Bốn Mươi Bảy
Vào cái tuần Jenny-May Butler mất tích, Cục Cảnh sát đã tìm đến trường quốc gia Leitrim. Lũ chúng tôi ai cũng hào hứng ra mặt vì đó là một dịp hiếm hoi thầy hiệu trưởng khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng vinh dự bằng sự hiện diện của thầy, đặc biệt là trong phòng học của chúng tôi. Ngay khi bắt gặp vẻ mặt nghiêm nghị của thầy, chúng tôi đã cảm thấy ruột gan như có kiến đốt tự dưng không ai bảo ai chúng tôi đều ước gì mình không bị ở trong tình huống rắc rối này mặc dù chúng tôi biết rõ mình chẳng làm gì sai cả. Nhưng đó chính là sức mạnh quyền lực của thầy. Lý do chính khiến chúng tôi cảm thấy háo hức là việc thầy hiệu trường đã cho dừng giờ học tôn giáo bằng việc thì thầm rất to vào tai cô Sullivan. Việc các giáo viên thì thào to nhỏ trong phòng học luôn đồng nghĩa với việc có chuyện quan trọng đang xảy ra. Chúng tôi được phép nghỉ buổi học sáng hôm đó và được yêu cầu xếp hàng một trước cửa với những ngón tay che trên miệng. Đối với các giáo viên, việc chúng tôi lấy tay che miệng thường không đạt được hiệu quả như mong muốn. Những ngón tay không phải là bộ phận giảm thanh thích hợp vì đó cũng chỉ là cái ngón tay vô tri vô giác, cũng không phải là dây kéo phecmơtuya, và quan trọng hơn cả, đó là những ngón tay của chúng tôi mà chúng tôi có thể bỏ ra khỏi miệng bất kỳ lúc nào. Nhưng vào ngày hôm đó khi chúng tôi bước vào Hội trường lớn của trường, không ai nói với ai một câu nào cả, vì đứng trên bục cao nhất của căn phòng im lặng bất thường ấy là hai nhân viên của Cục Cảnh sát Quốc gia. Một nam và một nữ, vận bộ đồng phục xanh từ đầu tới chân.
Chúng tôi ngồi trên nền nhà ở giữa Hội trường cùng với những học sinh lớp bốn khác. Ở hàng đằng trước là các học sinh nhỏ tuổi hơn. Lớp càng lớn càng phải ngồi hàng sau. Chẳng mấy chốc Hội trường đã chật kín. Các giáo viên đứng xếp hàng dựa lưng vào tường ở hai bên lối đi chẳng khác gì những cai ngục, thỉnh thoảng búng tay với vẻ mặt giận dữ về phía học sinh nào đó đang thì thầm hoặc đang cố tìm cho mình một tư thế ngồi thoải mái hơn trên nền gạch dơ bẩn và lạnh lẽo, và cả những học sinh cứ một tí lại cựa quậy nhúc nhích.
Thầy hiệu trường giới thiệu hai nhân viên cảnh sát với chúng tôi, rằng họ đến từ phòng cảnh sát khu vực và muốn trao đổi về một vấn đề vô cùng quan trọng. Thầy nói với chúng tôi rằng lát nữa vào lớp giáo viên sẽ đặt câu hỏi để chúng tôi kể lại những gì chúng tôi nghe được. Tôi liếc nhìn các giáo viên của lớp khi nghe thầy hiệu trưởng tuyên bố như thế và nhận thấy một vài thầy cô lập tức đứng thẳng người chăm chú lắng nghe. Sau đó, viên cảnh sát bắt đầu nói. Ông ta giới thiệu mình là cảnh sát Rogers, còn đồng nghiệp của ông ta là nữ cảnh sát Brannigan. Trong khi ông ta chậm rãi đi lại trên bục giảng với hai tay bắt chéo sau lưng, ông ta giải thích chúng tôi không nên tin người lạ như thế nào, chúng tôi không nên bước vào xe của họ, ngay cả khi họ bảo rằng họ được ba mẹ chúng tôi cử đến đón. Bài nói chuyện của viên cảnh sát làm tôi nghĩ tới cảnh mình từ chối không bước lên xe của chú Fred vào chiều thứ tư khi chú đến đón tôi và tôi suýt phá lên cười. Viên cảnh sát nói chúng tôi phải luôn nói ra cho mọi người biết khi chúng tôi nhận thấy một ai đó tự dưng thân thiết với mình hơn bình thường.
Nếu ai đó theo dõi chúng tôi hay chúng tôi chứng kiến ai đó đang bị theo dõi, chúng tôi cần nói với ba mẹ và thầy cô ngay lập tức. Lúc đó tôi 10 tuổi và vẫn nhớ cái năm tôi mới 7 tuổi và thấy có một người đàn ông trông rất kỳ quặc đến đón Joey Harrison ở trường. Tôi lập tức nói lại với cô giáo và cô tức giận với tôi vì đó chính là bố của Joey và cô nghĩ đấy là hành động thật khiếm nhã.
Ở cái tuổi lên mười, đúng hơn là gần 11 tuổi, bài nói chuyện về sự an toàn này là chuyện cũ rích. Tôi cho rằng những bài nói chuyện dạng như thế phải dành cho lứa tuổi lên năm, lên sáu, tức là dành cho những em bé đang ngồi hàng đầu tiên trong Hội trường này, những đứa bé đang sỉ mũi, vò đầu bứt tai nhìn lên trần nhà. Hàng đầu là những đứa bé tí xíu. Tại thời điểm đó tôi không hề có ý định gia nhập đội ngũ cảnh sát. Cũng chẳng phải cái bài học miễn phí về sự an toàn ngày hôm đó đã thúc đẩy tham vọng làm cảnh sát trong tôi. Nguyên nhân chính là đôi tất bí ẩn. Tôi thừa biết cuộc nói chuyện của viên cảnh sát chẳng qua là từ câu chuyện mất tích của Jenny - May vào tuần đó. Tất Cả mọi người đều hành động kỳ quặc trong cái ngày Jenny-May mất tích. Cô giáo chúng tôi thậm chí một vài lần rời phòng học trong nước mắt mỗi khi cô đưa mắt nhìn về chỗ ngồi trống vắng của Jenny-May. Tôi thì lại cảm thấy hài lòng, một cách kín đáo một điều tôi biết là không nên, nhưng bởi đó là tuần đầu tiên tôi cảm thấy mình được bình yên trong suốt mấy năm trời đi học. Lần đầu tiên tôi không cảm thấy quả bóng bằng giấy của Jenny-May bắn vào đầu khi cô ta cố tình thổi nó bằng một sợi rơm và mỗi khi tôi trả lời câu hỏi trong lớp học, tôi không còn nghe thấy tiếng cười khẩy sau lưng. Tôi biết những việc vừa xảy ra thật khủng khiếp và đau buồn, nhưng tôi lại không hề cảm thấy buồn.
Chúng tôi cầu nguyện trong lớp mỗi buổi sáng trong suốt những tuần đầu tiên cô ta mất tích, cầu nguyện cho sự an toàn của Jenny-May, cầu nguyện cho gia đình cô ấy và cầu nguyện cô ấy quay về.
Những buổi cầu nguyện này ngắn dần từ tuần này qua tuần khác và tự dưng vào một ngày thứ hai, khi chúng tôi kết thúc ngày nghỉ cuối tuấn, cô Sullivan ngừng không cầu nguyện nữa và cũng không đả động một từ nào về chuyện đó. Bàn học của mọi người trong phòng được sắp xếp lại một cách khác hẳn và bang! bỗng nhiên mọi việc trở về như cũ. Tôi thấy việc này còn kỳ cục hơn cả việc Jenny-May bị mất tích. Tôi mất vài phút đầu ngỡ ngàng nhìn mọi người đọc thuộc lòng mấy bài thơ một cách mê muội, nhưng cô giáo đã cảnh cáo tôi về việc không chịu học cái bài thơ mà hôm trước tôi đã dành hẳn hai tiếng đồng hồ để học thuộc và cô theo dõi tôi suốt ngày hôm đó.
Sau khi cảnh sát Rogers kết thúc bài nói chuyện của ông về sự an toàn, đến lượt cảnh sát Brannigan quay sang nói kỹ hơn vế trường hợp của Jenny-May. Giọng cô chùng xuống và yêu cầu nếu ai biết bất kỳ một thông tin gì hay có bất kỳ đầu mối gì về những thứ họ đã nhìn thấy vào những tuần và tháng trước đó, họ cần đến phòng số 4, cạnh phòng giáo viên, nơi cô và cảnh sát Rogers sẽ ở đó cho đến cuối ngày. Mặt tôi nóng bừng, cảm giác như cô ta đang yêu cầu tôi trực tiếp vậy. Tôi nhìn quanh đầy đa nghi, như thể toàn bộ sự kiện này diễn ra chỉ nhằm để tôi phải thú nhận tất cả những gì tôi biết. Không có ai nhìn lại tôi nghi ngờ trừ James Maybury, người vừa nạo một cái vảy nến ở khuỷu tay và búng vào tôi. Cô giáo lớp tôi khoát tay ra hiệu không đồng ý về phía cậu ta, nhưng cũng chẳng có tác dụng gì vì chuyện đã xảy ra rồi và cậu ta cũng chẳng hề tỏ ra lo sợ, cũng như chẳng quan tâm nhiều tới cái khoát tay của cô giáo.
Buổi nói chuyện kết thúc, một lần nữa chúng tôi được các giáo viên khuyến khích đi đến phòng số 4 nói chuyện với cảnh sát và còn được phục vụ ăn trưa, một việc nhảm nhí vì chúng tôi chẳng ai có ý định bỏ lỡ giờ chơi ở sân trường để đến gặp cảnh sát cả. Ngay khi quay trở lại phòng học, cô Sullivan yêu cầu chúng tôi bỏ sách toán ra học và bỗng nhiên, một rừng cánh tay giơ lên xin có ý kiến. Mọi người dường như tự dưng nhớ ra những bằng chứng liên quan đến Jenny-May. Cô Sullivan còn có thể làm gì nữa. Và thế là trước cửa phòng có hai người cảnh sát đang ngồi là một dãy dài các cô cậu học trò đủ mọi lứa tuổi đứng xếp hàng đợi đến lượt vào, một vài người trong số họ chưa từng gặp Jenny-May Butler trong đời.
Phòng số 4 được mệnh danh là phòng thẩm vấn, và câu chuyện bí ẩn về những điều diễn ra trong căn phòng đó ngày càng được thổi phồng lên qua lời những đứa học trò bước vào rồi lại bước ra và kể lại cho những đứa khác nghe. Có quá nhiều học sinh đưa ra những thông tin không có căn cứ khiến hai người cảnh sát phải quay lại ngày hôm sau, cùng lời cảnh báo nghiêm khắc là mặc dù họ rất cảm kích trước sự giúp đỡ của các học sinh, nhưng thời gian của họ rất quý báu và các học sinh chỉ nên tìm đến phòng số 4 khi họ thực sự có điều gì đó quan trọng cần phải nói ra. Vào ngày tiếp theo đó, tôi đã bị giáo viên từ chối không cho đến phòng số 4 hai lần với lý do lần thứ nhất trùng vào giờ học sử và lần thứ hai trùng vào giờ học tiếng Ai-len.
"Nhưng em thích môn tiếng Ai-len," tôi phản đối.
"Tốt, thế thì em sẽ hài lòng hơn khi ở lại học, cô giáo ngắt lời, trước khi yêu cầu tôi đọc to toàn bộ một chương trong cuốn sách.
Tôi không còn cách nào khác là giơ tay xin ra ngoài vào giờ học nghệ thuật chiều thứ sáu. Tất cả học trò đều yêu thích giờ học nghệ thuật. Cô Sullivan nhìn tôi đầy ngạc nhiên.
"Em có thể ra ngoài bây giờ không, thưa cô?”
“Em đi vệ sinh à?”
"Dạ không, em đến phòng số 4"
Cô giáo tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cuối cùng cũng thấy đây không phải trò đùa và đồng ý để tôi ra ngoài trong tiếng "ồ oooooooo" lên ngỡ ngàng của những học trò khác.
Tôi gõ cửa phòng số 4 và cảnh sát Rogers ra mở cửa. Ông phải cao tới lm82. Ở tuổi lên mười, tôi đã là một đứa trẻ rất cao lớn với chiều cao 1m67 và tôi mừng rỡ khi thấy có một người còn lênh khênh hơn tôi, ngay cả khi ông có vẻ đang dọa dẫm, trong bộ đồng phục cảnh sát và tôi chuẩn bị thú nhận với ông.
"Hôm nay có giờ học toán sao?" ông tươi cười hỏi.
"Không ạ, tôi nói nhỏ đến mức không nghe thấy bản thân nói gì. "Giờ học nghệ thuật.”
"Ồ.” Ông nhướng đôi lông mày rậm như sâu róm, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.
"Cháu là người chịu trách nhiệm,” tôi nói vội vã.
"Ồ, đó là điều tốt nhưng chú không nghĩ việc bỏ lỡ một tiết học toán khiến cháu trở thành người không có trách nhiệm, mà đừng nói gì với cô giáo cháu điều chú vừa nói nhé,” vừa nói đùa ông vừa xoa mũi.
"Không,” tôi thở thật sâu và nói. "Cháu muốn nói là cháu chịu trách nhiệm về việc Jenny-May mất tích.”
Lần này ông không cười. Ông mở rộng cửa, "Hãy vào đi cô bé.”
Tôi nhìn quanh phòng. Chẳng có gì giống với những lời đồn đại lan truyền trong suốt hai ngày qua. Jemima Hayes kể rằng một người nào đó bảo với nó rằng có người đã không được rời khỏi căn phòng này để đi vệ sinh và người ấy buộc phải tiểu tiện ngay trong quần. Căn phòng chẳng có vẻ gì mang tính dọa dẫm, với một chiếc ghế dài tựa lưng vào tường, một cái bàn nhỏ ở giữa và một cái ghế nhựa dùng trong lớp học để đối diện. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ ghế đó bị ướt cả.
“Ngồi xuống đi.” Viên cảnh sát chỉ tay vào cái ghế dài. “Cứ ngồi thoải mái cô bé. Tên cháu là gì?”
“Sandy Shortt.” “Ồ, cháu là đứa bé cao lớn so với tuổi cháu mà, đúng không, Cô bé Nhỏ Nhắn?” ông cười, và tôi lịch sự cười lại mặc dù tôi nghe câu hỏi này hàng ngàn lần rồi. Ông không cười nữa. “Được rồi, hãy kể chú nghe điều gì khiến cháu nghĩ mình chịu trách nhiệm về việc Jenny-May mất tích?”
Tôi cau mày. “Chú vừa gọi việc đó là gì ạ.”
“Uhm, chú cũng không biết chắc nữa nếu… ý chú là không có gì để chắc chắn…” Ông thở dài. “Hãy nói vì sao cháu nghĩ cháu chịu trách nhiệm trong việc này,” ông tiếp tục yêu cầu tôi giải thích.
“Jenny-May không ưa cháu,” tôi bắt đầu một cách chậm rãi, bỗng nhiên cảm thấy lo lắng.
“Ồ, chú chắc không phải như thế,” ông nói một cách lịch sự. “Mà vì sao cháu nghĩ thế?”
"Bạn ấy hay gọi cháu là cái sào cao lêu nghêu và ném đá vao cháu.”
“Ồ.” Ông rơi vào im lặng.
Tôi thở thật sâu. "Thế rồi tuần trước bạn ấy phát hiện ra cháu nói với bạn Emer rằng cháu không nghĩ bạn ấy chơi trò Vua/Hoàng Hậu tốt như mọi người nghĩ. Bạn ấy đã vô cùng tức giận và đổ cơn thịch nộ lên cháu và Emer, rồi thách bọn cháu chơi trò chơi này - mà thực ra chỉ là cháu thôi, chứ cũng không phải bọn cháu, vì bạn ấy không nói gì với Emer cả. Cháu biết bạn ấy không thích Emer nhưng bạn ấy còn không ưa cháu hơn, cháu lại còn chính là người đã nói ra điều đó. Vì vậy chúng cháu định sẽ đối đầu nhau trong trò chơi này vào ngày hôm sau, cháu và Jenny-May. Ai thắng cuộc người ấy đương nhiên sẽ là nhà vô địch và không ai còn có thể chê người kia chơi dở nữa vì đã có thực tế chứng minh rồi. Bạn ấy cũng biết là cháu rất thích Stephen Spencer và bạn ấy luôn hét những điều vớ vẩn vào mặt cháu để cậu ấy ghét cháu, nhưng cháu thừa biết là bạn ấy cũng rất thích Stephen. Ai cũng biết là hai bạn ấy đã vài lần hôn nhau theo kiểu Pháp ở trong bụi cây cuối con đường, nhưng cháu vẫn không nghĩ rằng cậu ấy thích Jenny và có thể cậu ấy còn vui mừng khi cô ấy mất tích, cậu ấy sẽ không bị làm phiền nữa, dù cháu không nói là cháu nghĩ cậu ấy đã làm gì để bạn ấy mất tích. Vào cái ngày bọn cháu định chơi trò Vua/Hoàng Hậu, cháu thấy ]enny-May Butler đạp xe ngang qua nhà cháu và bạn ấy nhìn cháu không hề thiện cảm. Cháu biết bạn ấy quyết tâm thắng cháu trong trò chơi này, điều đó còn tồi tệ hơn những gì từng xảy ra trước đây và....” Tôi dừng nói, mím chặt môi, không biết có nên nói tiếp hay không.
“Điều gì đã xảy ra, Sany?”
Tôi nuốt nước bọt một cách khó nhọc.
“Cháu có làm gì không?”
Tôi gật đầu và người cảnh sát tiến lại gần hơn, chỉnh lại tư thế cho sát lưng ghế.
“Cháu đã làm gì?”
“Cháu... cháu...”
"Được rồi, Sandy, cháu có thể kể với chú.”
"Cháu đã ước gì bạn ấy biến mất,” tôi nói nhanh, giống như tháo vội cái mặt nạ thạch cao ra khỏi lớp da, nhanh và dễ dàng.
"Cháu nói gì cơ? Chú nghe chưa rõ?"
"Cháu đã ước gì bạn ấy biến mất.”
"Đá ướt? Đó có phải là một loại vũ khí...”
"Không, đã ước. Cháu đã ước bạn ấy biến khỏi trái đất này.”
“À.” Viên cảnh sát hiểu ra vấn đề và chậm rãi trở về chỗ ngồi. Giờ chú đã hiếu.”
"Không, chú nói chú hiểu, thực ra chú không hiểu gì cả. Cháu thực sự mong bạn ấy biến mất, cháu chưa mong một vật gì trong đời cháu biến mất như mong bạn ấy biến mất, mong hơn cả cái thời ông chú Fred ở trong nhà cháu một tháng trời sau khi ông từ hôn dì Isabel và ông đã hút thuốc, uổng rượu, bốc mùi hôi và cháu thực sự muốn ông ấy đi, nhưng cũng không mong muốn như đối với Jenny-May. Chỉ vài giờ sau khi cháu cầu mong như thế, bà Butler chạy sang nhà cháu và thông báo con gái của bà mất tích.”
Viên cảnh sát cúi người về phía trước. "Vậy là cháu nhìn thấy Jenny-May chỉ một vài giờ trước khi bà Butler chạy sang nhà cháu?”
Tôi gật đầu.
"Lúc đó là mấy giờ?”
Tôi nhún vai.
"Có điều gì khiến cháu nhớ tới lúc đó là mấy giờ không? Hãy nghĩ lại xem - lúc đó cháu đang làm gì? Có ai ở cạnh cháu không?"
"Lúc đó cháu ra mở cửa cho ông bà cháu tới chơi. Họ đến dùng bữa trưa và cháu đang ôm hôn bà thì thấy bạn ấy đạp xe qua. Đó cũng là lúc cháu mong bạn ấy biến mất.” Tôi cau mày nhớ lại.
"Vậy đó là vào giờ ăn trưa. Bạn ấy có đi với ai không?” Lúc này viên cảnh sát ngồi trên mép ghế, tảng lờ nỗi lo lắng của tôi về việc tôi đã cầu mong cho Jenny-May biến mất như thế nào. Ông ta hỏi hết câu này đến câu khác, rằng Jenny-May lúc đó đang làm gì, cô ta đi với ai, cô ta trông như thế nào, cô ta mặc gì, cô ta có để lại cảm giác cô ta đang đi đâu không - rất nhiều câu hỏi lặp đi lặp lại cho đến khi đầu tôi ong lên và tôi không thể nghĩ ra câu trả lời nữa. Hóa ra cuối cùng tôi lại là một cứu cánh cho những người cảnh sát vì tôi là người cuối cùng nhìn thấy cô ấy và tôi được phép về nhà sớm vào ngày hôm đó. Một lợi ích khác trong việc Jenny-May mất tích.
Vài đêm trước khi cảnh sát tới trường học điều tra, tôi đã cảm thấy có lỗi về việc Jenny-May mất tích. Tôi và ba xem một bộ phim tài liệu về việc một trăm năm mươi ngàn người ớ thủ đô Washington đã tập hợp nhau lại để cùng đưa ra những suy nghĩ tích cực và tỷ lệ tội phạm giảm, điều đó chứng tỏ suy nghĩ tích cực hay tiêu cực thực tế là có ảnh hưởng. Nhưng sau đó cảnh sát Roger lại nói với tôi rằng không phải vì tôi mà Jenny- May Butler mất tích, việc cầu mong cho một điều gì đó xảy ra trên thực tế không thể làm nó xảy ra được. Sau sự việc này tôi thấy mình thực tế hơn.
Và bây giờ, 24 năm sau, tôi lại đang đứng trước cửa văn phòng của Grace Burns, chuẩn bị gõ cửa và cảm giác giống hệt như hồi lên mười. Cảm giác mình phải chịu trách nhiệm về một việc ngoài tầm kiểm soát. Nhưng tôi vẫn tin vào cái lập luận trẻ con từ hồi lên mười, từ trong tiềm thức tôi đã lặng lẽ và bí mật mong muốn mình sẽ phát hiện ra một nơi như thế này.