Mười Sáu
Tôi đạp nhẹ giày vào chiếc đĩa đựng bánh quy socola, tạo nên âm thanh leng keng vang vọng khắp khu đất trống. Xung quanh tôi bốn hình hài đang nằm một cách lười biếng trên thảm cỏ rừng, tiếng ngáy của Bernard dường như mỗi lúc một to hơn. Tôi thở dài, cảm giác như mình là một thiếu niên đang tuổi khó chiều không thể tìm đường ra. Helena, người mà tôi đã không nói chuyện với trong vòng một tiếng đồng hồ, nhướng lông mày nhìn tôi, cố che giấu sự thích thú mặc dù tôi biết rõ rằng chị đang rất vui thích với mỗi phút giây tôi bị tra tấn thế này. Một giờ qua tôi đã “tình cờ” đá vào cái tách sứ, đánh rớt một gói bánh quy lên người Joan và có một trận ho khá to. Mặc dầu vậy họ vẫn ngủ và Helena tảng lờ không bắt chuyện và thậm chí không có ý định đưa tôi ra khỏi khu rừng để đến với một cuộc sống khác mà cô đã từng nhắc tới.
Nghe thấy tiếng cười, tôi cố thử tìm đường ra nhưng thay vào đó tôi thấy mình bị bao vây bởi hàng ngàn cây thông đang chòng chọc nhìn tôi như trêu ngươi. Và tôithấy rằng đế lạc đường một lần là quá đủ rồi, để lạc lần thứ hai trong một hoàn cảnh chẳng lấy gì làm thoải mái như thế này thì quả là ngu xuẩn.
"Họ thường ngủ trong bao lâu'" tôi hỏi to bằng một giọng uế oải, hy vọng tiếng nói của tôi sẽ đánh thức họ dậy.
"Họ thích có một giấc ngủ đủ 8 tiếng."
"Thế họ có ăn không?”
"Ba lần một ngày, thường là đồ ăn đặc. Chị dẫn họ đi dạo mỗi ngày hai lần. Bernard đặc biệt thích trò này.”
Cô cười xa xăm như đang hồi tưởng. "Và sau đó họ cùng làm những công việc cá nhân thường ngày, cô nói.
"Ý em là họ có ăn ở đây không?" Tôi nhìn quanh khu đất trống một cách ghê tởm, không còn quan tâm câu nói ấy có xúc phạm đến khu nghỉ dưỡng cắm trại hàng năm này của họ hay không. Tôi không thể giấu sự âu lo đang dâng trào trong mình nhưng tôi ghét bị trói buộckiểu này. Tôi đã đến và đi trong cuộc sóng của mình và của người khác khi nào tôi thích. Tôi chưa bao giờ ở nhà ba mẹ đẻ của tôi quá lâu, thường là vơ vội túi hành lý để cạnh cửa và chạy biến luôn. Nhưng ở đây, tôi không có nơi nào để đi cả.
Một tiếng cười từ đâu đó vọng lại.
“Tiếng gì vậy?”
“Chị cho rằng mọi người gọi đó là tiếng cười.” Helena cuộn tròn trong chiếc túi ngủ của chị, nhìn rất ấm áp và đỏm dáng.
“Chị có luôn gặp phải những vấn đề về thái độ?” Tôi hỏi.
“Chị ý à?”
“Đúng thế,” tôi nói chắc chắn và chị cười. Tôi thôi không càu nhàu nữa và cũng cười lại. “Chỉ vì em đã ngồi trong khu rừng này hai ngày trời rồi.”
“Đó có phải là một lời xin lỗi?”
“Em không xin lỗi. Trừ phi em thực sự phải làm thế.”
“Em làm chị nhớ tới thời chị còn trẻ. Trẻ hơn bây giờ. Giờ chị vẫn trẻ mà. Điều này khiến em dễ cáu kỉnh ở cái tuổi còn trẻ như vậy?”
“Em không phải là người vì mọi người.” Tôi nhìn quanh khi nghe thấy một tiếng cười nữa.
Helena tiếp tục nói như thể không hề nghe thấy tiếng gì. “Tất nhiên em không phải là kiểu người đó. Em chỉ dành rất nhiều quyết tâm trong cuộc đời mình để đi tìm những người khác.”
Tôi ghi nhận câu nói của chị nhưng quyết định không đáp lời lại.
"Chị không nghe thấy những âm thanh đó à?"
"Chị lớn lên cạnh một ga tàu. Khi những người bạn ngủ lại nhà chị, họ thức trắng cả đêm vì tiếng ồn và sự rung lắc. Còn chị thì lại quá quen với tiếng ồn đó tới mức chị không còn nghe thấy gì, vậy mà chỉ tiếng cót két cầu thang mỗi lần ba mẹ chị đi ngủ cũng đủ đánh thức chị dậy. Em lập gia đình chưa?"
Tôi nhướng mắt nhìn chị.
"Chị coi đó là câu trả lời không của em. Thế em có bạn trai chưa? "
" Thỉnh thoảng?'
"Em có đứa con nào không?"
"Em không thích trẻ con.” Tôi hít hà không khí. "Mùi gì vậy? Và ai đang cười? Có ai đó đang ở gần đây à?"
Đầu tôi lắc xung quanh giống như một con chó đang cố tớp một con ruồi đang bay. Tôi không thể phân biệt những âm thanh đó đến từ đâu. Dường như nó đến từngay đằng sau tôi nhưng khi tôi quay lại thì âm thanh đó lại đến to hơn từ một hướng khác.
"Ở khắp nơi.” Helena giải thích một cách lười biếng.
"Cái mà những người mới đến đây so sánh với dàn âm thanh da chiều. Chắc em phải hiểu hơn chị chứ?'
"Ai tạo ra âm thanh đó và có ai đó đang hút xì gà à?
Tôi hít không khí.
“Em hỏi nhiều câu hỏi quá đấy.”
“Thế chị không như thế khi lần đầu đến đấy à? Helena, em không biết mình đang ở đâu và điều gì đang xảy ra, và chị thì chẳng giúp được nhiều cho em.”
Cuối cùng Helena cũng có một chút bối rối. “Chị xin lỗi. Chị không còn nhớ hồi đó thế nào nữa.” Chị dừng lại và lắng nghe. “Tiếng cười và những mùi này mới thâm nhập vào không khí này mà thôi. Cho tới giờ em đã biết gì về những người ở đây?”
“Họ là những người mất tích”
“Đúng thế. Cho nên những tiếng cười, tiếng khóc và cả những mùi hương vọng tới đây cũng là những thứ bị mất tích.”
“Sao có thể thế được?” tôi hỏi, cảm thấy khó hiểu.
“Đôi khi có những thứ khác bị mất, chứ không chỉ đơn thuần là những đôi tất, Sandy. Có thể em quên đã để chúng ở đâu. Quên một điều gì đó chỉ là một phần của việc trí nhớ bị mất, đó là tất cả.”
“Nhưng chị có thể nhớ lại mà.”
“Đúng, nhưng em không thể nhớ tất cả mọi thứ và em không thể tìm ra tất cả mọi thứ. Có những thứ nằm lại đây mãi mãi, giống như những cái đụng chạm và mùi vị của một người nào đó, ký ức về khuôn mặt và giọng nói của họ.”
"Điều đó thật kỳ lạ.” Tôi lắc đầu, không thể hiểu.
"Rất đơn giản nếu em hiểu như thế này. Mọi sự vật trong cuộc sống này đều có chỗ của nó và khi một vật di chuyển, nó phải đi tới một chỗ nào đó. Đây chính là chỗ mà tất cả những thứ đó đi tới. Chị giơ cao hai tay khoát rộng ra xung quanh. Một ý nghĩ bất chợt xuất hiện trong tôi. "Đã bao giờ chị nghe thấy tiếng cười hay tiếng khóc của chính mình chưa?"
Helena gật đầu buồn bã. "Rất nhiều lần.”
“Nhiều lần?" Tôi hỏi, vô cùng ngạc nhiên.
Chị cười. "Ồ, chị có niềm vinh hạnh lớn lao là được rất nhiều người yêu quý. Càng nhiều người yêu quý, thì càng có nhiều người ở ngoai kia mất trí nhớ. Đừng làm bộ mặt đó, Sandy. Nó không tuyệt vọng như cô nghĩ đâu. Mọi người không giả dò mất trí. Mặc dù luôn có một vài điều chúng ta muốn thà quên đi còn hơn.” Cô nhắm mắt. "Đó có thể là tiếng cười thực của chị đã bị thay thế bởi một trí nhớ mới, hoặc là một vài tháng sau khi chị mất tích, căn phòng và quần áo của chị không còn mùi hương cơ thể nữa, cái mùi hương họ cố gắng rất nhiều để nhớ về nó đã thay đổi. Chị chắc chán rằng ký ức của chị về khuôn mặt của mẹ chị khác xa so với khuôn mặt thực tế của mẹ nhưng, bốn mươi năm sau và không có ai gợi nhớ lại, làm sao trí nhớ của chị có thể biết chính xác? Em không thế giữ gìn mọi thứ mãi mãi, cho dù em có cố gắng nắm chặt chúng tới đâu.”
Tôi nghĩ tới cái ngày tôi có thể nghe thấy tiếng cười của chính mình vọng về trong đầu, và tôi biết nó chỉ có thể xảy ra một lần vì chỉ có duy nhất một người biết tiếng cười và tiếng khóc thật của tôi nghe như thế nào.
“Tất cả đều giống nhau,” Helena nhìn lên bầu trời đã trong xanh trở lại, đôi mắt lóng lánh nước, “đôi khi chị cảm thấy như đang đuổi theo chúng và bắt chúng trở lại nơi chúng đã từng ra đi. Trí nhớ của chúng ta là kênh liên lạc duy nhất mà chúng ta có. Chúng ta có thể ôm, hôn, cười và khóc với chúng hàng ngàn lần trong trí nhớ của chúng ta. Chúng là những thứ vô cùng quý giá mà chúng ta có.”
Những tiếng cười lặng lẽ, tiếng huýt gió, tiếng khịt mũi và tiếng cười rúc rích len lỏi trong không khí, dội vào tai chúng tôi qua những cơn gió, những cơn gió nhẹ thoảng bay mang theo hương vị xa xôi như mùi hương đã bị quên lãng trong ngôi nhà thời niên thiếu; một cái bếp sau một ngày nướng bánh. Đó là mùi hương từ những đứa trẻ, giờ đã lớn, mà người mẹ đã quên lãng: phấn thoa em bé, mùi tã giấy Sudocrem, làn da ngọt như kẹo. Rồi mùi ẩm mốc, già nua yêu thích của ông bà mình: mùi hoa oải hương của bà, mùi thuốc lá, xì gà và khói thuốc của ông. Còn cả mùi hương của những đôi lứa yêu nhau bị mất thích: mùi nước hoa và nước dưỡng ngọt ngào sau khi cạo râu, hương thơm từ những ngày nằm nướng trễ nải trên giường vào buổi sáng hay đơn giản chỉ là một mùi hương của ai đó không thế lý giải nổi còn vương lại trong phòng. Những mùi hương cũng đặc biệt như chính người mang chúng vậy.
Tất cả những hương vị bị thất lạc trong cuộc sống con người đều hội tụ về đây. Tôi không thề làm gì khác ngoài việc nhắm mắt lại và hít thật sâu những hương vị đó và cười ngất khi nghe thấy âm thanh xung quanh mình.
Joan cựa quậy trong túi ngủ và tôi thoát ra khỏi trạng thái hôn mê. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi nhận ra cuối cùng mình đã nhìn thấy cuộc sống ở ngoài khu rừng.
"Chào buổi sáng, Joan,” Helena hát thật to để đánh thức Bernard dậy. Anh chàng giật mình tỉnh giấc, ngóc đầu dậy và phát hiện bộ quần áo kẻ sọc như những sợi mỳ Ý của anh bị treo lộn phía bên kia. Anh nhìn quanh một cách ngái ngủ, tay dò dẫm tìm đôi mắt kính.
"Chào buổi sáng, Bernard,” Helena nói to nhằm đánh thức cả Marcus và Derek.
Tôi cố nhịn cười.
"Đây, những giọt cà phê nóng hổi để làm mấy người tỉnh giấc đây.”
Nói rồi chị ấn những ly cà phê còn bốc hơi ra trước mặt họ.
Họ nhìn chị chưa hết ngái ngủ và bối rối. Khi họ còn chưa kịp uống ngụm cà phê đầu tiên, Helena tung chăn và đứng dậy.
“Thôi, chúng ta loanh quanh ở đây thế là đủ rồi đấy. Hãy đi thôi.”
Chị gấp chăn gọn gàng và gói ghém những vật dụng khác.
“Sao chị phải nói to thế và sao chúng ta phải vội vàng vậy?” Joan đầu tóc bối rù, thì thầm như thể cô vẫn còn choáng váng sau cơn say rượu.
“Một ngày mới đã bắt đầu, chúng ta hãy uống đi và sẽ trở về sớm sau khi làm xong mọi thứ.”
“Vì sao?” Joan hỏi, nhanh chóng uống từng ngụm cà phê.
“Thế còn bữa sáng thì sao?” Bernard rên rỉ như một đứa trẻ.
“Chúng ta sẽ ăn sáng khi quay về.” Helena giật lại ly cà phê từ tay anh ta, hất phần cà phê còn lại trong cốc qua vai và gói chiếc cốc lại vào túi. Tôi phải nhìn đi chỗ khác để không phá lên cười.
“Sao chúng ta phải vội vàng?” Marcus hỏi. “Mọi việc ổn cả chứ?” anh nhìn Helena chăm chú, vẫn thắc mắc về sự hiện diện của tôi.
“Tất cả đều ổn, Marcus.” Helena đặt một tay lên vai anh trấn tĩnh. “Chỉ là Sandy có một vài việc phải làm.” Chị cười, nhìn về phía tôi.
Tôi có việc phải làm ư?
"Ồ, thật tuyệt. Cô chuẩn bị diễn một vở kịch à? Đã lâu lắm rồi chúng ta chưa diễn vở kịch nào,” Joan nói đầy hào hứng.
"Tôi hy vọng cô sẽ cho chúng tôi biết trước ngày thử giọng để chúng tôi có thời gian chuẩn bị. Đã khá lâu rồi,” Bernard tiếp lời một cách lo lắng.
"Đừng lo,” Helena ngắt lời, "cô ấy sẽ báo cho các bạn.”
Miệng tôi há hốc nhưng Helena giơ tay ngăn không cho tôi phản đối.
"Đã bao giờ cô nghĩ mình sẽ sáng tác nhạc chưa?" Derek vừa hỏi vừa cất chiếc đàn guitar vào túi. "Chắc chắn sẽ có nhiều người thích tham gia vào vở nhạc kịch này đấy.”
"Khả năng đó rất cao.” Helena nói như để cho qua chuyện với một đứa trẻ.
"Liệu có phải thử giọng theo nhóm không?" Bernard hỏi, có phần lo lắng.
"Không, không,” Helena cười và cuối cùng tôi đã hiểu ý cô muốn gì. "Tôi nghĩ Sandy sẽ muốn dành ít thời gian với riêng từng người một. Vì vậy, cô giật chiếc chăn của Bernard ra khỏi đôi vai anh và gập nó lại trong khi anh chàng há hốc mồm nhìn theo, “chúng ta chuẩn bị sẵn tinh thần để dẫn Sandy đi vòng quanh. Cô ấy cầntìm một địa điểm đẹp cho buổi diễn.”
Bernard và Joan ngay lập tức ở tư thế sẵn sàng đi.
“Tuy nhiên, chị muốn hỏi em một câu,” Helena thì thầm, “em có làm việc gì trước khi tới đây không?”
“Ý chị chính xác là gì?”
“Em có đang làm một công việc gì đó hoặc đang theo dõi dấu vết của một người nào đó khi em đến đây không. Đso là một câu hỏi quan trọng nhưng chị đã quên không hỏi em.”
“Có và không,” tôi trả lời. “Em đang chạy bộ dọc theo cửa sông Shannon rồi bỗng em thấy mình ở đây, nhưng lý do em đến Limerick là vì công việc. Em vừa nhận tham gia một vụ việc chỉ năm ngày trước đó.” Tôi nghĩ tới cú điện thoại nhận từ Jack Ruttle đêm khuya hôm đó.
“Lý do chị hỏi vì chị băn khoăn không biết chuyện gì xảy ra với cái người trong số hàng trăm người mất tích mà em đang tìm kiếm, người mà vì họ em đã lạc tới đây. Em có mối quan hệ chặt chẽ với anh ta sao?” Tôi lắc đầu nhưng lập tức nhận ra tôi đã không nói thật hoàn toàn. Những cuộc nói chuyện điện thoại đêm khuya với Jack Ruttle khác rất nhiều so với những trường hợp khác. Đó là những cuộc điện thoại tôi luôn mong chờ, anh là người tôi có thể nói cùng về nhiều chủ đề khác, không chỉ là công việc. Càng nói chuyện nhiều với anh chàng Jack dễ thương đó, tôi càng làm việc cật lực để cố gắng tìm ra em trai anh ta. Chỉ có một người duy nhất nữa trong cuộc đời tôi có thể đem lại cho tôi cảmgiác tương tự.
"Tên người bị mất tích đó là gì?"
"Donal Ruttle,” Tôi nói, vẫn còn nhớ đôi mắt biết cười từ trong tấm hình.
Helena nghĩ một lúc. "Có thể đã đến lúc chúng ta bắt đầu rồi. Có ai ở đây biết Donal Ruttle là ai không?"
Cô nhìn quanh.