Ba Mươi Chín
Sau buổi tay kịch ở Hội trường thành phố chiều hôm ấy, Helena, Joseph, Bobby và tôi ngồi lại nơi chiếc bàn gỗ thông ở nhà chị Helena. Wanda ngồi đối diện tôi, mớ tóc đen xoăn tít rối bù của nó choán gần hết cái bàn, và hai cánh tay nó kéo lên cố gắng hết sức để nắm hai bàn tay, bắt chước cách tôi ngồi. Joseph thông báo rằng hội đồng thành phố vừa yêu cầu một buổi họp chuẩn bị cho buổi tối mai, lý do thì chỉ những người khác xung quanh bàn biết, vì vậy bao quanh chúng tôi không khí im lặng và nặng nề hơn.
Tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi cảm thấy những việc diễn ra thường ngày ở đây thật nực cười. Tôi đã không nhìn nhận và cũng không thể nhìn nhận một cách nghiêm túc về cuộc sống và những vấn đề trong cuộc sống ở nơi này được, dù chúng quan trọng đến mức nào. Tôi cố giấu nụ cười khi quan sát họ lo lắng liếc nhìn nhau. Tôi hoàn toàn tách biệt, ơn trời điều gì đó đang diễn ra là vấn đề của họ và không phải của tôi. Như thể những vấn đề đó không liên quan tới tôi vì tôi là người ngoài cuộc theo lựa chọn của riêng tôi và tôi sẽ làm tất cả để tiếp tục với lựa chọn đó. Bất cứ điều gì để tránh đối mặt với thực tế cay đắng khi phải sống thực sự ở nơi này. Dường như có quá ít lựa chọn trong cái thực tế đó. Vì vậy cảm giác của tôi khi ngồi quanh chiếc bàn gỗ là thời gian của tôi ở đây ngắn đến mức tôi không phải bận tâm đến bất kỳ điều gì ảnh hưởng đến thế giới của mọi người. Thế giới của họ, không phải của tôi. Không ai nói gì một lúc lâu, nên tôi cố phá vỡ bầu không khí căng thẳng.
"Tóm lại vấn đề gì quan trọng đến mức phải yêu cầu một cuộc họp vậy?"
"Chính là cô đó, Wanda thốt lên một cách tự đắc và tôi cá là hai chân nó đang đong đưa dưới gầm bàn theo cách hai vai nó di chuyển.
Một cơn ớn lạnh chạy khắp cơ thể. Tôi quyết định phớt lờ nó, khó chịu khi một đứa trẻ không chịu im lặng lại ngồi chung trong khi chúng tôi nói chuyện, khó chịu khi nó biến tôi từ người ngoài cuộc thành tiêu điểm bằng cách lôi tôi từ nơi tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái và thả tôi xuống ngay trung tâm của sự chú ý. Tôi nhìn mọi người quanh bàn, lúc này vẫn còn lo lắng liếc nhìn nhau nhưng vẫn không nói gì. Người duy nhất sẵn lòng nhìn vào mắt tôi là Wanda.
"Sao con lại nói vậy?” Tôi hỏi lại đứa trẻ 5 tuổi vì không ai chỉnh lời nó, có thể vì mọi người đều nghĩ như nó hoặc vì họ phớt lờ vì nó chỉ là một đứa trẻ khó chiều. Tôi hy vọng vào điều thứ hai.
"Từ cách ai cũng dòm cô chằm chằm lúc mình đi từ Hội trường về đây này.”
"Đủ rồi đấy, cháu yêu,” Helena nói một cách dịu dàng.
"Tại sao ạ?" Wanda ngước nhìn bà ngoại. "Ngoại không thấy cách mọi người đều ngừng nói và nhường đường cho cô ấy sao? Cứ như thể cô ấy là công chúa vậy, nó nhe răng cười nhăn nhờ. Thật là một đứa trẻ lắm chuyện.
"Được rồi,” Helena vỗ nhẹ lên cánh tay nó để nó đừng nói tiếp.
Wanda ngồi im lặng và tôi cá là chân nó cũng đứng yên.
"Như vậy cuộc họp này là về tôi. Tôi suy nghĩ. "Phải không, anh Joseph?" Rất hiếm khi tôi cảm thấy lo lắng về bất kỳ điều gì và trong trường hợp này, tò mò là cảm xúc duy nhất trong tôi. Thậm chí xen lẫn trong đó còn có cảm giác kỳ lạ rằng tất cả những chuyện này thật dễ thương và hấp dẫn. Một chút ngồ ngộ ở một nơi ngồ ngộ.
"Những người ở đây không biết cuộc họp là về chị.” Bobby cố bảo vệ tôi. Thằng bé nhìn về phía Joseph. "Phải không ạ?"
"Không ai nói gì với tôi cả.”
"Thường người ta có yêu cầu họp khi có người mới đến không? Chuyện này có bình thường không?” Tôi hỏi. Tôi cố gắng lấy thêm chút thông tin từ Joseph, mặc dù tôi biết chuyện này khó như vắt nước từ đá tảng
"Bình thường,” anh giơ hai tay lên trời. "Chúng ta biết gì về bình thường chứ? Thế giới của chúng ta bây giờ và thế giới cũ, cái thế giới nghĩ mình biết mọi thứ, thực sự biết gì về bình thường. Anh đứng dậy và bóng anh đổ dài lên chúng tôi.
"Chà, vậy tôi có nên lo lắng không?” Tôi hỏi, hy vọng rằng ít nhất anh cũng có thể trấn an tôi.
"Kipepeo, không ai cần phải lo lắng cả." Anh đặt bàn tay lên đầu tôi và tôi cảm thấy hơi ấm bàn tay anh làm dịu cơn đau đầu của tôi. "Chúng ta sẽ đến Hội trường thành phố lúc 7 giờ tối mai. Lúc đó chúng ta sẽ xem chúng ta hiểu gì về bình thường. Với nụ cười trên môi, anh nhẹ nhàng rời căn phòng, Helena bước theo anh.
"Anh ấy mới gọi chị là gì vậy?” Bobby bối rối hỏi.
“Kipepeo,” Wanda cất tiếng lanh lảnh, chân nó lại đung đưa một cách dữ dội.
Tôi chồm người trên chiếc bàn và Wanda giật mình. "Từ đó có nghĩa gì?" Tôi hỏi một cách hơi nóng nảy nhưng tôi thực sự nóng lòng muốn biết.
"Không nói cho cô nghe đâu," nó trề môi và khoanh hai tay trước ngực. "Tại cô không thích con.”
"Đừng khờ vậy chứ. Dĩ nhiên là Sandy thích em rồi,” Bobby nói một cách ngớ ngẩn.
"Cô ấy nói không thích em.”
"Chắc chắn là em nghe lộn rồi.”
"Nó không nghe nhầm đâu,” tôi giải thích. "Tôi đã nói thẳng với nó”. Bobby có vẻ sốc khiến tôi đành ra vẻ làm hòa. "Được rồi, nói cô nghe kipepeo có nghĩa gì và cô có thể thích con.
"Sandy!" Bobby kêu lên.
Tôi ra hiệu cho thằng bé im lặng. Wanda ngẫm nghĩ về lời đề nghị. Từ từ nhưng rõ ràng mặt con bé bắt đầu nhăn lại. Bobby đá vào chân tôi và tôi chồm tới trước. "Wanda, đừng quá lo lắng." Tôi cố gắng nói bằng giang mềm mỏng nhất mà tôi có thể. " Cô không thích con không phải lỗi của con đâu.” Phía sau tôi, Bobby chỉ biết tặc lưỡi và thở dài. "Nếu con lớn hơn mười tuổi nữa rất có thể là cô sẽ thích con.”
Đôi mắt nó sáng bừng. Bobby nhìn tôi lắc đầu. "Khi đó con mấy tuổi?" Cô bé hỏi, quỳ gối trên ghế hào hứng và vươn người tới trước, khuỷu tay chống trên bàn để xích lại gần tôi hơn.
"Lúc đó con mười lăm tuổi.”
"Gần bằng tuổi Bobby?" Cô bé đầy hy vọng.
"Bobby mười chín tuổi.”
"Nghĩa là lớn hơn bốn tuổi so với tuổi mười lăm," Bobb'y giải thích một cách lịch sự.
Wanda dường như rất hạnh phúc vì điều này và cười bẽn lẽn với thằng bé.
“Nhưng anh se hai mươi chín tuổi khi em mười lăm tuổi.” Bobby giải thích và tôi thấy gương mặt cô bé xịu xuống. "Em càng lớn thì anh sẽ càng già.” Thằng bé cười lớn. Nó nhầm giữa vẻ ủ rủ trên gương mặt cô bé với chuyện cô bé không hiểu. "Lúc nào anh cũng lớn hơn em mười bốn tuổi, em hiểu không.” Tôi nhìn gương mặt cô bé xịu xuống khi nó bắt đầu hiểu vấn đề và tôi ra dấu cho Bobby ngừng lại.
“Ôi," cô bé thì thầm.
Trái tim bạn có thể tan vỡ ở bất kỳ tuổi nào. Tôi nghĩ lúc đó tôi bắt đầu thích Wanda.
Tôi ghét ngủ ở nơi mà họ gọi là Chốn Này. Tôi ghét những âm thanh buổi tối thấm đẫm trong không khí trôi lại từ quê nhà. Tôi ghét nghe thấy những tiếng cười, tôi muốn bịt mũi mình trước những mùi vị, nhắm mắt mình trước hình ảnh những người đi lạc vào khu rừng lần đầu tiên. Tôi sợ rằng mỗi tiếng động có thế là tôi, tôi sợ rằng mỗi âm thanh là một phần tôi đã lãng quên. Bobby và tôi chia sẻ nỗi sợ đó. Chúng tôi thức suốt đêm, nói với nhau về thế giới mà thằng bé đã bỏ lại: âm nhạc, thể thao, chính trị và tất cả mọi thứ khác, nhưng phần lớn chúng tôi nói về mẹ cậu.
Jack quay lại nhà Mary Stanley, bỏ lại bác sĩ Burton ở buổi họp OCA. Một lần nữa giữa họ lại là những lời lẽ giận dữ, ông bác sĩ dọa sẽ kiện ra tòa và sẽ làm nhiều thứ khác mà ông có thể nghĩ ra để buộc Jack ngừng việc tìm kiếm. Sau khi đi lòng vòng quanh thành phố Dublin suốt buổi chiều, anh để lại một tin nhắn vào điện thoại của Gloria, báo với cô anh sẽ không về nhà trong vài ngày tới, rằng đây là một chuyện phức tạp nhưng quan trọng. Anh biết cô sẽ hiểu. Anh đã hoãn chuyến đi Leitrim để ghé thăm ba mẹ Sandy sau khi bị bác sĩ Burton hăm dọa. Thay vào đó, anh hy vọng có thể chia sẻ với Mary những suy nghĩ và trăn trở trước khi tiếp tục công việc tìm kiếm. Anh cần phải biết nên tiếp tục hay không. Anh cần biết liệu có phải anh đang theo đuổi một điều vô hình không, liệu có ý nghĩa nào trong việc tìm Sandy nếu những người hiểu rõ cô ta lại không hề lo lắng.
Mary vui mừng khi Jack ở lại thêm một đêm nữa và họ ngồi trong phòng khách của bà, xem lại cuốn băng quay Bobby đóng vớ kịch Oliver năm lớp sáu. Anh nhận ra Bobby có một tiếng cười rất lạ, một tiếng cười vang vọng dường như bắt nguồn từ sâu trong con người thằng bé, khiến tất cả mọi người xung quanh, kể cả khán giả đều mỉm cười. Jack tự thấy mình với nụ cười tươi trên mặt khi Mary tắt cuốn băng.
"Thằng bé chắc hẳn là một thanh niên rất vui tính,” Jack nhận xét.
"Ồ, đúng vậy," bà gật đầu nhiệt tình và nhấm nháp ly cà phê. "Nó thực sự như vậy. Nó luôn chọc ghẹo mọi người, luôn đóng vai tay hài của lớp, lời nói của nó gây rắc rối cho nó và rồi tiếng cười lại cứu thoát nó. Mọi người yêu quý nó. Bà mỉm cười. "Tiếng cười đó của nó... “ Bà nhìn vào bức ảnh trên bệ lò sưởi, một khuôn mặt tràn ngập hạnh phúc, khuôn miệng mở rộng như đang cười. "Tiếng cười lay động người khác, hệt như tiếng cười của ông ngoại nó.”
Jack mỉm cười và họ cùng ngắm nhìn tấm ảnh.
Nụ cười của Mary tắt dần. “Thực sự, tôi có một việc muốn thú nhận.”
Jack lặng thinh, không chắc mình có muốn nghe không.
"Tôi không còn nghe thấy tiếng cười của nó nữa.” Giọng bà gần như một lời thì thầm, tưởng chừng như nếu lỡ nói to, điều đó sẽ thành sự thật. "Tiếng cười của nó từng tràn ngập căn nhà, tràn ngập trái tim tôi, tâm trí tôi, mỗi ngày và mọi ngày. Sao bây giờ tôi lại không nghe thấy tiếng cười đó nữa.”
Bằng vào cái nhìn xa xăm trong mắt bà, Jack có thể hiểu được bà không cần một câu trả lời.
"Tôi nhớ nó đã từng làm tôi cảm thấy như thế nào. Tôi nhớ cái không khí mà chỉ một tiếng cười rúc rích có thể gợi lên trong căn phòng. Tôi nhớ phản ứng của mọi người. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt họ và ảnh hưởng của tiếng cười lên đó. Tôi có thể nghe thấy tiếng cười đó trên băng đĩa khi coi lại, tôi có thể thấy tiếng cười đó trên gương mặt thằng bé trong những tấm ảnh, tôi nghe những phiên bản của nó, tôi nghĩ, đó chính là tiếng vang của nó trong tiếng cười của những người khác. Nhưng nếu không có những thứ đó, không có những tấm ảnh, những băng đĩa, và những tiếng vang, khi tôi nằm trên giường vào ban đêm, tôi không thể nhớ tiếng cười đó. Tôi không nghe thấy nó và tôi cố gắng nhưng đầu tôi chỉ là một mớ lộn xộn những âm thanh tôi tưởng tượng ra và âm thanh gợi về từ ký ức. Nhưng tôi càng tìm kiếm và tìm kiếm, ký ức của tôi về nó càng dần mất đi…” tiếng bà nhỏ dần. Bà nhìn lên bức ảnh trên bệ sưởi lần nữa, dỏng tai lên như thể đang lắng nghe tiếng cười. Rồi cơ thể bà như đầu hàng chính mình và bà bỏ cuộc.
Bobby và tôi cùng ngồi rúc vào chiếc đi-văng trong nhà Helena. Mọi người đều đã ngủ, trừ Wanda, nó lén quay lại và đang trốn sau chiếc đi-văng, quá phấn khích vì Bobby thân yêu của nó ở lại nhà nó qua đêm. Chúng tôi biết con bé ở đó nhưng tảng lờ nó, hy vọng nó sẽ mau thấy chán và đi ngủ.
"Chị có lo lắng vế buổi họp tối mai không?" Thằng bé hỏi.
"Không, tôi thậm chí không biết tại sao tôi lại phải lo lắng. Tôi có làm chuyện gì sai trái đâu.”
"Chị không làm chuyện gì sai cả nhưng chị biết nhiều điều - quá nhiều về gia đình mọi người so với những người khác. Họ sẽ muốn tìm hiểu bằng cách nào và tại sao.”
"Vậy tôi sẽ nói rằng tôi là người giao tiếp cực kỳ rộng. Tôi đi vòng quanh các cộng đồng Ai-len nói chuyện với bạn bè và gia đình của người mất tích," tôi nói cộc lốc.
"Thôi nào, họ sẽ làm gì tôi được? Buộc tội tôi như một mụ phù thủy và hỏa thiêu tôi sao?"
Bobby cười nhẹ nhàng. "Không, nhưng chị đâu muốn cuộc sống của chị thêm phiền phức, đúng không."
"Họ không thể làm phiền phức thêm chút nào nữa. Tôi đang sống ở một nơi chứa những thứ bị thất lạc. Kỳ lạ chưa?" Tôi xoa mặt mình một cách mệt mỏi và lẩm bẩm. “Chắc chắn là tôi sẽ cần được tư vấn thật sự khi tôi quay về.”
Bobby hắng giọng. "Chị không quay về được đâu. Đầu tiên, chị phải bỏ suy nghĩ đó ra khỏi đầu ngay. Nếu chị nói điều đó ở buổi họp, chắc chắn chị sẽ gặp rắc rối.”
Tôi xua tay, không muốn nghe lại chuyện đó lần nữa.
"Hay là chị viết lại nhật ký đi. Có vẻ như chị thích viết nhật ký lắm mà.”
"Sao cậu biết tôi đã viết nhật ký?”
"Chà, vì em thấy cuốn nhật ký trong một cái hộp của chị trong cửa hàng. Em tìm thấy nó bên dòng sông sau cửa hàng. Nó dơ và ướt nhẹp, nhưng khi em thấy tên chị trên đó, em mang về cửa hàng và tốn hàng giờ để khôi phục nó,” thằng bé tự hào nói. Tôi chưa kịp phản ứng gì, nó đã nhanh chóng nói xạo, "Em hứa em chưa đọc chữ nào.”
" Cậu đang nhầm tôi với ai rồi" Tôi ngáp. " Trong đó không có quyển nhật ký.”
"Có chứ.” Thằng bé ngồi thẳng dậy. "Nó màu tím và…” Nó ngẩn người ra, cố gắng nhớ lại.
Tôi bắt đầu kéo một sợi chỉ trên gấu quần tôi.
Thằng bé búng ngón tay và tôi giật mình sợ hãi, cảm giác cả Wanda sau chiếc đi-văng cũng giật mình. "Chính nó! Nó màu tím, bằng da lộn bị hủy hoại vì ẩm ướt nhưng em đã lau sạch hết mức có thế. Em nói rồi, em không có đọc nhưng đã mở vài trang đầu tiên và có những bức vẽ nguệch ngoạc hình trái tim đầy trang sách. Thằng bé nghĩ lại. "Sandy yêu..."
Tôi tiếp tục kéo sợi chỉ dưới gấu quần.
"Graham,” cậu ta tiếp tục. "Không, không phải Graham."
Tôi quấn chặt sợi chỉ mịn quanh ngón tay út của tôi, ngầm nhìn da bị ép và máu bị chặn lại.
"Gavin hoặc Gareth... Thôi nào, Sandy, chị phải nhớ chứ. Nó được viết đi viết lại nhiều lần đến mức em không hiểu sao chị có thể quên anh chàng này chứ." Nó tiếp tục suy nghĩ trong khi tôi vân kéo sợi chỉ, quấn nó chặt hơn và chặt hơn.
Thằng bé búng tay lần nữa. "Gregory! Chính nó. "Sandy yêu Gregory" câu đó được viết khắp bên trong quyển nhật ký. Giờ chị phải nhớ ra rồi chứ.”
Tôi lặng lẽ nói. "Quyển nhật ký không có trong mấy cái hộp, Bobby.”
"Nó ở trong đó mà."
Tôi lắc đầu. "Tôi đã xem mọi thứ trong hộp hàng giờ. Nó chắc chắn không ở đó. Nếu có, tôi đã nhớ."
Bobby trông có vẻ vừa bối rối vừa bực mình. "Nó nhất định ở đó.”
Cùng lúc đó, Wanda thở hổn hển từ phía sau đi-văng và nhảy lên.
"Con bị sao thế" Tôi hỏi và thấy đầu con bé chen vào giữa đầu tôi và Bobby.
“Cô bị mất thứ gì khác hả?" Nó thì thầm.
"Không, cô đâu có mất gì." Tôi chối nhưng cảm thấy một cơn ớn lạnh lần nữa.
"Con sẽ không kể ai nghe đâu.” Nó thì thầm, mắt mở To. "Con hứa đó."
Có một sự yên lặng. Tôi dán mắt lên sợi chỉ đen cứ tuột dài ra. Đột nhiên và hoàn toàn không thích hợp, tôi nghe tiếng Bobby cười lớn, một trong những tiếng cười sắc và lớn nhất mà tôi từng nghe.
"Cảm ơn, Bobby, nhưng tình cảnh này chẳng có gì vui vẻ cả.”
Bobby không trả lời.
"Bobby..." tiếng thì thầm trẻ con của Wanda chạy dọc sống lưng tôi.
Tôi ngước nhìn Bobby, nhận thấy vẻ mặt nhợt nhạt trên gương mặt nó, miệng nó mở nguyên như thể từ ngữ từ thanh quản đã sợ mất vía vào phút cuối, không chịu nhảy ra và cứ đọng hoài trên môi thằng bé trong sợ hãi. Nước mắt đầy tràn trong mắt nó và môi dưới nó rung lên và tôi nhận ra tiếng cười không hề xuất phát từ nó.
Tiếng cười đã trôi dạt từ nơi đó về Chốn Này, theo ngọn gió, băng qua ngọn cây và đến nơi này, hạ cánh ngay giữa chúng tôi. Trong khi tôi cố gắng hiểu hết chuyện này, cánh cửa phòng khách bật mở và Helena xuất hiện ngái ngủ trong bộ đồ ngủ, tóc chị rối bù và mặt đầy lo lắng. Chị đứng như hóa đá ở cửa khi nhìn Bobby để chắc rằng chị nghe chính xác. Gương mặt của thằng bé đã nói lên tất cả và chị dang hai tay hướng về phía thằng bé. Thả mình trên chiếc đi-văng, chị kéo đầu nó vào lòng, đung đưa như thể nó chỉ là một đứa trẻ trong khi nó khóc và lầm bầm trong nước mắt mình đã bị lãng quên như thế nào.
Tôi ngồi ở đầu kia của đi-văng và vẫn tiếp tục kéo sợi chỉ. Sợi chỉ cứ dài ra mãi với mỗi phút trải qua ở nơi này, nhưng vẫn không thể tách mình ra khỏi gấu quần được.