Bốn Mươi
Tôi phát hiện ra rằng mỗi sự không cân bằng trong đời sống từng cá nhân luôn mang lại một sự cân bằng tổng thể. Ý tôi là cho dù điều gì có phi lý đến chừng nào, tôi chỉ cần nhìn vào toàn cảnh để thấy, theo một cách nào nó, mọi việc lại thật phù hợp. Bố tôi đã đúng khi ông nói không bao giờ có điều gì hoàn toàn miễn phí: mọi thứ đều có giá của nó, hầu hết người phải trả giá là chính bản thân ta. Điều gì ta có được hẳn được lấy từ một nơi khác. Điều gì ta mất rồi sẽ đến nơi khác.
Có những câu hỏi triết lý thông thường: tại sao những điều tồi tệ lại xảy ra với người tốt? Trong mỗi cái xấu ta luôn thấy hiện thân của những điều tốt đẹp, và tương tự trong những cái tốt ta thấy cái xấu, nhưng dường như bản thân ta không thể hiểu hay nhìn thấu được điều đó vào lúc đó. Là con người, chúng ta là hiện thân của cuộc sống, trong cuộc sống luôn có sự cân bằng. Sự sống và cái chết, nam và nữ, tốt và xấu, xinh đẹp và xấu xí, thắng và bại, yêu và ghét. Mất đi và tìm thấy lại.
Ngoại trừ một con gà tây giáng sinh ba tôi đã thắng trong cuộc đố vui ở quán rượu Leitrim Arms khi tôi mới năm tuổi, ba tôi chưa bao giờ thắng bất kỳ giải gì trong cuộc đời ông. Ngày mà Jenny-May Butler bị mất tích lại là ngày ba tôi thắng 500 bảng từ thẻ cào sổ xố. Có thể cuộc sống còn nợ ông một điều tốt đẹp.
Đó là một ngày mùa hè. Chỉ còn một tuần nữa chúng tôi phải quay lại trường học và chỉ nghĩ về chuyện đó không cũng làm tôi kinh sợ, nhưng trừ chuyện lo lắng cho tuần tiếp theo, việc không phải thức dậy đi học mỗi sáng trong mấy tháng qua đã làm tôi mất khái niệm thời gian. Vào những ngày trong tuần cũng như ngày cuối tuần. Cứ vài tháng mỗi năm, những tối chủ nhật đáng sợ lại giống như những tối thứ sáu hay thứ bảy. Tối nay là tối chủ nhật, nhưng bất thường so những tối chủ nhật trong thời gian này, hôm nay nó thật đáng sợ. Đã sáu giờ bốn mươi tối, trời vẫn còn sáng, các con hẻm đầy trẻ em đang chơi đùa, cũng như tôi, chúng quên hôm nay là thứ mấy nhưng biết rằng cho dù thứ mấy, nó cũng là một ngày tuyệt vời bởi ngày mai cũng sẽ như hôm nay. Mẹ tôi ở vườn trước với bà và ông tôi, đón những tia nắng chiều ấm áp cuối cùng. Tôi đang ngồi ở bàn ăn lo lắng chờ tiếng chuông cửa rung lên. Tôi vừa uống sữa vừa nhìn quần áo trong máy giặt quay vòng vòng, cố gắng nhận ra từng mảnh vải vụt qua, chỉ để cho đầu óc mình bận rộn.
Ba nhìn tôi dò xét khi ông đi đi lại lại giữa phòng xem ti-vi và nhà bếp, lấy đồ ăn lẽ ra ông không được ăn theo chương trình ăn kiêng mới của ông. Tôi không biết ông đang cố gắng tìm hiểu tôi đang nghĩ gì hay ông nhìn tôi chỉ để xem tôi có thấy ông đang trộm lẫn đồ ăn. Dù sao đi nữa, ông đã hỏi tôi có vấn đế gì ba lần, tôi chỉ nhún vai và không nói gì cả. Đó là một trong những tình huống dù chia sẻ với ai cũng không giải quyết được chuyện gì. Thỉnh thoảng ông vẫn liếc mắt dò xét tôi, nhận ra tôi giật mình cỡ nào khi chuông cửa rung lên (chỉ là mẹ tôi quên chìa khóa cửa). Ông làm mặt hề cố làm tôi cười, nhét cả tá bánh quy vào miệng cùng lúc vờ như ông đang cố làm tôi vui, chứ không phải làm cái dạ dày của ông vui. Tôi cười, ông có vẻ vui vì chuyện đó và rồi quay lại phòng ti-vi, lần này với một cái bánh Jaffa trong tay áo.
Bạn thấy đó, tôi đang chờ Jenny-May tới.
Nó thách tôi chơi trò Vua/Hoàng hậu. Đó là một trò chúng tôi thường chơi trên đường với một trái banh tennis. Mỗi người đứng trong cái ô vuông được vẽ trên đường bằng phấn và cách chơi là đầu tiên bạn thảy trái banh trong ô của bạn sau đó chuyển sang ô của người khác. Mọi người đều phải làm như vậy và nếu họ thảy trượt, nếu trái banh không nảy lên trong ô của họ trước, hoặc trái banh rơi ra ngoài vạch phấn, họ bị loại. Cách chơi là phải cố thảy trái banh lên ô vuông trên cùng, ô Vua, ô của Jenny-May trong suốt trò chơi. Mọi người thường khen con nhỏ chơi trò này tuyệt vời ra sao, đáng kinh ngạc và xuất sắc và tài năng và nhanh nhẹn và chính xác ra sao cùng những lời phỉnh nịnh khác, làm tôi muốn ói, thực sự muốn ói. Bạn tôi, Emer và tôi từng xem trò chơi từ bức tường của chúng tôi. Chúng tôi không được chơi vì Jenny-May không cho phép. Tôi chỉ đơn giản nhận xét với Emer một ngày nọ rằng một trong những lý do Jenny-May luôn thẳng vì nó luôn bắt đầu tử ô vuông ở trên cùng. Điều này có nghĩa là nó không phải cố thảy trái banh lên như những người khác.
Rồi, ai đó ở đâu gần đó nghe được và những gì tôi nói tới tai Jenny-May và ngày hôm sau khi Emer và tôi đang ngồi trên bức tường đá gót vào những viên gạch và đuổi mấy con bọ rùa trên cái cột để xem chúng đi được bao xa, Jenny-May tiến lại phía chúng tôi, tay nó chống hông, đám bạn cùng phe vây quanh nó, và bắt tôi giải thích, rồi tôi giải thích. Mặt nó đỏ lên và bối rối khi nhận câu trả lời, nó thách tôi chơi trò Vua/hoàng hậu. Như tôi đã nói, tôi chưa từng chơi trò này và tôi biết quá rõ rằng Jenny-May chơi giỏi. Ý tôi chỉ là nó không giỏi như người ta nói. Có một điều gì đó về Jenny-May khiến người ta đánh giá nó cao hơn những gì nó thực sự có. Tôi đã từng gặp nhiều người như vậy trong đời mình và họ đều làm tôi nhớ về con bé.
Nó thực sự thông minh. Nó muốn chắc rằng ai cũng biết nếu tôi không đến, nó sẽ nghiễm nhiên thành nhà vô địch và tôi tự dưng ước gì chuyến đi đáng sợ đến Aunty Lila diễn ra một ngày trước đó.
Tất cả mọi người trên đường đều truyền miệng nhau về việc Jenny-May đã thách tôi chơi trò chơi. Họ chuẩn bị bước ra và ngồi xem trên lề đường, cả Colin Fitzpatrick, một anh chàng bảnh đến mức ít khi đi chơi trên đường của chúng tôi. Anh chàng thường chơi trượt ván với mấy người ở góc đường mà không ai khác có đặc quyền đi chơi cùng. Người ta còn đồn rằng ngay cả đám trượt ván cũng chuẩn bị ra xem.
Tôi gần như không chợp mắt đêm hôm trước: Tôi bước xuống giường, mang giầy thể thao với đồ ngủ và ra ngoài để tập chơi trò Vua/'hoàng hậu trên bức tường ngoài vườn. Nó cũng chằng ích gì vì trái banh cứ trúng vào bức tường khắc hình làm nó bay lại không đúng hướng. Thêm nữa trời quá tối làm tôi hầu như không thấy được trái banh. Cuối cùng, bà Smith ở nhà bên cạnh mờ cửa sổ phòng ngủ và thò đầu ra, cái đầu đầy lô cuốn, thật lạ là sáng hôm sau tóc bà ta vẫn thằng, và kêu tôi dừng lại bằng một giọng ngái ngủ. Tôi quay lại giường nhưng cũng chẳng ngủ nổi và khi tôi chìm vào giấc ngủ, tôi mơ thấy Jenny-May Butler đầu đội vương miện được ai đó nâng trên vai, trong khi đó Stephen Spencer trên ván trượt chĩa ngón tay được sơn bóng vào tôi và cười lớn. Ôi, và tôi thì ở trần.
Chính cuộc thách đấu của tôi với Jenny-May đã làm cho ba mẹ nó biết nó mất tích. Trong suốt những tháng mùa hè, chúng tôi hoàn toàn tự do. Chúng tôi ở ngoài đường cùng nhau chơi đùa, hiếm khi nào về nhà và thi thoảng ăn trưa ở nhà khác. Vì vậy tôi không trách ba mẹ nó vì đã không nhận ra rằng nó không ở xung quanh đây cả ngày rồi. Không ai trách họ cả bởi tôi biết mọi người đều hiểu. Mọi người đều hiểu rõ rằng chuyện đó có thế xảy ra với họ, rằng có thế là con họ mất tích mà không ai biết.
Nhà của Jenny-May và nhà tôi ở đối diện nhau. Mẹ và ông bà tôi đã trở vào trong nhà khi mặt trời cuối cùng cũng lặn xuống phía sau nhà Butler. Tôi biết mọi người đang tụ họp ở lề đường chờ tôi và ]enny-May bước ra khỏi nhà và gặp nhau ở giữa đường. Tôi nhìn thấy ba tôi nhìn ra cửa sổ trước và rồi quay lại nhìn tôi. Tôi nghĩ cuối cùng ông cũng hiểu vấn đề và nở nụ cười với tôi. Rồi ông bỏ bánh quy xuống bàn và vừa ngồi với tôi vừa nhai nhóp nhép.
Cuối cùng, khi đồng hồ chỉ bảy giờ tối, mọi người bên ngoài bắt đầu hô hào. Một vài tiếng hô tên tôi nhưng chúng đều bị nhấn chìm bởi những tiếng hô cho Jenny- May. Có thể nó bằng nhau nhưng dường như tôi chỉ nghe được tên nó. Suốt đời tôi, tôi luôn nghe tên nó lớn hơn tên tôi. Đột nhiên có tiếng vỗ tay lớn và tôi đoán Jenny-May đã bước ra khỏi nhà. Sau đó tiếng vỗ tay im bặt, có tiếng nói chuyện to nhỏ, không khí im ẳng dần và rồi hoàn toàn lặng thinh. Ba nhìn tôi và nhún vai. Tiếng chuông cửa kêu lên. Lần này tôi không giật mình vì có chuyện gì đó không ổn lắm. Ba vỗ nhẹ tay tôi. Tôi nghe tiếng mẹ trả lời cửa, như thường lệ giọng bà thân thiện và vui vẻ. Rồi tôi nghe tiếng bà Butler, không thân thiện lắm, không có âm điệu như tiếng hát. Ba cũng nhận ra điều đó và rời bàn ăn bước ra sảnh với họ.
Tiếng nói đã biến thành những giọng điệu lo lắng.
Tôi không biết tại sao, nhưng tôi không thể nhích khỏi cái bàn. Tôi chỉ ngồi đó nghĩ cách để thoát khỏi cuộc thách đố, nhưng đồng thời cũng có cảm giác lạ lùng rằng tôi không cần nghĩ lý do gì cả. Không khí đã thay đổi, tôi cảm giác như có chuyện gì rất tệ, nhưng tôi lại thấy nhẹ nhõm như khi đến trường rồi biết thầy cô bị bệnh và không chút lo lắng cho thầy cô. Một vài phút sau cánh cửa nhà bếp mờ ra, ba, mẹ và bà Butler bước vào.
"Con yêu," mẹ hỏi dịu dàng, "Con có, tình cờ, biết Jenny-May đang ở đâu không?"
Tôi nhăn mặt, bối rối bởi câu hỏi cho dù nó hoàn toàn đơn giản. Tôi nhìn qua nhìn lại gương mặt mọi người. Ba đang nhìn tôi đầy lo lằng, Mẹ gật đầu với tôi đầy khích lệ và bà Butler trông như sắp khóc. Như thể toàn bộ cuộc đời bà phụ thuộc vào câu trả lời của tôi. Có thể lắm, theo một cách nào đó.
Tôi không trả lời ngay lập tức. Bà Butler nói nhanh. "Mấy đứa trẻ ngoài kia không thấy nó cả ngày hôm này rồi. Cô nghĩ con bé có thể ở chỗ cháu.”
Tôi biết là sai nhưng tôi thấy cảm giác thôi thúc bất chợt muốn cười vào ý tưởng Jenny-May ở cả ngày với tôi. Tôi chỉ lắc đầu. Bà Butler gõ cửa khắp những nhà hàng xóm để tìm con gái bà. Bà càng gõ nhiều cánh cửa, tôi càng thấy gương mặt bà chuyến từ bối rối sang vẻ quyết tâm sắt đá và rồi nỗi sợ hãi. Tôi đã thấy nhiều gương mặt của người mẹ trong các trung tâm mua sắm khi họ quay sang và không thấy con mình ở bên cạnh. Tôi đã chăm chú nghiên cứu gương mặt họ, hoàn toàn bị cuốn hút vì nó, bởi tôi không hề nhớ đã bao giờ nhìn thấy nét biểu cảm đó trên gương mặt mẹ tôi. Không phải vì bà không yêu tôi, dĩ nhiên, nhưng bởi vì tôi rất cao và khác biệt nên bà không thể để lạc tôi, Tôi từng cố gắng bị lạc đôi lần, chỉ để được nhìn gương mặt bà lúc đó. Tôi sẽ nhắm mắt, quay một vòng và chọn một hướng để đi. Những lần khác tôi cố tình đứng lại chờ bà rẽ vào lối đi tiếp theo trong siêu thị. Tôi gần như lạnh cóng vì đồ ăn đông lạnh và đếm đến hai mươi cho đến khi tôi cảm thấy bà đủ xa nhưng gần như lần nào cũng vậy, tôi rẽ vào lối đi và bà đứng đó đọc thông tin về hàm lượng calo phía sau gói thực phẩm, chưa hề để ý đến sự vắng mặt của tôi. Nếu hiếm lắm bà nhận thấy thiếu cái thân thể gầy gò, khẳng khiu của tôi kề kề sau bà, chỉ năm phút sau bà lại tìm thấy tôi. Bà chỉ cần nhìn lên và sẽ thấy đầu tôi ở trên những giá treo quần áo, hoặc nhìn xuống để lần theo bàn chân kỳ dị quá cỡ của tôi thòi ra từ phía sau cái kệ.
Khi quan sát những người mẹ khác, tôi thấy theo một cách nào đó mà chỉ một cái liếc mắt qua vai bình thường lại nhanh chóng biến thành sự hoảng loạn, những chuyển động của họ nhanh hơn, đầu, mắt, tay chân khua loạn lên, rồi họ bỏ hoàn toàn việc mua sắm để tìm một thứ duy nhất thực sự là một phần tâm hồn họ. Sợ hãi, hoảng loạn, khiếp đảm, nỗ lực. Người ta nói người mẹ có sức mạnh đủ nâng một chiếc xe nếu điều đó để cứu đứa con mình. Tôi nghĩ tuần đó chắc bà Butler có thể nâng cả chiếc xe buýt chỉ để tìm Jenny- May. Và tới tháng thứ hai, nhìn bà như thể bà không thể nâng nổi chính bản thân mình nữa. Jenny-May đã mang một phần con người bà theo nó rồi.
Hóa ra tôi là một trong những người cuối cùng thấy con bé. Khi ông bà tôi ghé lại nhà chiều hôm đó, tôi mở cửa đón họ và Jenny-May đạp xe ngang qua. Nó quay sang tôi và ném cho tôi một cái nhìn. Một trong những kiểu nhìn của nó mà tôi hét kinh khủng. Kiểu nhìn có thể thiêu cháy bạn ngay lập tức, kiểu như tao giỏi hơn mày nhiều và mày chuẩn bị thua ngày hôm nay trong trò Vua/Hoàng Hậu và rồi Stephen Spencer sẽ biết mày là một con nhỏ khẳng khiu hoàn toàn ngu ngốc. Tôi nhìn qua vai bà tôi khi ôm hôn bà và nhìn Jenny-May đạp xe dọc con đường, đầu nó ngẩng cao, cằm thu lại và hểnh mũi lên, mái tóc vàng của nó thả xuống ngang eo. Tôi làm việc mà bất kỳ ai trong hoàn cảnh tôi sẽ làm. Tôi ước gì nó biến mất luôn đi.
Ngày hôm đó ba tôi trúng 500 bảng từ trò xổ số cào. Tôi nhận thấy ông rất vui. Ông ngói ở dưới bếp với tôi và cố không mỉm cười nhưng tôi có thể thấy khóe miệng ông cong lên. Chúng tôi nghe tiếng bà Butler khóc với mẹ tôi trong phòng kế bên. Ông đặt tay lên tay tôi và tôi biết ngay lúc đó ông đang nghĩ mình thật may mắn, một ông bố may mắn nhường nào khi trúng xổ số và vẫn có con gái mình ở bên khi những người như ông bà Butler đang phải chịu đựng rất nhiều. Tôi, ngược lại, lại vui mừng rằng mình không mất tích và nhờ sự không xuất hiện của Jenny-May, tôi đương nhiên trở thành quán quân trò Vua/hoàng Hậu. Bây giờ tôi cũng kết thêm được mấy bạn mới vì Jenny-May không ở đây để bảo chúng đừng kết bạn với tôi. Mọi việc thật ổn thỏa cho gia đình tôi và cuộc sống không thể nào tệ hơn nữa đối với ông bà Butler. Ba mẹ tôi thức suốt những đêm đó, nói chuyện với nhau và cảm ơn Chúa vì đã ban phước cho họ.
Nhưng điều gì đó trong tôi cảm thấy không ổn. Cái nhìn cuối cùng của Jenny-May bị đánh cắp đã mang theo một phần của tôi. Ngày hôm ấy, ông bà Butler không phải là cha mẹ duy nhất mất đứa con.
Như tôi đã nói, luôn có sự cân bằng.