công trình này thực sự là bí ẩn. Một số thứ chi phí cao ngất trời nhưng tôi lại không thấy có tác dụng gì đáng kể.”
“Cậu đang nghĩ đến công trình nào?”
“Tôi nghĩ đến công trình vườn hồng khổng lồ: Vườn Thiên thần. Cậu có nghe nói đến nó không?”
“Không.”
“Điên rồ lắm. Tham vọng là xây dựng một khu vực để tĩnh tâm, khu vực này sẽ trải dài suốt từ cánh đồng hoa oải hương hiện nay đến tận hồ nước.”
“Thế là thế nào, một khu vực tĩnh tâm ư?”
Cậu ta nhún vai.
“Cậu nhân viên tập sự đã kể cho tôi nghe chuyện đó qua điện thoại. Tôi không nắm được hết ý tưởng, nhưng tôi có thứ khác cho cậu đây.”
Pianelli tỏ vẻ bí mật và lấy từ trong túi ra một tờ giấy trên đó có các ghi chú của cậu ta.
“Tôi đã có được bản báo cáo của cảnh sát về cái chết của Francis Biancardini. Đúng là ông ta đã phải lãnh đủ, ông già khốn khổ đó.”
“Ông ấy đã bị tra tấn sao?”
Một tia lửa độc địa sáng lên trong mắt cậu ta.
“Đúng thế, bầm giập luôn. Theo tôi, chuyện đó càng khẳng định thêm giả thuyết cho rằng đây là một vụ thanh toán.”
Tôi thở dài. “Nhưng thanh toán gì mới được chứ, Stéphane? Vẫn là câu chuyện về xã hội đen và rửa tiền của cậu chứ gì? Hãy thử suy nghĩ ba giây thôi xem nào, mẹ kiếp. Cho dù Francis có làm việc cho chúng đi nữa – mà tôi không tin là có chuyện ấy – thì tại sao chúng lại loại bỏ ông ấy?”
“Có thể ông ta đã tìm cách đánh lừa mấy gã Ndrangheta.”
“Nhưng để làm gì? Ông ấy bảy mươi tư tuổi rồi, lại còn giàu sụ nữa.”
“Đối với những gã đó, chẳng bao giờ là đủ cả.”
“Bỏ qua chuyện này đi, cậu quá ngốc. Có đúng là ông ấy đã tìm cách dùng máu để viết tên kẻ tấn công mình không?”
“Không, chuyện đó thì cô ả kia đã thú nhận với tôi là cô ta bịa ra để khiến bài báo của mình kịch tính hơn thôi. Ngược lại, Francis đã cố gọi cho một người trước khi chết.”
“Người ta có biết đó là ai không?”
“Có, là mẹ cậu.”
Tôi đờ người, cố tìm cách tháo ngòi nổ của quả bom mà cậu ta vừa có được.
“Hợp lý thôi, hai người họ là hàng xóm, và họ quen biết nhau từ hồi còn làm ở trường này.”
Cậu ta gật đầu, nhưng đôi mắt thì lại nói: cứ kể chuyện đó cho bất kỳ ai tùy cậu, anh bạn ạ, nhưng đừng có làm thế với tôi.
“Mẹ tôi có nhấc máy không, theo họ biết?”
“Cậu hỏi thử mẹ cậu xem,” cậu ta trả lời.
Cậu ta uống nốt cốc bia không cồn của mình.
“Đi nào, chúng ta về nhà thôi, ngày mai con còn có giờ luyện đá bóng đấy.” Anh ta vừa nói vừa lại chỗ cậu con trai.
4.Tôi đưa mắt liếc nhìn quanh phòng. Maxime vẫn được bao bọc giữa đám cận thần của cậu ta. Ở đầu kia hàng hiên, người ta đã dựng quầy rượu thứ hai – một kiểu sòng bạc lậu – phục vụ những ly vodka.
Tôi uống một ly (vodka bạc hà) rồi một ly nữa (vodka chanh). Điều này không hợp lý, nhưng tôi không có đứa con nhỏ nào cần đưa về nhà, cũng không có buổi tập luyện thể thao nào vào ngày mai. Tôi không thích bia không cồn, cũng không thích nước ép rau chân vịt, và có thể tuần sau tôi sẽ phải vào tù…
Tôi thực sự cần gặp mẹ. Tại sao bà lại bỏ trốn? Bởi vì bà sợ tôi phát hiện ra sự thật? Bởi vì bà sợ phải chịu những chuyện kinh khủng như Francis?
Ly vodka thứ ba (vị cherry) để giúp tôi tin rằng mình sẽ suy nghĩ tốt hơn trong tình trạng say xỉn. Về lâu dài, điều đó là sai, tất nhiên, nhưng trong thời gian cơn say ập tới, đôi khi ta có một khoảng hưng phấn ngắn ngủi, khi mà các ý nghĩ va đập vào nhau, và trước khi tâm trí biến thành mớ hỗn độn kinh khủng, một tia chớp nhỏ sẽ lóe lên. Mẹ tôi đã đi chiếc xe thuê của tôi. Một chiếc xe chắc hẳn là có trang bị cảm biến GPS. Có lẽ tôi có thể gọi cho hãng xe, nói dối rằng có người đã ăn cắp chiếc xe và yêu cầu họ định vị nó chăng? Có thể làm như thế, chỉ có điều bây giờ đang là tối thứ Bảy và việc đó sẽ không dễ dàng gì.
Ly vodka cuối cùng (vị cam) để lên đường. Não bộ tôi đang quay hết tốc lực. Cảm giác thật ngây ngất, chỉ có điều nó không kéo dài. May mắn thay, một ý tưởng khá tài tình lướt qua tâm trí tôi. Tại sao không thực hiện một tìm kiếm rất đơn giản để định vị chiếc iPad của tôi hiện vẫn đang nằm trong xe? Kỹ thuật giám sát hiện đại và đã được thừa nhận cho phép làm việc đó. Trên điện thoại của mình, tôi khởi động ứng dụng đã được cài đặt sẵn. Các tham số được cài đặt chính xác, thứ này khá hiệu quả và chính xác tới trên 50%. Tôi nhập các thông số đầu vào – địa chỉ email và mật khẩu – rồi nín thở. Một điểm bắt đầu nhấp nháy trên bản đồ. Tôi vuốt hai ngón tay để phóng to. Nếu máy tính bảng của tôi vẫn nằm trong xe, thì chiếc xe đang ở mỏm Nam của mũi Antibes, tại một nơi mà tôi biết rõ: trên bãi đỗ xe ở bãi biển Keller, nơi đậu xe dùng cho các khách hàng của nhà hàng hoặc các du khách muốn đi dạo trên con đường mòn ven biển.
Tôi gọi ngay cho cha tôi.
“Con tìm thấy xe của mẹ rồi!”
“Con làm thế nào vậy?”
“Ba không cần phải biết chi tiết đâu, chiếc xe đang ở trên bãi đỗ xe Keller.”
“Nhưng chết tiệt, Annabelle làm cái quái gì ở đó?”
Một lần nữa, tôi cảm thấy cha tôi vô cùng lo lắng, và hiểu ra ông đang giấu tôi điều gì đó. Ông quyết liệt phủ nhận, buộc tôi phải cao giọng. “Ba làm con phát bực, Richard ạ! Ba gọi con khi ba gặp vấn đề, nhưng lại không tin con.”
“OK, con nói đúng,” cha tôi thừa nhận. “Lúc đi, mẹ con có mang theo một thứ…”
“Mẹ mang theo thứ gì?”
“Một trong mấy khẩu súng săn của cha.”
Một miệng vực vừa mở ra dưới chân tôi. Tôi không thể hình dung nổi mẹ tôi với một khẩu súng. Tôi nhắm mắt trong ba giây và một hình ảnh hiện ra trong óc tôi. Ngược với những gì tôi vẫn bắt mình phải tin, tôi hình dung rất rõ Annabelle với một khẩu súng săn.
“Mẹ có biết dùng súng không?” tôi hỏi cha.
“Ba đến Mũi Antibes đây,” cha tôi chỉ trả lời có thế.
Tôi không chắc đó là một ý tưởng hay, nhưng cũng không biết chúng tôi có thể làm gì khác được.
“Con làm cho xong việc này rồi sẽ đến gặp ba ở đó. Được không ba?”
“Được. Con làm nhanh lên.”
Tôi gác máy và quay trở vào trong phòng. Bầu không khí đã thay đổi. Dưới tác dụng giải tỏa ức chế của rượu, các khách mời bắt đầu buông thả. Nhạc rất to, gần như chát chúa đinh tai. Tôi tìm Maxime nhưng không thấy. Tôi hiểu là cậu ta đã đi ra, và chắc là đang đợi tôi ở bên ngoài.
Tổ Đại Bàng, tất nhiên rồi…
Tôi rời khỏi tòa nhà thể chất và đi ngược theo con đường dẫn đến khoảng sườn treo đầy hoa. Đường đi được cắm mốc và chiếu sáng bằng những ngọn đèn rọi cùng đèn lồng định hướng cho bước chân tôi.
Đến chân vách đá, tôi ngẩng đầu lên và nhìn thấy đầu một điếu thuốc đang cháy lên trong đêm. Tì một khuỷu tay vào lan can, Maxime giơ tay kia vẫy tôi.
“Đi lên cẩn thận đây!” cậu ta hét lên. “Trong bóng tối, đường này quả là nguy hiểm.”
Cẩn trọng, tôi bật chế độ đèn pin trong điện thoại để không bị trượt ngã, và bắt đầu lên chỗ Maxime. Chỗ mắt cá bị trẹo trong sân nhà thờ nhắc tôi nhớ lại chuyện xảy ra lúc trước. Mỗi bước đi là một lần tôi phải cố gắng. Trong lúc trèo lên vách đá, tôi nhận ra rằng gió vẫn thổi mạnh từ lúc sáng giờ đã dịu đi. Bầu trời phủ đầy mây và không còn ngôi sao nào. Khi tôi trèo lên đến nửa đường, một tiếng hét kinh hoàng khiến tôi ngẩng đầu lên. Hai bóng người nổi lên trên khung cảnh như bức tranh thủy mặc vẽ bằng màu xám. Một trong hai bóng người đó là Maxime, bóng người còn lại là một kẻ xa lạ đang đẩy cậu ta ngã xuống qua lan can. Tôi hét lên một tiếng và lao chạy để giúp cậu bạn một tay, nhưng khi tôi lên đến nơi thì đã quá muộn. Maxime vừa lao thẳng xuống từ độ cao gần mười mét.
Tôi lao đi đuổi theo kẻ tấn công, nhưng với cái mắt cá chân bị trẹo, tôi không thể đi xa được. Khi tôi quay trở lại, một nhóm nhỏ người dự tiệc đã đến bên Maxime và gọi cấp cứu.
Nước mắt trào ra khiến mắt tôi nhòe đi. Trong một thoáng, tôi tưởng như vừa nhìn thấy bóng ma của Vinca đang lang thang giữa đám cựu học sinh. Chẳng khác nào một bóng ma hiện hình, trắng muốt và đầy quyến rũ như có từ tính, cô gái trẻ hiện ra từ trong bóng đêm, mặc một chiếc váy hai dây, áo vest da màu đen, đi tất lưới và bốt da thấp cổ.
Vượt ngoài mọi mong đợi, bóng ma có vẻ sống động hơn tất cả những người đang vây quanh nó.
AnnabelleThứ Bảy, ngày 19/12/1992
Tôi tên là Annabelle Degalais. Tôi ra đời tại Ý vào cuối những năm 1940, trong một ngôi làng nhỏ ở Piemonte. Ở trường học, lũ trẻ đặt biệt danh cho tôi là Người Áo. Còn bây giờ, ở trường trung học, với các học sinh và giáo viên, tôi là Cô hiệu trưởng. Tôi tên là Annabelle Degalais, và trước khi buổi tối hôm nay kết thúc, tôi sẽ trở thành một kẻ giết người.
Tuy nhiên, chẳng có điều gì trong buổi chiều tàn này cho tôi biết trước về cái kết tồi tệ của ngày đầu tiên trong kỳ nghỉ của trường. Chồng tôi, Richard, đã đi nghỉ cùng hai trong số ba đứa con của chúng tôi, để lại tôi một mình chèo lái ngôi trường. Tôi đã làm việc bận rộn suốt từ sáng sớm, nhưng tôi thích hành động và ra quyết định. Thời tiết xấu đã phá rối cuộc sống ở địa phương, và gây ra cảnh lộn xộn đến khó tin. Đến 18 giờ là thời điểm đầu tiên trong ngày rốt cuộc tôi cũng có thể hít thở đôi chút. Bởi vì chiếc bình giữ nhiệt của tôi rỗng không, nên tôi quyết định sẽ đi lấy trà ở máy bán hàng tự động đặt trong phòng giáo viên. Tôi chỉ vừa mới đứng dậy khỏi ghế thì cửa văn phòng bật mở và một cô gái trẻ bước vào dù không được mời.
“Chào Vinca.”
“Chào.”
Tôi nhìn Vinca Rockwell và bắt đầu cảm thấy lo âu.
Mặc dù trời rất lạnh, cô ta chỉ mặc một chiếc váy ngắn bằng vải tartan, một áo vest da và đi đôi bốt cao gót. Tôi nhận ra ngay là cô ta đang phê thuốc.
“Tôi có thể làm gì cho cô?”
“Đưa thêm cho tôi bảy mươi lăm ngàn franc nữa.”
Tôi hiểu rõ Vinca và đánh giá cao cô ta, mặc dù biết rõ con trai tôi yêu cô ta và nó đau khổ vì chuyện đó. Cô ta là một trong những học sinh thuộc câu lạc bộ kịch của tôi. Một trong những học sinh tài năng nhất. Vừa có đầu óc lại vừa gợi cảm, lại thêm nét điên rồ khiến cô ta càng thêm quyến rũ. Cô ta có học thức, có khiếu nghệ sĩ, học hành xuất sắc. Thậm chí cô ta còn từng cho tôi nghe những bài hát dân ca mà cô ta tự sáng tác. Những điệp khúc thanh nhã có vẻ đẹp bí ẩn, chịu ảnh hưởng của PJ Harvey và Leonard Cohen.
“Bảy mươi lăm ngàn franc?”
Cô ta đưa cho tôi một cái phong bì bằng giấy kraft, và không chờ được mời, thả người ngồi phịch xuống chiếc ghế bành trước mặt tôi. Tôi mở phong bì và xem những bức ảnh. Tôi ngạc nhiên nhưng không sững sờ. Tôi không bị ảnh hưởng, bởi vì tất cả các quyết định mà tôi từng đưa ra trong đời mình đều nhằm đến một mục tiêu duy nhất: không bao giờ để mình bị tổn thương. Và đó là sức mạnh của tôi.
“Cô có vẻ không được ổn lắm, Vinca ạ,” tôi vừa nói vừa đưa trả cô ta chiếc phong bì.
“Chính bà sẽ là người không ổn khi tôi công bố với phụ huynh học sinh những bức ảnh về ông chồng đồi bại của bà.”
Tôi nhìn thấy cô ta run lập cập. Cô ta có vẻ vừa bồn chồn, vừa phấn khích lại vừa rũ rượi.
“Tại sao cô lại đòi tôi đưa thêm bảy mươi lăm ngàn franc nữa? Richard đã đưa tiền cho cô rồi sao?”
“Ông ấy đưa cho tôi một trăm ngàn franc, nhưng thế là chưa đủ.”
Gia đình Richard chưa bao giờ có lấy một xu trong túi. Toàn bộ tiền trong nhà tôi đều thuộc về tôi. Tôi thừa kế số tiền ấy từ cha nuôi, Roberto Orsini, ông đã tự tay kiếm được nó, bằng việc xây những tòa biệt thự trên khắp bờ biển Địa Trung Hải.
“Tôi không có số tiền ấy trong người, Vinca ạ.”
Tôi cố kéo dài thời gian, nhưng cô ta không để bản thân bị đe dọa:
“Bà xoay xở đi! Tôi muốn có tiền trước khi dịp cuối tuần này kết thúc.”
Tôi hiểu rằng cô ta đang mất phương hướng và mất kiểm soát. Chắc chắn là do tác động của rượu pha thuốc.
“Cô sẽ chẳng có được gì hết,” tôi nói đầy tàn nhẫn. “Đối với lũ tống tiền, tôi chỉ có sự khinh bỉ thôi. Richard thật ngu ngốc nên mới đưa tiền cho có.”
“Được lắm, chính bà đã muốn thế đấy nhé!” cô ta vừa đe dọa vừa đứng dậy rồi đóng sầm cửa lại sau lưng.
*Tôi ngồi lại trong văn phòng một lát. Tôi nghĩ đến con trai tôi, thằng bé yêu Vinca đến điên cuồng và đang bỏ bê hết chuyện học hành chỉ vì cô ta. Tôi nghĩ đến Richard, kẻ chỉ biết suy nghĩ bằng cái bìu của ông ta. Tôi nghĩ đến cái gia đình mà tôi phải bảo vệ, và tôi nghĩ đến Vinca. Tôi biết chính xác cái thứ hào quang độc địa kia của cô ta từ đâu mà ra. Chính là từ việc tất cả chúng tôi, không ai có thể hình dung cô ta sau này trông sẽ thế nào. Cứ như thể cô ta chỉ là một ngôi sao băng, và định mệnh của cô ta là không bao giờ vượt quá lứa tuổi đôi mươi đặc biệt kia.
Sau khi suy nghĩ hồi lâu, tôi rời văn phòng, hòa vào bóng đêm và khó nhọc bước đi trong tuyết, đến tận tòa nhà Nicolas-de-Staël. Tôi phải tìm cách lý giải cho cô ta hiểu. Khi mở cửa phòng cho tôi vào, cô ta tưởng là tôi đến để đưa tiền.
“Nghe ta nói này, Vinca. Cháu không được khỏe. Ta đến đây để giúp cháu. Hãy giải thích cho ta nghe tại sao cháu làm việc này. Tại sao cháu lại cần tiền?”
Nghe đến đó, cô ta như thể phát điên, và tiếp tục đe dọa tôi. Tôi đề nghị mời bác sĩ đến khám cho cô ta, hoặc đưa cô ta đến bệnh viện.
“Cháu đang trong trạng thái không bình thường. Chúng ta sẽ tìm ra một cách để giải quyết vấn đề của cháu.”
Tôi cố gắng trấn an cô ta, dốc toàn bộ khả năng thuyết phục để cô ta tin tôi, nhưng chẳng có tác dụng gì cả. Vinca như người bị quỷ ám, và có thể làm bất cứ điều gì. Cô ta hết khóc lóc lại cười sằng sặc. Rồi đột nhiên, cô ta lôi từ trong túi ra một cái que thử thai.
“Chính ông chồng yêu quý của bà đã làm chuyện này đấy!”
Lần đầu tiên từ rất lâu rồi, tôi, người phụ nữ không bị tác động bởi bất cứ chuyện gì, bỗng cảm thấy bất ổn. Một miệng hố sâu hoắm đột ngột mở ra trong tôi mà tôi không biết phải làm thế nào để ngăn nó lại. Một cơn chấn động nội tâm khiến tôi kinh hoàng. Tôi nhìn thấy cuộc đời mình đang bắt lửa. Cuộc đời tôi và cuộc sống của toàn bộ gia đình tôi. Không thể có chuyện tôi để mặc mà không làm gì. Tôi không thể chấp nhận việc cuộc sống của chúng tôi bị thiêu rụi thành một đống tro tàn bởi đứa con gái mười chín tuổi khốn kiếp này. Trong lúc Vinca tiếp tục khiêu khích tôi, tôi nhìn thấy bản sao một bức tượng của Brancusi. Một món quà tôi đã mua ở bảo tàng Louvre đề tặng cho con trai, và Thomas đã vội vàng tặng lại cho Vinca. Một tấm màn trắng lướt qua trước mắt tôi. Tôi vớ lấy bức tượng và giáng thẳng vào đầu Vinca. Dưới cú đánh dữ dội ấy, cô ta gục xuống chẳng khác nào một con búp bê vải.
*Cú choáng váng (black-out) kéo dài một lúc lâu, như thể trong khi ấy thời gian đã ngừng lại. Không còn tồn tại bất cứ thứ gì.
Tâm trí tôi đờ ra, giống hệt như hình ảnh khung cảnh bên ngoài bị đông cứng dưới tuyết. Khi bắt đầu tỉnh trí trở lại tôi nhận thấy Vinca đã chết. Điều duy nhất tôi thấy cần làm lúc đó là cố gắng tranh thủ thời gian. Tôi lôi Vinca đến tận giường và đặt cô ta nằm nghiêng, giấu vết thương kia đi, rồi kéo chăn đắp lên người cô ta.
Tôi đi ngang qua khuôn viên trường, thê thảm như một bóng ma trên đồng hoang, để tìm lại bầu không khí ấm áp trong văn phòng. Ngồi trong ghế bành của mình, tôi cố gọi cho Francis, ba lần liền, nhưng ông ấy không trả lời. Lần này thì tất cả chấm hết rồi.
Tôi nhắm mắt để cố gắng tập trung, mặc dù tâm trạng đang rất bấn loạn. Cuộc đời đã dạy tôi rằng nhiều vấn đề có thể giải quyết được bằng cách suy nghĩ. Ý tưởng đầu tiên lướt qua đầu tôi, ý tưởng rõ ràng nhất, chính là chỉ cần tôi loại bỏ cái xác của Vinca trước khi người ta tìm thấy nó. Có thể làm việc đó, nhưng rất khó khăn. Tôi đã lập ra cả đống giả thuyết và kịch bản, nhưng rốt cuộc vẫn quay về điểm xuất phát với cùng một kết luận: việc cô gái thừa kế của gia đình nhà Rockwell mất tích ngay trong trường trung học này sẽ gây ra một con chấn động thực sự. Người ta sẽ huy động những phương tiện ngoại hạng để tìm kiếm cô ta. Cảnh sát sẽ lục tung mọi ngóc ngách trong trường, thực hiện tất cả các giám định khoa học, hỏi han học sinh, điều tra về những người có mối liên hệ với Vinca. Có thể sẽ có những nhân chứng về việc cô ta dan díu với Richard. Người đã chụp những bức ảnh kia rốt cuộc cũng sẽ lộ diện để tiếp tục việc tống tiền hoặc giúp đỡ cảnh sát. Không có lối thoát nào hết.
Lần đầu tiên trong đời, tôi bị mắc kẹt. Buộc phải đầu hàng. Đến 10 giờ tối, tôi quyết định gọi cho đội cảnh binh. Tôi đang chuẩn bị nhấc điện thoại lên thì nhìn thấy Francis đi dọc theo tòa nhà Agora, cùng với Ahmed, để tiến về phía văn phòng của tôi. Tôi bước ra gặp ông. Cả Francis cũng có vẻ mặt rất lạ, vẻ mặt tôi chưa từng nhìn thấy.
“Annabelle!” ông hét lên, đồng thời ngay lập tức hiểu ra rằng có chuyện gì đó không ổn.
“Em đã làm một chuyện khủng khiếp,” tôi vừa nói vừa trốn vào vòng tay ông.
*Rồi tôi kể cho ông nghe cuộc chạm trán kinh khủng giữa tôi và Vinca Rockwell.
“Dũng cảm lên, ông thì thầm khi cuối cùng tôi cũng im tiếng, bởi vì anh phải nói với em một chuyện.”
Tôi tưởng mình đang ở trên miệng vực, nhưng lần thứ hai trong ngày hôm đó, tôi nghẹt thở và không còn chút tự chủ nào khi Francis kể cho tôi nghe việc Alexis Clément bị giết và Thomas cùng Maxime là thủ phạm. Ông nói với tôi rằng ông cùng với Ahmed đã lợi dụng các công trình xây dựng trong trường để nhét cái xác vào tường tòa nhà thể chất. Ông thú nhận với tôi rằng lúc đầu ông định sẽ không nói gì với tôi, để bảo vệ tôi.
Ông siết chặt tôi trong vòng tay, đảm bảo với tôi rằng ông sẽ tìm ra một giải pháp, nhắc tôi nhớ đến tất cả những thử thách mà chúng tôi từng vượt qua trong đời mình.
*Chính ông là người đầu tiên nảy ra ý tưởng đó.
Ông nhận xét với tôi rằng, thật ngược đời, nhưng hai người bị mất tích thì lại khiến người ta đỡ lo lắng hơn là một người. Rằng vụ giết Vinca có thể giúp xóa bỏ vụ giết Alexis và ngược lại, nếu chúng tôi có thể gắn kết được số phận họ với nhau.
Trong suốt hai giờ đồng hồ dài dằng dặc, chúng tôi tìm kiếm kịch bản phù hợp nhất. Tôi cho ông biết lời đồn đại về mối quan hệ giữa Vinca và Alexis. Tôi bảo ông rằng con trai tôi đã kể với tôi về những bức thư đã làm trái tim nó tan nát và khẳng định lời đồn đại kia là đúng. Francis lạc quan trở lại, nhưng tôi thì không được lạc quan như ông. Cho dù chúng tôi có làm hai cái xác biến mất thành công, thì việc điều tra vẫn sẽ tập trung xung quanh trường học, và áp lực giội xuống đầu chúng tôi sẽ kinh khủng không thể chịu nổi. Ông đồng ý với tôi, cân nhắc thiệt hơn, thậm chí còn dự định chính ông sẽ ra đầu thú và nhận trách nhiệm về hai vụ giết người kia. Đây là lần đầu tiên trong đời mình, hai chúng tôi bị dồn đến bước phải đầu hàng. Không phải vì thiếu nhiệt tình hay dũng khí, mà đơn giản là vì có những cuộc chiến ta không thể nào giành chiến thắng.
Đột nhiên, trong đêm tối tĩnh mịch, tiếng đập cửa khiến chúng tôi giật mình. Cả tôi và Francis đồng loạt quay nhìn ra cửa sổ. Một cô gái, khuôn mặt thất thần, đang gõ liên hồi vào của kính. Không phải là bóng ma của Vinca Rockwell quay lại ám chúng tôi. Mà là cô bé Fanny Brahimi, người đã được tôi cho phép ở lại ký túc xá trong các kỳ nghỉ của trường.
“Thưa cô hiệu trưởng!”
Tôi đưa ánh mắt lo lắng nhìn Francis. Fanny ở cùng tòa nhà với Vinca. Tôi biết chắc điều cô bé sắp nói với tôi: cô bé đã nhìn thấy cái xác không hồn của cô bạn gái.
“Thế là hết rồi, Francis ạ,” tôi nói. “Chúng ta buộc phải gọi cảnh sát thôi.”
Nhưng cánh cửa văn phòng tôi bật mở và Fanny nức nở nhào vào vòng tay tôi. Ngay lúc đó, tôi còn chưa biết rằng Chúa vừa gửi đến cho tôi giải pháp để giải quyết tất cả các vấn đề chúng tôi đang gặp phải. Chúa của người Ý. Vị Chúa mà chúng tôi cầu nguyện khi còn nhỏ, trong nhà thờ bé tẹo ở Montaldicio.
“Cháu đã giết Vinca!” cô bé tự kết tội mình. “Cháu đã giết Vinca!”
Chú Thích:
Tiếng Anh trong nguyên bản, có thể hiểu chung là những mẩu hội thoại ngắn, đôi khi là để khai mào cho một cuộc đối thoại dài hơn, nhưng đôi khi chỉ là những mẩu chuyện tán gẫu ngắn nơi công sở hay mấy lời chào hỏi xã giao giữa những người ít quen biết.
Cachaça là một loại rượu rhum Brazil, được làm bằng cách chưng cất nước mía lên men và có nồng độ cồn từ 38-54%, được dùng để pha cocktail caïpirinha.
Cú ngất trong giây lát – tiếng Anh trong nguyên bản.