Hai Mươi Ba
Tôi mất nửa tiếng đồng ngầm kiếm chiếc đồng hồ trên dường, đi đi lại lại những nơi đã đi qua trong nỗi án ảnh thường trực. Tôi lùng sục những bụi cây bên mé cánh đồng hoang và đào tay sâu vào trong lòng đất giữa rừng. Chẳng thấy chiếc đồng hồ đâu cả nhưng điều này quên mình đang ở đâu và quên hết tất cả những việc đã xảy ra, và trong những khoảnh khắc ấy, tôi lại là tôi với một mục tiêu duy nhất. Tìm kiếm. Như khi tôi 10 tuổi lục tìm chiếc tất như thể nó quý giá như viên kim cương quý hiếm nhất thế giới; nhưng lần này thì khác, chiếc đồng hồ còn đáng giá hơn nhiều.
Joseph và Helena nhìn tôi đầy lo lắng khi tôi nhổ từng ngọn cỏ, lần theo những đám cây để tìm món trang sức quý giá đã ngự trên cổ tay tôi 13 năm trời. Việc chiếc đồng hồ không còn ở lại nơi nó cần phải ở sau chừng ấy thời gian cũng giống hệt như những mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa tôi với người đã tặng nó cho tôi. Nhưng thậm chí vào những thời điểm chiếc đồng rời khỏi tầm ngắm của tôi và biến mất, biến về hướng ngược lại hoàn toàn với hướng mà tôi đang đi, tôi vẫn không ngừng tìm kiếm và vẫn luôn muốn tiến gần đến nó. Điều này cũng giống như mối quan hệ của tôi.
Helena và Joseph đã không giả bộ giống như ba mẹ tôi giả bộ khi tôi lao vào trò chơi tìm kiếm lúc còn bé. Hai người tỏ ra lo lắng và họ có quyền như vậy, bởi vì đối với những người, những người không nói gì, có thể hoặc đã từng biến mất ở nơi này, họ thường thấy khó khăn trong việc diễn tả cảm xúc bằng lời nói. Ít nhất đó cũng là những gì trực giác của tôi mách bảo. Còn lý trí của tôi nhận ra một điều rõ ràng rằng những lo lắng của họ chỉ đơn thuần là vì tôi, lúc này đang quỳ trên tay và đầu gối, người bám đầy bụi bẩn, cỏ dại và những tạp chất dơ bẩn.
“Chị nghĩ em nên ngừng tìm kiếm đi,” Helena nói với một chút thích thú hiện trên gương mặt. "Em còn phải gặp nhiều người ở hội trường, chưa kế bây giờ em cần tắm rửa và thay quần áo.”
“Họ có thế đợi mà,” tôi nói, đưa tay nhổ những đám cỏ, cảm nhận đất đang đóng cục bên dưới móng tay.
“Họ đợi như thế là đủ rồi,” Helena nói như ra lệnh, “và rõ ràng em cũng vậy. Hãy ngừng ngay việc tránh né đối diện thực tế và đi với chị.”
Tôi ngừng nhổ cỏ. Đó là từ mà tôi thường nghe từ miệng Gregory. “Tránh”. Hãy ngừng tránh mọi thứ đi Sandy... Phải chăng đó là điều tôi đang làm? Làm thế nào tôi có thế tránh né mọi việc bằng cách tập trung toàn tâm vào một việc và từ chối việc từ bỏ nó, những việc luôn luôn vượt ra ngoài tầm với của tôi. Tránh nghĩa làm theo một hướng khác. Đó là những người như Gregory, cha mẹ tôi và bây giờ là Helena và Joseph, những người luôn tránh đối diện với thực tế là có những thứ bị thất lạc và không thể tìm ra. Tôi ngước nhìn Helena, chị trông như một con búp bê bên cạnh Joseph khổng lồ. "Em thật sự cần phải tìm ra chiếc đồng hồ.”
"Và em sẽ tìm thấy, chị nói một cách quá dễ dàng khiến tôi phải tin theo. Mọi thứ luôn luôn hiện ra ở đây. Joseph nói sẽ để mắt giúp em, và có lẽ Bobby sẽ biết một vài điều khác."
"Bobby là ai mà em cứ nghe mọi người nhắc đến hoài vậy?” tôi vừa hỏi vừa đứng dậy.
"Cậu ta làm việc ở phòng Tìm kiếm Đồ Thất lạc,” Helena vừa giải thích vừa đưa lại túi hành lý tôi vừa quăng ra giữa đường.
"Tìm kiếm Đồ Thất lạc,” tôi lắc đầu, cười.
"Chị ngạc nhiên là em đã không dừng lại ở cửa trước,” Helena dịu dàng nói.
"Chắc hẳn chị đang nghĩ đến Amsterdam, tôi mỉm trời Trán Helena nhăn lại. '”Amsterdam? Em đang nói gì vậy?”
Tôi phủi bụi trên người, bỏ lại việc tìm kiếm sau lưng. “Helena, chị có quá nhiều thứ cần phải học.”
"Một lời khuyên tuyệt vời, từ một người vừa mới trải qua 30 phút đào bới đất bằng tay và đầu gối.”
Chúng tôi bỏ lại Joseph đứng giữa đường, tay chống trên hông, củi và rìu đặt dưới chân, tiếp tục tìm kiếm trên con đường đất bụi bặm.
Tôi tới Hội trường với trang phục của Barbara Langley đến từ ohio. Chân cô ấy dường như không đài lắm và cô ta thích váy ngắn, quần da mà tôi thậm chí chẳng dám thử Một số thứ khác mà cô ta chẳng may không được mặc trong chuyến đi New York là những chiếc áo len kẻ sọc có đệm vai chạm tới tận dái tai của tôi và những chiếc áo khoác đính huy hiệu mang biểu tượng hòa bình, những biểu tượng Âm Dương, mặt cười màu vàng và cờ Mỹ. Tôi chúa ghét những năm đầu của thập kỷ 80; tôi không hề muốn tái sinh lại thời kỳ đó.
Helena cười khi trông thấy tôi mặc chiếc quần Jean màu xanh ngắn trên mắt cá chân, tất trắng, mang dôi giầy thể thao và chiếc áo thun đen đính huy hiệu mặt cười vàng.
" Chị có nghĩ Barbara Langley chơi cho ban nhạc The Breakfast Club không'" Tôi hỏi, lê bước ra khỏi phòng tắm như một đứa trẻ bị bắt phải thay bộ quần áo hàng ngày bằng một chiếc đầm thắt nơ chỉn chu dành cho buổi ăn tối ngày Chủ nhật với toàn rau xanh.
Helena có vẻ bối rối. "Chị không biết cô ấy là thành viên của nhóm nhạc nào mặc dù chị có thấy một vài người khác cũng phục trang tương tự như vậy ở đây.”
Cuối cùng thì tôi cũng làm điều mà tôi cho rằng mình sẽ không bao giờ làm là lấy thêm những bộ quần áo tươm tất nằm dọc đường khi chúng tôi đi vào làng.
"Sau đó chúng ta có thể đến gặp Bobby, Helena cố gắng làm tôi vui vẻ lên. "Cậu ta có cả một bộ sưu tập quần áo khổng lồ để lựa chọn, ngoài ra còn có một vài nhà thiết kế ở xung quanh đó.”
“Em sẽ chỉ lấy một vài bộ quần áo đã dùng rồi thôi," tôi thích thế hơn. "Em sẽ không còn ở đây vào lúc họ may xong một tủ quần áo cho em."
Điều đó khiến chị cười nhiều đến mức làm tôi khó chịu.
Hội trường là một tòa nhà dựng bằng gỗ sồi quý giá với chiếc cửa chính có hai cánh cửa tương tự như những chiếc khác. Trên cánh cửa là những nét chạm trổ đầy ấn tượng mô tả những nhóm người đang ngồi bên nhau, vai chạm vai, tay trong tay, trong khi tóc và quần áo bay trong gió dính chặt vào những bức tường gỗ. Helena đẩy cánh cửa cao 3 mét 6 và đám đôn rẽ ra cho chúng tôi bước vào.
Đằng xa phía đầu Hội trường là một sân khấu dài 12 mét. Những hàng ghế bằng gỗ sồi chắc chắn được xếp xung quanh ba cạnh sân khấu và cả ở tầng thứ hai dành cho dàn đồng ca. Tấm rèm nhung dỏ được vén lên và được giữ lại hai bên cánh gà bởi những sợi dây thừng to màu vàng. Toàn bộ chiều dài của phông nền phía sau sân khấu là một tấm vải bạt được trang trí bởi nhiều bàn tay vẽ bằng màu đen. Những bàn tay này kích thước khác nhau, mô tả các lứa tuổi từ lúc còn là những đứa bé con đến khi già đi với ít nhất một trăm bàn tay ngang dọc. Nổi lên trên là những dòng chữ được viết bằng nhiều ngôn ngữ nhưng khi đọc dòng chữ tiếng Anh, tôi thấy đó chính là câu "Sức mạnh và Hy vọng”. Một câu nói quá quen thuộc với tôi.
“Đó là bàn tay của mỗi người đang sống hoặc đã sống ở đây trong ba năm qua. Trong Hội trường của một làng đều có kiểu trang tương tự như vậy. Tôi cho rằng đây chính là biểu tượng của chúng tôi buổi này.”
“Em nhận ra nó,” tôi nói to suy nghĩ của mình.
"Ồ không, không thể nào.” Helena lắc đầu, "Hội trường là nơi duy nhất em có thể tìm thấy nó ở trong làng.”
"Không, em đã nhìn thấy nó từ khi còn ở nhà kia. Có một bia tưởng niệm quốc gia giống hệt như thế này ở sân lâu đài Kilkenny. Mỗi dấu bàn tay được đúc từ bàn tay thực sự của một thân nhân người bị mất tích. Bên cạnh nó là một tảng đá khắc dòng chữ-" Tôi nhắm mắt và hồi tưởng lại dòng chữ khắc mà tôi đã mân mê ngón tay trên đó không biết bao nhiêu lần - "Công trình điêu khắc và khu vực mô phỏng này để tưởng nhớ những người bị mất tích. Mong rằng gia đình và bạn bè đến thăm sẽ tìm thấy ở đây sức mạnh và hy vọng.” Khuôn bàn tay của mẹ chị cũng được khắc ở đó.”
Helena như thể đang nín thở nhìn tôi, cô đợi tôi bằng cách nào đó nói rằng tôi đang đùa. Tôi không đùa và cô thở ra từ từ.
"Chị không biết phải nói sao.” Giọng chị run rẩy và chị quay sang nhìn những bức họa trên tường. "Joseph nghĩ đó là một ý tưởng hay khi mọi người thực hiện bức họa đó. Chị lắc đầu hoài nghi. "Hãy đợi cho đến lúc anh ấy nghe những gì em vừa nói với chị.”
"Wow,” tôi ngỡ ngàng nhìn những khu vực khác trong tòa nhà. Nơi này giống như một nhà hát hơn là một Hội trường.
"Nơi này có thể chứa 250 người,” Helena giải thích, tiếp lời tôi, mặc dù có vẻ hơibị phân tâm. "Những chiếc ghế sẽ được chuyển đi chỗ khác nếu chúng tôi cần thêm chỗ nhưng rất hiếm có sự kiện nào thu hút tất cả mọi người cùng tham gia. Nơi này được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như bỏ phiếu bầu cử, diễn đàn thảo luận giữa hội đồng dân cử và cộng đồng, phòng triển lãm nghệ thuật, những cuộc tranh luận, thậm chí là một nhà hát cho những dịp hiếm hoi có các vở kịch được dàn dựng. Nó còn được sử dụng cho nhiều mục đích khác nữa.”
"Ai là người trong hội đồng bầu cử?"
"Là đại diện của mỗi quốc gia trong làng. Chỉ riêng ngôi làng này đã có hơn 1 00 quốc gia và mỗi ngôi làng lại có một hội đồng riêng. Có hàng chục ngôi làng như thế.”
"Vậy điều gì diễn ra ở những buổi họp hội đồng?" Tôi hỏi với sự thích thú.
"Cũng giống như bất cứ nơi nào trên thế giới, tất cả những việc cần được thảo luận và quyết định sẽ được đem ra thảo luận và quyết định.”
"Mức độ phạm tội ở đây như thế nào?"
"Ở mức thấp nhất.”
"Làm thế nào duy trì được điếu đó? Dọc đường đi tới đây em không hề thấy sự hiện diện của pháp luật trên đường phố. Làm thế nào có thể giữ được người dân sống và làm việc theo đúng luật lệ?"
"Có một hệ thống luật pháp được áp dụng hàng trăm năm nay. Chúng tôi có tòa án, viện phục hồi nhân phẩm và một hội đồng an ninh, nhưng để mọi quốc gia tuân thủ theo một hệ thống luật duy nhất không phải lúc nào cũng dễ dàng. Ít nhất thì hội đồng cũng khuyến khích thảo luận và tranh luận.”
"Vậy đây là nơi để bầu cử? Liệu họ thực sự có bất cứ quyền lực nào không?"
"Quyền lực mà chúng tôi đã trao cho họ. Mọi người đều nhận được một trong những cuốn sách này trong tập thông tin khi họ đến đây,” Helena lấy một quyển sách nhỏ từ giá sách treo trên tường. "Em chắc hẳn cũng có một quyển nếu em chịu khó tìm trong tập tài liệu của mình. Trong đó có cả những nguyên tắc hướng dẫn cách biểu quyết.”
Tôi lướt qua cuốn sách nhỏ, đọc lớn: “Hãy bình chọn cho những người có khả năng lắng nghe và đưa ra quyết định thay cho người dân với tinh thần đồng tâm nhất trí và mang lại an sinh cho cả cộng đồng,” tôi cười. "Khác nào hô khẩu hiệu -- hai chân tốt, bốn chân xấu?"
“Đó là những nguyên tắc cơ bản để trở thành một lãnh đạo giỏi.”
"Vậy cuốn sách nhỏ này dạy cách làm thế nào để chọn một vị lãnh đạo?" Tôi tự mãn hỏi.
"Chị nghĩ như vậy.” Chị đi về phía Joan đang đứng ở phía cuối căn phòng. "Nhìn xem, Joseph nằm trong ban hội đồng thành phố.”
Tôi há hốc miệng nhìn chị băng qua phòng. "Joseph?”
"Em có vẻ ngạc nhiên.”
"Đúng vậy, em rất ngạc nhiên. Anh ấy dường như quá…” Tôi lựa lời giải thích để không làm chị cảm thấy bị xúc phạm. "Anh ấy là thợ mộc, rốt cuộc tôi cũng nói ra.
"Những người thuộc hội đồng thành phố là những người bình thường với công việc hàng ngày của riêng mình. Anh ấy chỉ đơn thuần được gọi tới để nêu ý kiến khi một quyết định cần được công bố.”
Tôi không thể ngừng cười. "Em cảm thấy tất cả mọi người ở đây đang đóng vai "gia đình”, chị biết không thật khó để nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc,” tôi cười. "Thôi nào. Ý em là chúng ta đang ở giữa hư không và ở đây có hội đồng, có tòa án và ai mà biết được còn những gì khác nữa.”
"Em thấy điều đó buồn cười lắm sao?”
"Đúng thế! Đâu đâu em cũng nhìn thấy mọi người phục trang bằng những trang phục của người khác. Làm thế nào nơi này, dù cho đây là đâu, tôi nhấn mạnh, "có bất kỳ trật tự hay quy tắc gì? Nơi này tồn tại hoàn toàn không hợp lý. Nơi này thiếu hoàn toàn tính thực tế.”
Ban đầu Helena dường như cảm thấy bị xúc phạm nhưng sau đó chị trở nên đồng cảm với tôi, điều đó khiến tôi khó chịu. "Đấy chính là cuộc sống, Sandy, cuộc sống thực. Sớm hay muộn em sẽ nhận ra ở đây không ai đóng kịch cả. Tất cả chúng tôi chỉ tiếp tục cuộc sống và làm những gì có thể để cuộc sống trở nên bình thường nhất, cũng giống như những người khác ở những quốc gia khác, trong những thế giới khác. Chị tiến về phía Joan. "Công việc với danh sách của Sandy tiến triển đến đâu rồi?" chị hỏi, kết thúc cuộc tranh luận của chúng tôi.
Joan ngạc nhiên nhìn lên, "Ồ, xin chào. Tôi không nghe thấy hai người đi tới. Trông em rất khác, chị liếc nhìn bộ trang phục từ thập niên 80 của tôi một lần nữa.
"Chị đã liên lạc với tất cả mọi người trong danh sách rồi chứ?" Tôi hỏi, làm ngơ trước cái liếc mắt không tán thưởng của chị.
"Chưa, chưa đủ tất cả mọi người," chị nói, nhìn xuống bản danh sách.
“Để em xem." Tôi chụp lấy tập giấy ghi chép trên tay chị, lượng adrenalin trong cơ thể của tôi tăng lên một cách đột ngột. Tôi đưa mắt lướt qua danh sách ba mươi cái tên mà tôi đã đưa ra: gần một nửa trong số đó được đánh dấu bên cạnh. Joan tiếp tục nói khi tôi đọc qua những cái tên một cách nhanh chóng đến mức tôi khó có thể nhớ chúng ngay được. Tim tôi đập loạn cả lên, và cứ một nhịp đập trôi qua mắt tôi dừng lại ở một cái tên và tôi nhận ra người đó còn sống và khỏe mạnh, và rằng chúng tôi sẽ sớm gặp nhau.
"Như tôi đã nói,” Joan lên tiếng, tức giận vì tôi đã chen ngang câu chuyện của chị, "Terence ở phòng đăng ký không giúp được gì vì anh ta không thể cung cấp bất kỳ thông tin nào nếu không có ai đó từ hội đồng thành phố chính thức đưa ra yêu cầu." Cô nhìn Helena đầy ngụ ý. "Vì vậy, tôi đã phải hỏi xung quanh làng. Nhưng Sandy, em sẽ vui khi biết cộng đồng người Ai-len ở đây rất nhỏ và mọi người ai cũng biết nhau.
"Nói tiếp đi,” Helena giục.
"Tôi đã tiếp xúc với khá nhiều người, mười hai người tổng cộng," chị nói tiếp. "Tám người quan tâm đến buổi thử giọng, bốn người khác nói rằng họ muốn tham gia vào vở kịch theo một cách nào đó nhưng chắc chắn không phải là đứng trên sân khấu. Nhưng tôi đã không liên lạc được với..., để tôi xem" chị đeo kính lên và đưa danh sách lại gần. "Jenny-May Butler,” tôi hoàn thành câu nói còn dở dang của chị, tim tôi như vỡ vụn.
Helena nhìn tôi, rõ ràng chị đã nhận ra cái tên vào lúc tôi đổ sụp vì thất vọng.
"Bobby Stanley,” tôi đọc một tên khác, hy vọng của tôi đã tiêu tan. Tôi đọc tiếp, "James Moore, Clare Steenson..." Danh sách những người không liên lạc được cứ thế dài ra.
"Họ không ở đây không có nghĩa là họ không ở làng bên cạnh,” Joan cố gắng trấn an tôi.
"Cơ hội đó có nhiều không?" tôi hỏi, cảm thấy một lần nữa hy vọng trở lại với mình.
"Chị không muốn nói dối em, Sandy. Sự thật là phần lớn cộng đồng người Ai-len tập trung trong làng này,” Helena giải thích. "Có 5, nhiều nhất lại 15 người đến đây mỗi năm, và bởi vì chỉ có vài người, chúng tôi có xu hướng sống gần nhau.”
"Vậy thì Jenny-May Butler phải ở đây, tôi khẳng định.” Cô ấy phải ở đây.
"Còn những người khác trong danh sách thì sao?" Joan hỏi giọng nhỏ hẳn.
Tôi lướt nhanh qua, Clare và Peter, Stephanie và Simon... Tôi đã ngồi với người thân của họ cả đêm, xem những album hình và lau nước mắt họ bằng những lời hứa sẽ tìm ra những đứa trẻ, những người anh, người chị và bạn bè của họ. Nếu họ không ở đây, có nghĩa là tôi chỉ có thể nghĩ đến điều tồi tệ nhất.
" Nhưng Jenny-May …” Tôi bắt đầu đào sâu những sự kiện của vụ án mà tôi lưu giữ trong não bộ. "Không còn ai khác. Không ai nhìn thấy bất cứ điếu gì hoặc bất cứ người nào."
Joan trông ngơ ngác; Helena thì buồn bã.
"Cô ấy phải ở đây. Không hề có dấu hiệu xấu nào trong vụ mất tích của cô ấy,” tôi như tự nói với chính mình. "Trừ khi cô ấy đang lẩn trốn, hoặc cô ấy ở một nước khác; tôi đã không tìm ở những nước khác.”
"Được rồi, Sandy, sao em không ngồi xuống đi? Chị nghĩ em đang mất bình tĩnh đấy,” Helena cắt ngang.
"Em không mất bình tĩnh." Tôi gạt tay chị. "Không, cô ấy không trốn và cô ấy không thể ở một nước khác được Cô ấy trạc tuổi em.” Tôi nhìn ]oan và mọi chuyện đều đã rõ. “Chị phải tìm ra Jenny-May Butler, hãy nói với mọi người rằng cô ấy trạc tuổi em. Cô ấy 34 tuổi. Cô ấy đã ở đây kể từ lúc lên 10, em biết chắc như vậy.”
Joan gật đầu ngay tức khắc, gần như không dám từ chối. Helena đưa hai tay về phía tôi, không dám chạm vào tôi nhưng cũng không dám bỏ đi. Tôi nhận thấy vẻ mặt cửa hai người phụ nữ khi họ nhìn tôi. Vẻ mặt lo lắng. Tôi nhanh chóng ngồi xuống và uống nước từ chiếc ly Helena đặt vào tay mình.
"Cô ấy ổn chứ?” Tôi nghe Joan hỏi Helena khi họ quay đi.
"Cô ấy ổn thôi,” Helena nói một cách bình tĩnh.
"Cô ấy chỉ thực sự muốn Jenny-May tham gia vở kịch.
Chúng ta hãy cố gắng hết sức để tìm cô ta, được chứ?"
"Tôi không nghĩ cô ấy ở đây,” Joan thì thầm.
"Dù gì thì cũng hãy tìm xem đã.”
"Tôi có thể hỏi tại sao mình lại được giao bảng danh sách ba mươi người để tìm không? Làm sao Sandy biết họ có thể diễn kịch? Khi tôi liên lạc với mọi người, họ đã rất ngạc nhiên. Hầu hết họ chưa bao giờ tham gia một vở kịch nghiệp dư nào. Còn những người khác thực sự muốn tham gia vở kịch thì sao? Họ vẫn được phép thử giọng chứ?"
"Tất nhiên là tất cả mọi người đều được phép,” Helena gật đầu. "Những người trong danh sách là những người đặc biệt, thế thôi.”
Trong 2.000 người thống kê bị mất tích ở Ai-len mỗi năm, có khoảng 5 đến 15 người không bao giờ được tìm thấy. Ba mươi người tôi chọn là những người tôi đã dành toàn bộ cuộc đời mình để tìm kiếm. Có những người tôi đã tìm thấy, có những người tôi từ bỏ tìm kiếm khi thấy có dấu hiệu tiêu cực liên quan có thể dẫn đến những kết cục bi thảm hoặc những dấu hiệu khẳng định họ tự quyết định bỏ đi xa. Nhưng ba mươi người trong danh sách này - là những người đã biến mất không một dấu vết và không lý do. Đây là ba mươi trường hợp ám ảnh tôi, ba mươi trường hợp không có một dấu tích gì của tội phạm để kiểm chứng hoặc có người làm chứng để thẩm vấn.
Tôi đã nghĩ về người thân của họ và nghĩ về việc tôi đã hứa sẽ tìm người mất tích như thế nào. Tôi nghĩ về Jack Ruttle, về việc mới chỉ cuối tuần vừa rồi thôi tôi đã hứa. Tôi nghĩ về việc mình đã không đến cuộc hẹn ở Glin và về việc tôi lại một lần nữa thất bại.
Bởi vì trên danh sách, Donal Ruttle không có ở đây.