← Quay lại trang sách

Hai Mươi Hai

Vậy Joseph là thợ mộc. Còn chị làm gì, Helena?” Tôi hỏi Helena khi chúng tôi tản bộ dọc theo lối mòn trong làng.

Helena mỉm cười.

Chúng tôi đi qua ngôi làng, lang thang băng qua những cánh đồng xanh vàng rực rỡ, điểm xuyết bởi những con người đến từ mọi quốc gia đang cặm cụi làm đồng. Họ trồng bất cứ thứ gì, tất cả những thứ mà tôi đã từng hoặc chưa từng nghe tới. Hàng chục những ngôi nhà kính ẩn hiện, dân làng đang cố gắng trồng mọi thứ có thể. Cũng giống như con người ở đây, thời tiết nơi này cũng đa dạng không kém. Chỉ mới vài ngày tôi đã trải qua cái nóng ngột ngạt, một trận sấm sét, cơn gió xuân và cái lạnh lẽo mùa đông. Tôi cho rằng chính sự bất ổn của thời tiết giải thích vì sao cây cối, hoa cỏ và cây trồng kỳ lạ ở nơi đây có thể chung sống hòa bình trong cùng một môi trường. Sự lý giải đối với con người, tôi vẫn chưa tìm ra. Nhưng dường như chẳng có một quy luật tự nhiên nào tồn tại ở đây. Bốn mùa trong một ngày là điều được chấp nhận, được chào đón và được thích nghi. Lúc này trời đã ấm trở lại khi chúng tôi đi tản bộ bên nhau, tôi cảm thấy được tái sinh sau một giấc ngủ dài chưa từng có kể từ khi tôi là một đứa trẻ. Kể từ khi Jenny-May.

“Từ khi Jenny-May thế nào?” Gregory luôn hỏi tôi như vậy. “Từ khi cô bé biến mất?”

“Không, chỉ từ khi Jenny-May, thế thôi,” tôi đáp.

Sáng hôm đó tôi bắt gặp người mà tôi đã tìm kiếm 12 năm qua. Helena giục tôi tiến tới, vội vàng che chiếc miệng đang há hốc và búng ngón tay trước đôi mắt tròn xoe của tôi. Tôi bị choáng ngợp bởi sự hiện diện của người đó, mà tôi thì chưa bao giờ bị choáng ngợp cả. Tôi chết lặng người đi, tôi chưa bao giờ như thế. Đột nhiên tôi cảm thấy đơn độc, và tôi không bao giờ đơn độc. Nhưng thời gian gần đây tôi làm những điều mà tôi chưa bao giờ làm. Sau quá nhiều năm tìm kiếm, một điều gần như không thể nhưng lại rõ ràng như chính sự hiện diện của Helena là những gương mặt tôi gặp trong giấc mơ quay lại lởn vởn trong tôi sau khi tôi tỉnh giấc.

“Hãy bình tĩnh,” đã hơn một lần Helena thì thầm vào tai tôi.

Robin Geraghty là hồn ma đầu tiên mà tôi gặp. Chúng tôi ngồi ở căng tin, một ngôi nhà gỗ hai tầng lộng lẫy, có ban công bao quanh bốn hướng nhìn ra khu rừng, nhìn lên núi và nhìn ra những cánh đồng vẽ nên một bức tranh thiên nhiên hoàn hảo. Đó không phải là một cái căng tin ních đầy người như tôi tưởng tượng, mà là một tòa nhà xinh đẹp nơi phục vụ bữa sáng, trưa và tối cho dân làng; một hệ thống được tạo ra để giúp quay vòng thức ăn họ thu hoạch và trồng trọt được. Tiền mà tôi được học, không có giá trị ở nơi này, ngay cả khi với những chiếc ví dày cộm. “Tại sao phải tiêu tiền vào những thứ dư thừa hằng ngày?” Helena giải thích bằng một câu hỏi.

Ngay phía trước tòa nhà, chiếc cổng gỗ được trang trí công phu bằng tay như chiếc cửa của phòng đăng ký. Nhờ vào sự phong phú ngôn ngữ của ngôi làng, Helena giải thích, những nét chạm trổ đã trở thành phương pháp hiệu quả nhất, thu hút nhất trong việc trưng bày mục đích sử dụng của tòa nhà. Những cây nho, rượu và bánh mì khổng lồ được trang trí phía trước, trông sinh động đến mức dù biết chúng chỉ là những nét chạm trổ trên gỗ nhưng tôi không thể không đưa tay mân mê dọc theo những đường cong uyển chuyển.

Khi đang từ quầy để thức ăn quay về bàn, tôi suýt đánh rơi khay bánh rán và ly frappacino khi nhìn thấy Robin. (Hình như là hộp thức ăn biến mất từ xe tải giao hàng Krispy Kreme đã xuất hiện ngoài bìa ngôi làng sáng hôm đó khiến tôi vô cùng thích thú. Tôi nhìn thấy một người giao hàng với hồ sơ giao nhận trên tay; anh ta tảng lờ những lời lăng mạ của người quản lý cửa hàng đang tức giận trong khi vò đầu bứt tai tính lại lượng hàng trong chiếc xe tải đổ ở khu bốc dỡ hàng đông đúc bên ngoài một cửa hiệu ở khu trung tâm New York, còn tôi và một dãy những người đang xếp hàng phía sau thọc tay vào trong giỏ ở một nơi đã biến mất từ lâu.) Sự xuất hiện của Robin khiến tôi suýt làm mình bị bỏng, ly frappacino cũng hoảng sợ theo, chao đảo.

Robin Geraghty biến mất vào lúc sáu tuổi. Cô bé chơi ở khu vườn trước nhà thuộc vùng ngoại ô Bắc Dublin lúc 11h sáng nhưng đã không còn ở đấy nữa khi mẹ cô ra tìm vào lúc 11h05. Tất cả mọi người – ý tôi là mọi người – gia đình, toàn quốc, Cục Cảnh sát Gardaí, bao gồm cả tôi lúc đó vẫn đang làm trong Cục Cảnh sát, tất cả đều cho rằng cô bé bị hàng xóm bắt cóc. Ông già Dennis Fairnam 55 tuổi là một người kỳ quặc, sống một mình chẳng bao giờ giao tiếp với ai ngoại trừ Robin mỗi khi lão đi ngang qua cô bé, là người mà cha mẹ của cô đặt nhiều nghi ngờ.

Ông ta khẳng định mình không làm điều đó. Ông thề với tôi ông không làm; ông lặp đi lặp lại rằng cô bé là bạn của ông và rằng ông không thể và sẽ không bao giờ làm hại cô bé. Không một ai tin ông – tôi không tin ông – nhưng chúng tôi không có gì để chứng minh ông là kẻ có tội. Chúng tôi thậm chí còn không có một người làm chứng. Người đàn ông ngày đêm bị dày vò bởi những người hàng xóm, bởi giới truyền thông, bởi những câu hỏi liên tục của cảnh sát đến mức ông đã phải tự tử, một dấu hiệu chắc chắn đối với cha mẹ và những người khác về sự phạm tội của ông ta. Nhưng khi một Robin 19 tuổi lướt qua tôi và đi về phía quầy thức ăn, tôi cảm thấy choáng váng.

Mặc dù Robin bị thất lạc năm 6 tuổi, tôi biết đó chính là cô ấy ngay khoảnh khắc tôi đưa mắt từ nhìn Krispy Kreme sang cô gái trẻ đi ngang qua. Một bức hình cô bé làm từ máy vi tính xuất hiện rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và được cập nhật vài năm một lần. Tôi ghi nhớ bức hình đó, và nghĩ về nó mỗi ngày như một phần của việc kiểm tra trí nhớ của tôi khi bắt gặp những gương mặt quen thuộc. Tấm hình dựng lại bằng máy tính không khác lắm, mặc dù mặc cô có tròn hơn, tóc đen hơn, hông cô uyển chuyển hơn và mắt cô có hồn hơn như thể những gì cô đã trải qua đã khiến chúng thay đổi ngoại trừ màu mắt. Đó là những thứ mà một tấm hình không truyền tải được. Nhưng đó đích thực là cô.

Tôi không thể dùng bữa sáng; thay vào đó tôi đến ngồi cùng bàn với gia đình Helena trong trạng thái bàng hoàng, con bé Wanda theo dõi tôi và bắt chước nhất cử nhất động của tôi. Tôi phớt lờ con bé và những lời lảm nhảm của nó về một người nào đó tên Bobby, tôi không thể nào thôi dõi theo Robin trong lúc cố gắng hiểu cảm giác của mình khi nhìn thấy cô gái trẻ, về cuộc sống của cô ấy, về những gì cô ấy làm trong 12 năm qua. Những cảm xúc lẫn lộn trong tôi, hạnh phúc đắng cay, vì mặc dù tất cả những người mà tôi đã nóng long tìm kiếm đang ở xung quanh đây, thì cũng chính là khi tôi nhận ra phần lớn cuộc đời mình tôi đã tìm kiếm sai chỗ. Đó là khoảnh khắc bạn gặp thần tượng của mình, khi tất cả những điều ước của bạn trở thành hiện thực; đó là cảm gaics của sự thất vọng thầm kín.

Helena và tôi dừng lại ở một cánh đồng hoang đầy màu sắc, màu vàng Bermuda rực rỡ của cây mao lương, màu xanh và tím của cây viễn chí, những cây hoa cúc, hoa bồ công anh và những cây cỏ dài; hương thơm ngọt ngào khiến tôi nhớ lại những giây phút cuối cùng tôi hít hà bầu không khí ở Glin.

“Cái gì ở đằng kia vậy?” Tôi chỉ vào những tòa nhà nhô lên phía sau những khóm cây bulô bạc, cây sồi đang lột vỏ, lớp vỏ đen và trắng bóc của thân cây.

“Đó là một ngôi làng khác,” Helena giải thích. “Mỗi ngày lại có thêm những người mới đến, chúng tôi không thể nào dồn hết mọi người vào trong ngôi làng nhỏ bé này. Quá nhiều nền văn hóa sẽ không thể hòa nhập trong cùng một môi trường như thế này. Đó là các ngôi nhà của những người như thế.” Chị hất đầu về hướng những hàng cây, những ngọn núi phía xa.

Tôi vẫn không thôi suy nghĩ về điều đó. “Vậy là còn nhiều người em từng tìm kiếm ở đó?”

“Có thể,” chị gật đầu. “Họ cũng có văn phòng đăng ký như ở đây vì vậy tất cả những cái tên sẽ được lưu lại, chị không chắc họ sẽ cung cấp thông tin vì thường những thông tin này được giữ kín ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Hy vọng chúng ta sẽ không phải tìm họ. Họ sẽ tìm đến em.”

Tôi mỉm cười trước sự trớ true này. “Chính xác kế hoạch mà chị đang ấp ủ là gì vậy?”

“Ồ,” chị mỉm cười và mắt ánh lên nét tinh quái, “dựa vào những cái tên em cung cấp, Joan đang lên danh sách những người sẽ tham gia buổi thử giọng cho một vở kịch Ai-len mới,” chị nhấc tay tôi lên và xem đồng hồ, “còn hai tiếng nữa”.

Tôi cảm thấy lo lắng về cuộc gặp gỡ với những người như Robin nhưng kế hoạch của Helena khiến tôi bật cười. “Chắc chắn phải có cách nào đó dễ hơn.”

“Dĩ nhiên.” Helena khoác chiếc khăn long màu vàng chanh qua vai. “Nhưng điều này thú vị hơn nhiều.”

“Điều gì khiến chị nghĩ rằng những người trong danh sách của em sẽ đến buổi thử giọng?”

“Em đùa đấy à?” Chị ngạc nhiên. “Em không nhìn thấy Bernard và Joan ư? Hầu hết mọi người ở đây đều thích tham gia vào các hoạt động, đặc biệt là những chương trình được tổ chức bởi những người đồng hương.”

“Điều đó sẽ không làm cho các cộng đồng không phải người Ai-len ghen tị đấy chứ?” Tôi nửa đùa nửa thật. “Em không muốn họ nghĩ em đang loại họ ra khỏi chương trình vĩ đại của mình.”

“Không đâu,” Helena cười, “mọi người sẽ vui vẻ với buổi trình diễn của chúng ta.”

“Buổi trình diễn? Ý chị là chúng ta sẽ thực sự diễn một vở kịch?” Mắt tôi mở to.

“Đương nhiên rồi!” Helena cười. “Chúng ta không thể kéo 20 người đến buổi thử giọng chỉ để nói với họ sẽ chẳng có một vở kịch nào, nhưng chính xác là vở kịch gì thì chúng ta còn chưa quyết định.”

Cơn đau đầu trở lại. “Hôm nay ngay khi em nói chuyện với mọi người, họ sẽ sớm nhận ra vai trò của em trong việc tuyển chọn diễn viên không thua gì cơ hội Bernard nhận được vai chính.”

Helena lại cười. “Đừng lo, mọi người sẽ không nghi ngờ gì đâu, và thậm chí nếu có họ cũng chẳng hơi đâu mà bận tâm. Ở đây, con người có khuynh hướng tìm kiếm bản thân; họ dùng trải nghiệm này như một cơ hội thứ hai trong đời. Nếu ở nhà em không có một công ty tuyển chọn diễn viên, không có nghĩa là ở đây em cũng không có. Càng ở đây lâu em sẽ càng cảm thấy được sự than thiện giữa những con người với nhau.”

Tôi có nhận thấy điều đó. Bầu không khí thư giãn; con người hiền hòa và thực hiện những nhiệm vụ hằng ngày một cách hiệu quả, không vội vã hay hoang mang. Có một căn phòng để thở, một khoảng không để suy nghĩ, thời gian để sử dụng một cách khôn ngoan và những bài học cần ghi nhớ. Những người đã một lần bị biến mất dành thời gian để nhìn nhận, để yêu, để nhớ và để hồi tưởng. Việc thuộc về một nơi nào đó là cần thiết, thậm chí nếu điều đó có nghĩa là tham gia vào một vở kịch hão huyền.

“Joseph sẽ không phiền long nếu anh ấy không được tham gia chứ?”

“Ồ, chị không nghĩ điều đó gây phiền toái gì cho anh ấy dù nhỏ nhất,” Helena nói.

“Joseph đến từ Kenya à?”

“Đúng vậy.” Chúng tôi bắt đầu bách bộ quay về phía ngôi làng. “Dọc theo bờ biển Watamu.”

“Cái tên mà anh ấy gọi em ngày hôm qua, nó có ý nghĩa gì vậy?’

Vẻ mặt của Helena thay đổi và tôi biết chị đang giả vờ lờ đi. “Ý em là gì?”

“Thôi nào, Helena, em đã trông thấy gương mặt chị lúc anh ấy gọi em bằng cái tên đó. Chị đã rất ngạc nhiên. Em không thể nhớ được từ ấy, Kalla… Kappa hay gì đó, nó nghĩa là gì?”

Chị nhăn trán lại giả vờ như đang suy nghĩ, “Xin lỗi, Sandy, chị không biết. Thật long chị không nhớ.”

Tôi không tin chị. “Có phải chị đã nói với anh ấy nghề nghiệp của em?”

Gương mặt của chị biến sắc như cái nhìn ngạc nhiên ngày hôm qua.

“Bây giờ thì anh ấy biết em làm gì, dĩ nhiên, nhưng lúc đó thì không.”

“Anh ấy không biết khi nào?”

“Khi anh ấy gặp em.”

“Dĩ nhiên là anh ấy không thể biết. Em không nghĩ anh ấy là thánh, em chỉ muốn biết anh ấy đã nói gì.” Tôi dừng bước, long đầy thất vọng. “Helena, làm ơn hãy thẳng thắn với em. Em không thể giải mấy câu đố này.”

Mặt chị đỏ lên. “Em phải hỏi anh ấy, Sandy, vì chị không biết. Dù nó là gì đi nữa, thì đó hẳn thuộc ngôn ngữ mẹ đẻ Kiswahili của anh ấy, mà chị thì còn lâu mới trở thành chuyên gia của thứ ngôn ngữ đó.”

Tôi tin chắc chị đang nói dối và vì vậy chúng tôi bước đi trong im lặng. Tôi xem đồng hồ lần nữa, hồi hộp khi chỉ chút nữa thôi tôi sẽ được chia sẻ với những người ở đây thông tin về gia đình họ ở nhà. Những lời nhắn nhủ trong những lời cầu nguyện hằng đêm được gửi đến đây và được kể lại. Tôi nghi ngờ khả năng mình truyền tải những tình cảm ấy một cách chính xác. Điều tôi nói với Helena hôm trước đã trở thành sự thật: Tôi không phải là một người của công chúng, tôi tìm kiếm mọi người không có nghĩa là tôi muốn dành thời gian ở bên cạnh họ. Thắc mắc về việc Jenny-May đi đâu không có nghĩa là tôi muốn đến đó hay mong ước cô ấy trở về.

Cũng như mọi khi, bằng bản năng của mình, Helena nắm bắt được những cảm xúc của tôi. “Thật tuyệt khi cuối cùng chị đã có thể kể cho Joseph về gia đình mình,” chị nói dịu dàng. “Bọn chị đã nói về họ cho đến khi mí mắt sụp xuống và chị đã mơ về họ trong những giấc ngủ cho đến khi mặt trời mọc. Chị mơ về mẹ và sự ngăn nắp của bà, về cha và những lần ông tìm kiếm chị.” Chị nhắm mắt. “Sáng nay chị thức dậy ở nơi này, khó khăn lắm chị mới định hình được mình đang ở đâu sau những giấc mơ dài về nơi chị đã lớn lên.”

“Em xin lỗi nếu đã làm chị buồn,” Tôi nói. “Em không chắc mình sẽ làm thế nào để kể cho mọi người những điều mà gia đình họ gửi gắm.” Tôi xoay chiếc đồng hồ vòng quanh cổ tay trong lúc chúng tôi tản bộ, ước gì dòng thời gian đang chạy tíc tắc quanh cổ tay kia quay ngược trở lại.

Helena mở mắt và tôi thấy mắt chị ngân ngấn nước mắt nước mắt đọng ở hàng mi dưới của chị tạo thành một hồ nước mờ ảo. “Đừng nghĩ đó là lỗi của em, Sandy.Những câu chuyện của em khiến chị cảm thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều – làm sao mà chị lại không cảm thấy thế kia chứ?” Gương mặt chị sáng lên. “Chị thức dậy biết rằng mình có một người mẹ ở đâu đó vẫn quan tâm đến mình. Hôm nay chị cảm thấy được che chở, giống như chị đang được bao bọc trong một chiếc chăn tàng hình. Em biết đấy, em không phải là người duy nhất có những câu hỏi dài được giải đáp. Giờ đây trong đầu chị đã có những hình ảnh mà trước kia chưa từng có. Chị đã tích lũy và lưu giữ một danh mục đầy đủ thông tin, tất cả chỉ trong một đêm.

Tôi chỉ biết gật đầu. Không có gì để nói.

“Với những người này em sẽ ổn thôi; chị tin em sẽ còn hơn ổn đấy chứ. Bao lâu nữa thì những người trong danh sách của em sẽ đến?”

Tôi nhìn đồng hồ. “Một tiếng rưỡi nữa.”

“Đúng, trong 90 phút nữa, tất cả mọi người sẽ ở đó, tập trung hoàn toàn vào giây phút ngắn ngủi trong cuộc đời họ, gọi Romeo từ một chiếc ban công hoặc diễn lại cảnh trốn thoát vĩ đại bằng kịch câm.”

Tôi cười.

“Bất cứ điều gì em nói với họ đều đáng quý, dù em có diễn đạt nó như thế nào đi nữa.”

“Cảm ơn chị, Helena.”

“Không có gì.” Chị vỗ nhẹ vào tay tôi và tôi cố để ngăn mình không bị hóa đá.

Tôi nhìn xuống trang phục của mình. “Còn một chuyện nữa. Em mặc bộ quần áo thể thao này đã mấy ngày và em thực sự muốn thay bộ khác. Chị có bộ nào em có thể mượn không?”

“Ồ, đừng lo về điều đó,” Helena nói, đi về phía những hàng cây. “Em cứ đợi ở đây; chị sẽ trở lại ngay.”

“Chị đi đâu thế?”

“Chỉ một phút thôi…” Giọng chị tan dần trong bóng tối cùng với mái tóc muối tiêu ngắn và chiếc khăn choàng màu vàng cam.

Tôi dậm chân một cách thiếu kiên nhẫn, tự hỏi và lo lắng không biết chị đi đâu. Tôi không thể mất Helena vào lúc này. Ngẩng đầu lên tôi phát hiện chiều cao vượt trội của Joseph đang bước ra khỏi khu rừng, một tay vác những khúc gỗ mới đốn được, tay kia cầm rìu.

"Joseph!" tôi gọi.

Anh nhìn lên và cầm rìu vẫy lại, một cử chi không lấy gì làm vồn vã, anh đi về phía tôi. Chiếc đầu hói của anh bóng lộn như cẩm thạch được đánh bóng, làn da hoàn mỹ của anh khiến anh trẻ hơn tuổi rất nhiều.

"Mọi việc ổn cả đấy chứ?" anh hỏi đầy quan tâm.

"Vâng, em nghĩ vậy. Thật ra em cũng không biết nữa." Tôi băn khoăn nói. "Helena vừa biến mất vào trong rừng và-"

"Cái gì?" Mắt anh tối sầm lại.

“Ý em không phải là biến mất. Tôi nhận ra sai sót của mình. "Chị ấy đi, đi vào trong rừng cách đây vài phút." Việc biến mất từ nơi này là điều không tưởng, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi Joseph giật mình. "Chị ấy nói em đợi ở đây."

Anh đặt chiếc rìu xuống và nhìn khu rừng, "Cô ấy sẽ trở lại, cô gái Kipepeo. Anh ôn tồn nói.

" Điều đó có nghĩa là gì? "

"Nó nghĩa là cô ấy sẽ trở lại," anh mỉm cười.

"Không phải điều đó - cái từ kenya mà anh vừa nói nghĩa là gì?"

"Đó chính là cô," anh nói một cách uể oải, mắt không rời khỏi những hàng cây.

"Cái đó là?"

Trước khi anh có cơ hội tranh câu hỏi, Helena đã xuất hiện trở lại, kéo theo một vật gì đó trông như túi hành lý phía sau. "Chị đã tìm thấy cái này cho em. Ồ, chào anh, anh yêu. Em nghĩ em nghe thấy tiếng anh đang nạo mủ cây ở đâu đó. Trên chiếc túi ghi tên Barbara Langley đến từ Ohio. Hy vọng cô Barbara nào đó đến từ Ohio cũng có đôi chân dài." Chị thả chiếc túi xuống cạnh chân tôi và phủi bụi trên tay.

"Cái gì vậy?" tôi ngỡ ngàng hỏi, ngó nghiêng chiếc bảng hiệu trên quai túi. "Cái này bị bỏ lại New York cách đây hơn 20 năm.”

"Tuyệt vời, em sẽ trông đáng yêu như những người hệ trước," Helena đùa.

"Em không thể mặc quần áo của người khác, tôi phản đối.

"Sao lại không? Em dã chẳng định mặc quần áo của chị đấy thôi," Helena cười.

"Nhưng em biết chị!"

"Đúng vậy, nhưng em cũng không thể biết được người nào đã mặc chúng trước khi chị mặc," chị trêu chọc, quay lại nhìn tôi. "Thôi nào, chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa? Chúng ta phải đi đến buổi thử giọng bây giờ," chị giải thích với Joseph, anh nghiêm nghị gật đầu và nhấc chiếc rìu lên.

Tôi nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ đã biến mất.

"Ôi chết tiệt," tôi lầm bầm, thả chiếc balô xuống đất, tìm quanh chân mình.

"Chuyện gì vậy?" Helena và Joseph dừng bước, quay lại.

"Chiếc đồng hồ của em lại rơi khỏi cổ.tay rồi," tôi lầm bầm, đứng lùi lại, sục sạo tìm trên mặt đất.

"Lại rơi à?"

"Cái chốt của đồng hồ bị gãy. Thỉnh thoảng nó lại bung ra và rơi xuống đất. Giọng tôi như nghẹn lại khi tôi quỳ xuống và tìm kiếm kỹ hơn trên mặt đất.

“Ồ, em còn đang đeo nó cách đây một phút vì vậy nó không thể rơi ở đâu xa. Hãy nhấc cái túi lên nào," Helena bình tĩnh nói.

Tôi nhìn bên dưới chiếc túi.

"Thật nực cười.” Helena tiến đến chỗ tôi đứng và nhìn sát xuống mặt đất. "Em có đi đâu khi chị vào trong rừng không?"

"Không, em không đi đâu cả. Em đã đợi chị ngay ở đây cùng Joseph.” Tôi quỳ xuống, bắt đầu bò lê quanh sàn đất dơ bẩn.

“Chiếc đồng hồ không thể biến mất được, Helena nói không một chút lo lắng. "Chúng ta sẽ tìm ra nó, chúng ta luôn luôn tìm được, ở nơi này.”

Tất cả chúng tôi đứng bất động nhìn quanh khu đất nhỏ mà tôi đã không hề di chuyển ra khỏi đó trong hơn 5 phút vừa rồi. Nó không thể rơi ở một nơi nào khác được. Tôi giũ tay áo, lục tung các túi trên người, kiểm tra chiếc túi để xem chiếc đồng hồ có rơi vào trong không. Không có gì, không một dấu vết, không một nơi nào.

“Nó có thể rơi ở đâu được kia chứ?” Helena lẩm bẩm, kiểm tra trên mặt đất.

Joseph, hầu như không mở miệng nói một lời nào kể từ khi gặp chúng tôi, vẫn đứng yên một chỗ từ lúc đó đến giờ. Mắt anh đen như than, như hút hết mọi ánh sáng xung quanh. Chúng nhìn tôi không rời.

Chỉ nhìn.