← Quay lại trang sách

Hai Mươi Bảy

Người mất tích đầu tiên, Orla Keane bước vào Hội trường, ánh nắng chiếu xuống cánh cửa mở soi rọi sự hiện diện của cô. Cô dừng lại ở lối vào, cố gắng chỉnh trang lại dáng điệu, trông cô như Alice ở Xứ Sở Thần Tiên vừa mới nuốt một chiếc bánh "Ăn Tôi" bên cạnh cánh cửa khổng lồ làm bằng gỗ sồi. Tôi đằng hắng cổ lo lắng và âm thanh khuếch đại của tiếng đằng hắng dội vào các bức tưởng, chạy lên trần nhà rồi vọng trở lại giống như quả bóng xì hơi. Cô quay sang nơi vừa phát ra tiếng ồn và bắt đầu tiến về phía tôi, đôi giầy cao gót gõ trên sàn gỗ vang vọng.

Joan và Helena đã đặt một chiếc bàn cho tôi ngồi ở cuối khán phòng và, cùng với sự thất vọng tràn trề của Joan, họ rời khỏi khán phòng để cho tôi được một mình ở lại. Khi Orla đi về phía mình, tôi cảm thấy nghẹt thở. Tôi không thể tin người phụ này đã bước ra từ những tấm hình "Người bị mất tích" của tôi và bây giờ vẫn sống, vẫn thở và đang đi thẳng về phía tôi.

“Xin chào," cô mỉm cười, giọng nói mang âm điệu vùng Cork của cô vẩn rất nặng, mặc cho thời gian cô sống ở đây.

"Chào em.” Tôi nói như thì thầm. Tôi đằng hắng cổ họng và chào lại lần nữa. Tôi nhìn xuống bảng danh sách đặt trước mặt tôi trên bàn. Ngày hôm nay, tôi sẽ phải làm điều này mười hai lần, và sau đó là với Joan và với Bernard. Chỉ nghĩ tới cuộc gặp gỡ với những người này đã khiến tôi run lên, 'ý nghĩ về việc phải làm sao thảo luận những chủ để tế nhị một cách thật khéo léo cũng đã khiến tôi kiệt sức. Trước đó, tôi đã hỏi lại Helena tại sao tôi không thể chỉ đơn thuần là kể cho mọi người nghe mà không cần phải dựng lên màn kịch này.

“Sandy,” chị quả quyết cho rằng tôi không cần phải nghe bất kỳ một lý do nào cả. "Khi người ta muốn về nhà, họ trở nên rất liều lĩnh. Để cho họ biết em đã tìm được đường đến đây trong lúc tìm kiếm họ chỉ khiến họ nghĩ rằng họ có thể đi theo em để quay về nhà. Cuộc sống sẽ không còn đáng sống khi mà hàng trăm người bám theo nhất cử nhất động của em."

Chị ấy có lý. Vì vậy tôi ở đây, đóng vai người đại diện tuyển chọn diễn viên và chủ sở hữu của một công ty diễn xuất, để thổi câu chuyện vệ mỗi thành viên trong gia đình, về bạn bè họ vào trong một vai diễn độc nhất Hamlet.

Tôi hỏi Helena thêm một cậu nữa. "Chị có nghĩ rằng em có thể dẫn mọi người ra khỏi đây và đưa họ về nhà?” Tôi đã tự hỏi liệu đó có phải là mục đích của tôi khi có mặt ở đây, vì tôi đã bị thuyết phục rằng tôi sẽ không ở lại. Niềm tin của một nạn nhân điển hình: điều này không thể xảy ra với tôi, không phải tôi trong số tất cả những người ở đây.

Chị mỉm cười buồn bã và một lần nữa tôi không cần phải nghe câu trả lời của chị, vẻ mặt chị đã nói lên tất cả. "Xin lỗi, Moses, chị không nghĩ như vậy." Nhưng trước khi tôi kịp hiểu hết ý chị thì chị đã nói thêm, “Chị nghĩ em ở đây là có lý do và ngay lúc này lý do đó là để chia sẻ câu chuyện của em với tất cả mọi người, để cho họ biết về gia đình của họ và rằng gia đình họ đã thương nhớ họ đến nhường nào. Đó chính là cách em đưa họ về nhà.”

Tôi ngước nhìn Orla lúc này đang ngồi trước mặt tôi, lo lắng chờ đợi động thái tiếp theo của tôi. Đã đến lúc đưa cô ấy về nhà. Bây giờ cô ấy đã 26 tuổi và trông cô chẳng khác gì trước kia. Đã gần sáu năm trôi qua kể từ khi cô mất tích. Sáu năm tôi tìm kiếm cô. Tôi biết ba mẹ cô là Clara và Jim và biết rằng họ đã ly dị cách đây hai năm. Tôi biết cô có hai người chị, Ruth và Lorna, và một người anh trai - James, những người bạn thân nhất là Laura, và Rebecca - người hay bị gọi đùa là "Cúc áo" do thường xuyên quên cài cúc áo của mình. Orla học ngành lịch sử nghệ thuật tại Đại học Cork trước lúc mất tích. Cô thường mặc đầm tím và vết sẹo trên lông mày trái là do tai nạn xe đạp trong kỳ nghỉ ở Bantry vào năm lên tám. Khi cô 15 tuổi, cô đã ngủ với anh chàng Niall Kennedy - làm việc ở cửa hàng băng đĩa địa phương, trong một bữa tiệc tại gia và cô đã lén lút lái xe ô tô của ba mẹ và làm hỏng xe khi họ đi Tây Ban Nha một tuần nhưng cũng đã sửa chữa kịp thời và cho đền giở họ vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra với chiếc xe của họ. Màu sắc ưa thích của cô là màu hoa cà, yêu nhạc pop, chơi piano cho đến năm14 tuổi, mơ ước thầm kín là trở thành một vũ công ba lê từ năm sáu tuổi nhưng không bao giờ chịu tham gia một lớp học múa nào, và cô đã ở đây được năm năm chín tháng.

Tôi nhìn cô và không biết nên bắt đầu từ đâu. "Orla này, hãy giới thiệu một chút về bản thân em đi.”

Tôi quan sát cô như bị thôi miên, nhìn chăm chằm vào đôi môi như thể tôi chỉ có thể thấy được chúng trong những bức ảnh mở ra đóng vào, gương mặt cô đầy sức sống, sống động và tôi lắng nghe từng lời cô nói. Nghe giai điệu du dương của giọng Cork, ngắm nhìn cách mà mái tóc vàng dài chuyển động khi cô nói, tôi đã bị mê hoặc.

Khi cô nói đến việc học tập ở trường đại học, tôi thấy đây là cơ hội để tôi tham gia vào câu chuyện. "Lịch sử nghệ thuật tại Đại học Cork?” Tôi hỏi lại. "Tôi biết một người học cùng năm với cô.” "Ai?” Cô ấy gần như bật ra khỏi ghế ngồi.

"Rebecca Grey.”

Cô há hốc miệng ngạc nhiên. " Không thể nào! Rebecca Grey là một trong những người bạn thân nhất của tôi!”

"Thật sao?” Tôi thấy mọi việc vẫn như xưa. Rebecca vẫn là bạn thân của cô ấy.

“Thật kỳ lạ, làm sao chị biết bạn ấy?”

“À, tôi gặp anh trai của cô ấy, Enda, vài lần. Anh ta là bạn của bạn tôi - cô biết nó có nghĩa là gì rồi đấy.”

“Bây giò anh ấy làm gì?”

"Thực ra lần cuối tôi gặp anh ấy là tại đám cưới của anh cách đây vài tháng. Tôi nghĩ tôi cũng đã gặp cha mẹ của cô ở đó.”

Cô im lặng trong giây lát và khi cô cất tiếng nói trở lại, giọng cô trở nên nghẹn ngào và run rẩy. "Họ có khỏe không?”

“Trông họ rất tuyệt, tôi cũng nói chuyện với một trong các chị em của cô - Lorna, hình như là chị ấy.”

“Đúng rồi, Lorna!”

"Cô ấy nói với tôi rằng cô ấy đã làm đám hỏi."

"Với Steven?” Cô nhún lên nhún xuống trên chiếc ghế ngồi, vỗ tay hào hứng.

"Đúng vậy," tôi mỉm cười, “với Steven.”

"Ôi tôi biết thế nào chị ấy cũng quay lại với Steven mà,” cô cười, mắt ngấn nước.

"Chị gái của cô cũng đi với chồng. Tôi thấy chị ấy khệ nệ với chiếc bụng bầu.”

"Ồ.” Giọt nước mắt trào ra từ khóe mắt và cô nhanh chóng lau đi. "Còn gì nữa không? Còn ai khác mà chị đã gặp không? Cha mẹ tôi có nói gì không? Trông họ như thế nào?"

Và thế là tôi đã đưa cô ấy về thăm nhà.

Nửa tiếng trôi qua và Joan ho lên khá to đế báo cho tôi biết một người khác đăng ký thứ giọng vừa mới đến. Chúng tôi thậm chí đã không nhận thấy Joan bước vào Hội trường và tôi nhìn xuống cổ tay xem giờ, quên rằng chiếc đồng hồ của tôi vẫn còn nằm đâu đó trên con đường dẫn ra khỏi làng. Cảm giác quen thuộc của sự bứt rứt khó chịu khi tôi biết nó đang ở đâu đó nhưng không thể tìm ra. Tôi ngước lên nhìn người kế tiếp - Carol Dempsey, đang đứng cạnh Joan, xoa tay lo lắng - và sự bứt rứt trong tôi biến mất. Tôi lại trở nên lo lắng.

"Chị xin lỗi, thời gian dành cho chúng ta hết rồi,” tôi nói với Orla.

Gương mặt cô chảy dài và tôi biết cô như bất ngờ bị gạt bỏ ra khỏi nhà, bị chuyển đi và ném phịch trở lại thực tế nơi cô sống.

"Nhưng em vẫn chưa thử giọng," cô hoảng sợ.

"Không sao, em đã được chọn," tôi thì thẩm, nháy mắt.

Gương mặt dãn ra thư thái khi cô đứng lên, chồm người qua và nắm tay tôi bằng cả hai tay. "Cảm ơn chị, cảm ơn chị rất nhiều.”

Tôi nhìn cô đi ra cùng với Helena, trong đầu Orla tràn ngập hàng triệu suy nghĩ mới mẻ về câu chuyện ở nhà. Quá nhiều không thể nghĩ hết cùng một lúc: những suy nghĩ mới và những ký ức mới gợi ra hàng loạt những thắc mắc mới và một khát khao mới được trở về nhà.

Carol đã ngồi trước mặt tôi. Một người mẹ của ba đứa con, một người nội trợ đến từ Donegal, 42 tuổi và là thành viên của dàn đồng ca địa phương, bị mất tích trên đường trở về nhà sau buổi luyện tập với ca đoàn cách đây bốn năm. Chị đã thi đậu bằng lái xe một tuần trước khi biến mất, chổng của chị đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật 45 tuổi của mình với gia đình đêm hôm trước và vở kịch của cô con gái út sẽ được công diễn vào tuần tới. Tôi nhìn vào khuôn mặt nhỏ nhắn, nhút nhát và e thẹn, mái tóc nâu mềm vén phía sau mang tai, chiếc ví được siết chặt trong tay đặt trên đùi, và tôi ngay lập tức muốn đưa chị về nhà.

"Carol,” tôi nói nhẹ nhàng, "tại sao chúng ta không bắt đầu bằng việc chị cho em biết một chút về bản thân nhỉ?"

Vào cuối ngày, tất cả chúng tôi ngồi quanh tạo thành một vòng tròn trong Hội trường lớn. Tôi ngồi đối diện sân khầu với hàng ngàn bàn tay trang trí ở phông nền phía sau, "Sức mạnh và Hy vọng”, tôi nhắc đi nhắc lại với chính mình. Sức mạnh và hy vọng đã đưa tôi đến được ngày hôm nay; tôi vẫn hào hứng với việc gặp gỡ những thần tượng của mình, nhưng biết tôi sẽ nhanh chóng cảm thấy chán. Như thường lệ, ngay sau khi tất cả mọi người đã yên vị, tôi quyết định đứng lui lại phía sau và quan sát, bên ngoài vòng tròn. Những thói quen cũ đã ăn sâu trong tôi. Helena gọi tôi và một dàn đồng ca của 15 giọng nói khác cũng hòa theo, ép tôi ngồi xuống. Tôi chọn một chỗ ngồi, hiểu rằng mình đang gia nhập Nhóm, một điều mà tôi chưa bao giờ làm trong đời. Tôi từ từ ngồi xuống, chiến dấu không ngừng với đôi chân - đang muốn chạy ra khỏi cửa, và cái miệng - đang muốn viện ra một lý do để rời khỏi nhóm.

Sau khi tôi đã nói chuyện với từng người, Helena nảy ra ý tưởng về việc tất cả mọi người làm quen với nhau, để hiểu nhau hơn bằng việc chia sẻ kinh nghiệm về nơi chốn và thời gian họ mất tích. Chị gọi đó là một buổi hội thảo xây dựng tinh thần đồng đội vì vở kịch nhưng tôi biết thực ra chị làm điều đó là vì tôi, để giúp tôi hiểu thêm chúng tôi đang ở đâu và làm thế nào mà chúng tôi lại có mặt ở nơi này.

Từng người một giải thích việc làm thế nào họ đã đến đây. Đó là một trải nghiệm đầy xúc cảm. Một số ở đây mới chỉ một vài năm, số khác đã ở đây hơn một thập kỷ, nhưng sự nhận biết của việc không baogiờ có thể trở về nhà vẫn như mới. Có nhiều người đã khóc, nhưng như thường lệ, không phải tôi. Cứ như thể trong lúc những giọt nước mắt của tôi tìm cách đi từ tim lên mắt, chúng đã bốc hơi và trôi dạt vào không khí như sự bốc hơi của nỗi buồn vậy. Tôi như bị thôi miên khi nghe kể lại những chuyện đã xảy ra sau khi họ bị mất dấu vết tại hiện trường ở nhà mà tôi đã kiểm tra không biết bao nhiêu lần. Mọi thứ thật đơn giản. Tôi đã lần theo những dấu vết không cần thiết, nghi ngờ không đúng người, xem xét kỹ lưỡng từng milimet trên con dường lần cuối cùng họ được nhìn thấy. Điều đó thật vô nghĩa bởi vì tất cả những gì họ làm là lang thang đến đây.

Mặc dù thật đáng thương cho những người mất tích, những người biết mình sẽ không thể quay vế nhà được nữa, thì điều đó còn tốt hơn nhiều so với những trường hợp khác. Tôi ước Jenny-May Butler có ở đây, tôi ước Donal Ruttle có ở đây, tôi ước những người còn lại trong danh sách của tôi và hàng ngàn người bị mất đi mỗi năm đều ở đây Tôi cầu nguyện không có gì nguy hiểm xảy ra với Jenny-May. Tôi cầu nguyện rằng, nếu có, điều đó đã xảy ra rất nhanh và không gây đau đớn gì. Và hơn hết tôi cầu nguyện cô ấy ở đây.

Tôi đã bị mê hoặc khi nhìn những người này. Đối với họ, tôi là một người hoàn toàn xa lạ nhưng đối với tôi họ là những người bạn thân thiết nhất. Tôi có rất nhiều chuyện muốn kể cho họ nghe, rằng tôi biết, tôi hiểu, tôi đã cười nhạo và tôi có thể nhận biết đích danh họ. Tôi muốn nói với họ rằng tôi đã gặp và cười nói cùng với rất nhiều những người thân và bạn bè của họ. Có những trường hợp họ gặp phải mà tôi muốn nói với họ rằng tôi biết và tôi chia sẻ với họ. Điều đó hoàn toàn đối lập với con người của tôi. Tôi muốn tham gia, chia sẻ và hòa nhập vào những câu chuyện.

Bầu không khí trở nên im lặng và tôi nhận ra tất cả các con mắt đan đổ dồn về phía mình.

"Có phải vậy không?" Helena hỏi, chỉnh lại chiếc khăn choàng màu vàng chanh trên vai.

"Gì chứ?" Tôi hỏi, nhìn xung quanh một cách bối rối.

"Có phải em sẽ không kể cho chúng tôi nghe chuyện vì sao em tới được đây?"

Tôi cảm thấy muốn kể cho họ nghe rằng tôi đã ở đây từ lâu rồi trước tất cả mọi người. Nhưng tôi đã không làm thế. Thay vào đó tôi lịch sự xin lỗi rồi rút lui khỏi Hội trường.

Tối muộn hôm đó tôi ngồi với Helena và Joseph trong căng tin bên một chiếc bàn yên tĩnh. Nến được thắp sáng ở mỗi bàn, chim-của-thiên đường được đặt trong hộp thiếc nhỏ ở trung tâm. Chúng tôi đã dùng xong món khai vị là món súp nấm dại và bánh mì ống nâu nóng, tôi ngồi ngả lưng lên ghế, cảm thấy bụng đã khá no, đợi món chính được mang ra. Vào tối thứ Tư, căng tin khá yên tĩnh, mọi người đi ngủ để bắt đầu làm việc vào sớm ngày hôm sau. Những ai tham gia vào công đoạn dàn dựng vở kịch được giảm thời gian làm việc, việc tham gia vào vở kịch được hội đồng ghi nhận. Mỗi ngày chúng tôi đã dành cả ngày để tập luyện cho kịp thời hạn là chủ nhật tuần tới, trong khi Helena chịu trách nhiệm về trang phục biểu diễn cho các diễn viên và tất cả mọi người. Trong mắt tôi, đây là một nhiệm vụ đầy tham vọng và hoàn toàn thiếu thực tế, nhưng Helena cam đoan với tôi rằng người dân ở đây luôn hết mình vì công việc và làm rất hiệu quả. Nhưng tôi thì biết gì?

Đây là lần thứ một triệu tôi nhìn cổ tay mình kể từ lúc đánh mất chiếc đồng hồ và thở dài thất vọng.

"Đừng lo," Helena mỉm cười. "Nó không giống như ở nhà, Sandy; mọi thứ không thể biến mất."

"Em biết, em biết, chị vẫn luôn miệng nói với em như thế, nhưng nếu đúng vậy, thì tốt thôi, nó đâu rồi?"

"Bất cứ nơi nào em đánh rơi nó," chị cười và lắc dầu nhìn tôi như thể tôi là một đứa trẻ. Tôi thấy Joseph không cười và anh nhanh chóng đổi chủ để. "Cô sẽ chọn loại kịch nào?” Anh hỏi bằng giọng nhẹ nhàng sâu sắc.

Tôi cười, "Chúng em chưa có ý tường gì cả. Helena chịu trách nhiệm đánh lạc hướng những câu hỏi về vở kịch sẽ biếu diễn mỗi khi ai đó hỏi tới. Em không có ý phá vỡ buổi diễn tập nhưng em nghĩ một tuần là một khoảng thời gian đáng ngờ để kịp luyện tập và hoàn thiện một vở kịch."

"Đó chỉ là một vở kịch ngắn," Helena chống chế.

"Còn kịch bản và trang phục và nhiều thứ khác nữa thì sao?" Tôi hỏi, đột nhiên nhận ra còn nhiều việc chúng tôi cần phải làm.

"Đừng lo lắng về những điều đó, Sandy.” Chị quay sang Joseph. "Mọi người tin rằng nhà hát cũ bị ma ám bởi vì trang phục và dụng cụ trang điểm luôn được thông báo hay đồn thổi là bị biến mất. Đúng vậy, đó là sự thật, chúng bị mất đi nhưng không phải do ma, không phải do ăn cắp vặt, mà bởi vì các trang phục đẹp nhất xuất hiện ở đây hàng ngày. Bobby sẽ có tất cả mọi thứ chúng tôi cần”, cô nói một cách điềm tĩnh.

"Cô ấy đã suy tính tất cả mọi thứ," Joseph trìu mến nhìn vợ mỉm cười.

“Ồ, hãy nghĩ xem tất cả mọi thứ đã sẵn sàng, anh thân yêu. Vở kịch đã được quyết định. Chúng ta sẽ diễn vở Phù thủy xứ O.z," Helena nói dõng dạc và đầy tự hào, xoay ly vang đỏ nhâm nhi.

Tôi phá lên cười.

"Điều đó có gì đáng cười?” Joseph hỏi, thích thú.

“Phù thủy xứ Oz, " tôi nhấn mạnh, "không phải một vở kịch, đó là nhạc kịch! Đó là những gì mấy đứa trẻ hay làm trong các buổi diễn ở trường. Em nghĩ mọi người sẽ nghĩ ra cái gì đó mang tính văn hóa hơn một chút, giống như một vở kịch Beckett hoặc O'Casey," tôi lập luận. "Nhưng Phù thủy ~xứ Oz thì…?" Tôi nhăn mũi.

"Chị, chị, chị cho rằng chúng ta có một kẻ hợm mình trong tay." Helena cố gắng nhịn cười.

"Tôi chưa nhận ra ý nghĩa này, Phù thủy xứ Oz." Joseph bối rối.

Tôi kinh ngạc. “Đứa trẻ bị bỏ quên.”

“Đó không phải một thứ lúc nào cũng hiện hữu ở Watamu," Helena nhắc nhở tôi. "Và hôm nay nếu em đã không rời khỏi buổi luyện tập quá sớm như vậy, Sandy, em đã có thể biết chúng tôi không làm một phiên bản âm nhạc. Nó được làm mới, được viết lại nhiều năm trước bởi Dennis O'Shea, một nhà soạn kịch dễ mến người Ai-len đã ở đây hai năm. Ông nghe nói về những gì chúng ta đang làm và mang lại cho tôi sáng nay. Tôi nghĩ rằng nó thật hoàn hảo và do đó, nó đã sẵn sàng được công diễn và một vài cảnh đầu tiên đã được xác định. Nếu em không phiền, chị đã phải nói với họ rằng em chính là người ra quyết định cuối cùng.”

"Chị cho họ diễn -Phù thủy xứ Oz?” Tôi nói, hoàn toàn vô cảm.

"Nó nói về cái gì vậy?" Joseph tò mò hỏi.

"Sandy, em là chủ nhân của vở kịch này," Helena nói.

"Được rồi, tốt thôi, đó là một bộ phim dành cho trẻ Con,” tôi nhấn mạnh với Helena, "được làm từ những năm ba mươi về một cô bé tên là Dorothy Gale bị cuốn vào trong cơn lốc xoáy đến vùng đất huyền diệu. Ở đó cô bé đã lao đi tìm kiếm vị phù thủy, người có thể giúp cô bé trở về nhà. Thật là ngớ ngẩn khi bảo một nhóm người lớn làm điều đó,” tôi cười, nhưng nhận ra không ai cười với tôi.

" Và vị p hù thủy, ông ấy có giúp cô bé?”

"Có, tôi nói chậm rãi, cảm thấy câu chuyện kỳ quặc đang được nhìn nhận một cách quá nghiêm trọng." Vị phù thủy giúp cô bé và cô bé biết rằng lúc nào mình cũng có thể trở về nhà, tất cả những gì mà cô bé phải làm chỉ là gõ đôi gót hài hồng ngọc của cô và nói, "Không có nơi nào bằng ở nhà, không có nơi nào bằng ở nhà."

Anh vẫn không cười. "Vậy là cuối cùng cô bé cũng trở về nhà?”

Sự im lặng bao trùm và cuối cùng tôi đã hiểu tại sao. Tôi gật đầu một cách chậm chạp.

"Vậy cô bé làm gì lúc ở vùng đất huyền diệu?”

"Cô bé giúp đỡ bạn bè của mình," tôi nói khẽ.

"Đối với tôi nó không có vẻ gì là một câu chuyện ngớ ngẩn," Joseph nói nghiêm túc, "Người dân ở đây sẽ rất muốn xem."

Tôi đã nghĩ đến điều đó. Thực ra tôi nghĩ về nó cả đêm, cho đến khi tôi mơ thấy đôi hài hồng ngọc và những cơn lốc xoáy, những con sư từ và những ngôi nhà biết nói rơi xuống xứ sở phù thủy, cho đến khi cụm từ "Không có nơi nào bằng ở nhà" vang to lên liên tục trong đầu khiến tôi giật mình tỉnh giấc, hét to những từ ấy và sợ hãi phải dỗ lại giấc ngủ.