← Quay lại trang sách

Chương 17 No Gun Ri

Bốn mươi bảy viên gạch ốp trắng chạy từ trái sang phải dọc theo bức tường phía sau. Ba mươi nhăm viên từ nền nhà lên trần. Cửa sổ có chấn song và không có gì để nhìn ngoài một mảnh bầu trời nhưng Bond vẫn có thể chắc rằng luôn có người đi tuần khắp tòa nhà này. Anh nghe tiếng chân qua lại bên ngoài cứ hai mươi phút một lượt, không sai lệch. Anh thực sự có thể xem đồng hồ của mình mà tính được lượt đi tuần tiếp theo. Còn có những âm thanh khác nữa. Tiếng xe tải ầm ầm, chuông điện thoại từ xa, ai đó đang quát tháo. Bond đã bị bỏ mặc một mình gần hai mươi bốn tiếng. Và rồi, rốt cuộc thì cánh của cũng được mở khóa và Jeopardy xuất hiện, đứng trong hành lang giữa hai tên vệ sĩ, một khẩu súng gí vào cổ. Một vết thâm tím xấu xí nằm trên một bên mặt cô.

“Em xin lỗi, James.” Đây là lần đầu họ gặp lại nhau sau khi bị bắt và lời nói tuôn ra như thác. “Chúng biết em là ai. Ngay ngoài cổng. Chúng bắt em nói cho chúng.”

“Đủ rồi! Giờ cấm nói chuyện!” Một tên vệ sĩ là người Triều Tiên. Hắn nói thứ tiếng Anh tệ hại, hợp với hắn. Bond không thể hình dung ra từ khuôn mặt vô cảm với bộ ria đen lởm chởm và đôi môi sưng húp kia lại có thể thoát ra một câu nói nào có chút thông minh hay văn hóa. “Mày đi đi!”

“Được rồi. Tôi đi ngay đây,” Bond nói ngắn gọn. “Tôi không nghĩ là sẽ đủ thời gian tắm qua trước khi ăn tối phải không?” Đồng hồ của anh chỉ năm giờ. Sáu tiếng nữa là đến vụ phóng.

“Không tắm. Mày đi ngay.”

Họ được phép dừng lại chớp nhoáng để đi vệ sinh. Sau đó họ bị đưa ra khỏi tòa nhà vào trong sân, Bond đi sau Jeopardy, phía sau là thêm hai tên vệ sĩ nữa. Những gã này rất thạo việc. Hai đằng trước, hai phía sau, tất cả giữ khoảng cách chính xác với nhau, đương nhiên là tất cả đều có súng. Nhóm nhỏ này đi về phía ngôi nhà trắng. Bond liếc nhìn công trình mà anh đột nhập đêm hôm trước. Nó trống rỗng. Chiếc xe tải lùn, chắc là dùng để chở phần trên của quả tên lửa Vanguard, đã biến mất.

Họ bước vào ngôi nhà và ngay tức khắc Bond thấy nội thất rất khác với ngôi nhà anh từng đến lúc còn trẻ con. Anh vẫn còn chút ký ức mờ nhạt về một ngôi nhà bài trí đơn giản nhưng tinh tế, với những tấm thảm và rèm thêu, tranh sơn dầu, tượng bản thân, đồ gỗ cổ. tất cả những gì bạn trông chờ ở một nhà thơ thế kỷ 19 đang ở đỉnh cao sáng tạo. Bản sao này, giống như tòa lâu đài ở Đức, đã bị lột bỏ mọi sự ấm cúng hay sinh động. Trong lúc họ đi qua những bức tường trống trải, không được trang trí, tiếng bước chân họ vang vọng trên nền sàn gỗ để trần. Đây đó giấy dán tường long tróc rũ xuống. Các ô cửa sổ cũng trần trụi, nơi này được thắp sáng bởi những ngọn đèn không chao. Nhìn qua trông như thể ngôi nhà bị bỏ hoang, nhưng mọi thứ ở đây đều được chiếu sáng đầy đủ và có cả điều hòa để chống lại cái nóng ban đêm. Vậy hoàn cảnh sống khắc khổ lạ lùng này nói gì với anh về người chủ nơi đây, một gã đàn ông có vẻ như không có hoặc có rất ít kết nối với loài người? Chưa gì Bond đã cảm thấy sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra.

Họ tới một cánh cửa, trong một thoáng Bond và Jeopardy đứng bên nhau.

“Cứ để anh xử lý,” anh khẽ nói. “Nếu có cơ hội, anh sẽ tranh thủ.”

Jeopardy liếc nhìn anh khinh miệt. “Nếu em có thể chuồn khỏi đây, thì em sẽ chuồn khỏi đây,” cô lầm bầm. “Cứ thử ngăn em xem!”

Một gã đàn ông gõ rồi mở cửa. Bond và Jeopardy bị đẩy vào một phòng ăn hình vuông có hai ô cửa sổ đối xứng, một lò sưởi và một đèn chùm. Một cái bàn kiểu thời Nhiếp chính làm từ gỗ gụ vân lửa, chân vát đứng giữa phòng. Một thứ đồ gỗ tuyệt vời nhưng bị những chiếc ghế hiện đại, không đồng bộ kê xung quanh phá hoại vẻ đẹp. Chỉ cần bỏ một chút công sức là căn phòng sẽ rất ấm cúng và dễ chịu. Nhưng thay vì thế nó lại có vẻ chết chóc y như phần còn lại của ngôi nhà. Jason Sin đã ngồi một bên bàn, đối mặt với họ. Hắn mặc toàn màu đen: áo vét, quần dài vải len, áo len bó cổ lọ. Với mái tóc đen và làn da màu ô liu, trông hắn giống như cái bóng của chính mình. Hai tay hắn bắt tréo đặt trước mặt, trên bàn, bất động. Thật kỳ lạ, bên cạnh tay hắn có một bộ bài.

Giai đoạn 1811-20, khi George, Thân vương xứ Wales, nhiếp chính ở Anh.

“Cứ vào đi, anh Bond, cô Lane,” hắn nói. Không có gì trong giọng hắn: không chào đón, không nhiệt tình. Hắn có vẻ đang chán. Bàn được xếp cho ba người. Bond và Jeopardy đi ra đầu xa, ngồi đối diện với nhau, Sin ngồi giữa. Bond nghĩ bốn tên vệ sĩ sẽ ra ngoài nhưng chúng vẫn ở lại trong phòng, hai đứng cạnh cửa, hai đứng kèm hai bên anh, gần đến mức chỉ cần vươn tay ra là chạm được vào anh. Mắt chúng dán vào anh. Bond ci nhìn và thấy anh có đủ dao dĩa để ăn được mọi loại thức ăn được phục vụ và anh chợt nghĩ chỉ cần vài giây là anh có thể chộp một con dao và dùng nó cho Sin. Nhưng không được khi có mấy gã đàn ông đang đứng đây. Không được khi chúng đứng gần đến thế.

“Cho phép tôi nói để anh biết mình đang ở đâu và làm thế nào mà anh lại rơi vào tay tôi, thưa anh Bond.” Sin bắt đầu. “Đây là một trong nhiều khu đề pô khá giống nhau mà tôi có ở nước Mỹ. Cái này đã từng thuộc về một nhà sản xuất sợi di cư từ London. Ông ta đã cho xây ngôi nhà này để tự nhắc về gốc gác của mình. Về chuyện bắt được anh, tôi phải công nhận là anh đã thiếu may mắn. Trong văn phòng bên cạnh cổng trước có một camera được truyền tín hiệu đến văn phòng tôi ở tầng một. Tôi đang ngồi bên bàn làm việc và tình cờ nhìn thấy cô Lane đây trên màn hình. Tôi nhận ra cô ấy ngay từ Schloss Bronsart. Tôi có thói quen không quên mặt ai bao giờ và có vẻ trùng hợp quá lạ lùng khi một người được gọi là nhà báo trên đường đua lại bất ngờ xuất hiện ở đây, giả vờ đang gặp sự cố máy móc nào đó. Tôi ra lệnh bắt cô ta ngay tức khắc và sau khi để cô ta chịu đựng chút ít đau đớn nhất định thì cô ta nói cho tôi biết anh đang ở trong khu này. Phần còn lại thì anh đã biết.”

“Tôi không cần nghe lại chuyện này,” Jeopardy lầm bầm. “Sao anh không tống tôi trở lại phòng giam luôn đi?”

Sin chậm rãi quay lại phía cô. “Cô sẽ làm điều tôi bảo cô làm, thưa cô Lane.” Hắn nói thản nhiên. “Cô ở đây không vì lý do nào khác ngoài việc tôi thích thế. Nhưng nếu cô còn ngắt lời tôi lần nữa, thì quả thực tôi sẽ đưa cô về lại phòng giam. Và khi cô đã ở đấy rồi, tôi sẽ chỉ đạo cho đám vệ sĩ của tôi muốn làm gì với cô thì làm. Vậy nên tôi khuyên cô giữ lời bình luận trẻ con đó lại cho mình.” Jeopardy mở miệng định nói, nhưng nghĩ lại và thôi. Sin hướng sự chú ý trở lại với Bond. “Chúng ta nên bỏ qua những thứ sơ đẳng đi nhỉ?” hắn tiếp tục. “Tôi có cảm giác trước đây anh đã từng có lúc rơi vào tình huống này rồi. Chúng ta chỉ có một khoảng thời gian hạn chế để ở bên nhau nên tôi định sẽ giới thiệu nội quy trong nhà trước, rồi sau đó ta sẽ ăn.”

“Anh có ít thời gian hơn anh nghĩ đấy, Bond ngắt lời. “Người của chúng tôi sẽ đi tìm chúng tôi, cả người Anh và người Mỹ. Họ biết chúng tôi đang ở đây. Nếu họ không sớm nghe được gì từ chúng tôi thì chắc chắn họ sẽ đến gõ cửa nhà anh.”

“Có thể đúng là như vậy - và tôi cảm ơn anh vì đã nhắc nhở. Cửa nhà tôi luôn mở cho họ, nhưng tôi không chắc là họ sẽ tìm thấy các vị ở trong nhà.”

Có một cánh của nữa vào phòng, và như thể vừa nhận được tín hiệu, nó mở ra để một người Triều Tiên ăn mặc như phục vụ bàn đi vào, mang theo cái khay bạc đựng hai ly cocktail.

“Tôi nghe nói đồ uống có cồn yêu thích của anh là cocktail martini,” Sin nói. “Ba phần Gordon, một chút Vermouth mút, một lát chanh, lắc chứ không khuấy. Với tôi có vẻ như cần nhiều nỗ lực đến mức nực cười chỉ để làm ra thứ mà, cuối cùng cũng chẳng khác gì chất tạo say xỉn, nhưng anh là khách của tôi nên tôi sẽ gắng sức làm anh vừa lòng. Cô Lane chắc cũng uống cùng loại, tôi chắc thế.”

Bond cầm ly rượu nhấp một ngụm. Nó lạnh như băng nhưng vị không ngon, quá mạnh do có quá nhiều Vermouth. Anh không nói gì, nhưng lưu lại thông tin về việc Sin không đủ khả năng pha thậm chí chỉ một ly cocktail martini ra hồn.

“Anh có thể thấy là tôi biết mọi thứ về anh, anh Bond, 007 của Mật vụ Anh. Anh có giấy phép giết người. Tôi băn khoăn liệu có phải thế có nghĩa là anh đến đây để giết tôi không? Hay mục tiêu thực sự của anh là SMERSH? Họ rất vui khi tôi và anh va phải nhau. Họ đánh giá anh rất cao đấy, anh biết không. Thượng tướng Gaspanov nhờ tôi chuyển đến anh những lời chúc tốt đẹp, ấm áp nhất.”

“Nói với Tướng Gaspanov là tôi mong muốn theo kịp ông ấy.”

“Chuyện này thì khó xảy ra lắm. Thuốc lá của anh do Morlands of Grosvernor Street sản xuất riêng. Gấp quá tôi không kịp mua được điếu nào, nhưng anh cứ thoải mái hút loại khác nếu muốn.” Sin gật đầu và một tên vệ sĩ đặt một bao Viceroy và một hộp diêm lên bàn. Bond lấy một điếu và châm lửa. Anh nhận thấy mình được cho hai que diêm: một dùng lúc này, que khác có lẽ để dùng lúc sau. “Chúng ta đã biến ăn uống thành một thứ nghi lễ, trong khi bọn thú vật đơn giản là vục đầu vào máng,” Sin nói tiếp. “Nhưng những thói quen xa lạ này, hút thuốc và uống rượu, thì tôi hoàn toàn không hiểu nổi. Dù vậy, tôi cũng không muốn tước đi của anh những khoái lạc cuối cùng. Đồng thời chúng ta cũng phải vào việc.”

“Tôi sẽ kể anh nghe câu chuyện đời tôi, anh Bond ạ. Đấy là một câu chuyện độc nhất vô nhị, rất phi thường theo cách riêng của nó. Tôi chắc chắn nó sẽ làm anh quan tâm và tôi cũng phải công nhận rằng kể lại nó tôi cũng có hài lòng. Tôi cũng biết rằng tôi có thể tâm sự với anh vì một nguyên nhân đơn giản, như tôi vừa nói khi nãy, là chỉ chốc nữa thôi anh sẽ chết. Kể từ lúc ta gặp nhau, chuyện đó là không thể tránh khỏi rồi, nhưng đáng ra anh cũng nên cố gắng hơn để tránh thật xa tôi. Biết anh là người có nhiều khả năng, tôi chắc chắn rằng ngay cả lúc này đây anh cũng đang cân nhắc xem nên có hành động hay dùng biện pháp nào. Vì thế tôi cảnh báo anh luôn là bốn vệ sĩ trong phòng này luôn theo dõi nhất cử nhất động của anh trong từng giây khi anh còn ở đây. Bọn họ luôn dành cho anh 100 phần trăm chú ý. Chỉ cần anh cử động một ngón tay theo cách khiến họ quan ngại thì họ sẽ phản ứng. Tôi nói đã rõ ý chưa nhỉ?”

“Hoàn hảo,” Bond trả lời. Nét mặt anh không biểu lộ điều gì, nhưng cùng lúc ấy anh đã thầm nhen nhóm một hy vọng nhỏ nhoi. Một lần nữa Sin lại nói nhiều hơn hắn dự định, để lộ ra một yếu điểm mà có thể anh dùng được để chống lại hắn.

“Tốt. Đồ uống của anh ổn chứ? Vậy để tôi bắt đầu.”

“Tôi cho là anh không biết nhiều về đất nước đã sinh ra tôi, phải không anh Bond? Đối với thế giới, Triều Tiên là một xứ sở xa xôi có tầm quan trọng lớn về mặt chiến lược nhưng bản thân nó thì chẳng có gì đáng quan tâm. Khi tôi sinh ra, năm 1927, nó bị người Nhật chiếm đóng, một sắc tộc tàn bạo, những người đối xử với chúng tôi chỉ hơn súc vật một chút, lấy cắp thực phẩm của chúng tôi, tàn phá truyền thống của chúng tôi và chà đạp lên di sản của chúng tôi. Chúng tôi rốt cuộc cũng được giải phóng khỏi ách đô hộ của chúng vào ngày 15 tháng Tám năm 1945, ngày tôi sẽ không bao giờ quên. Cả nước ăn mừng. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi thấy những lá cờ của chúng tôi được vẫy trên phố và cuối cùng thì chúng tôi cũng đã nghĩ rằng căn cước của chúng tôi đã được trả lại. Sự lạc quan này không kéo dài. Đầu tiên, quê hương chúng tôi bị tùy tiện chia làm đôi bởi một đường kẻ qua vĩ tuyến ba mươi tám, và điều đó đã gây ra những thảm họa sau này. Sau những cuộc bầu cử được sắp xếp, với sự hỗ trợ của người Mỹ, một tổng thống mới - Syngman Ree - được bầu và rất nhanh chóng chứng tỏ mình là một kẻ độc tài và thô bạo. Bãi cộng và biểu tình, ám sát và khủng bố đi theo rất mau. Thậm chí cả những thành phố lớn cũng dễ dàng trở thành mục tiêu tấn công của du kích. Cảnh sát và chính quyền thiếu năng lực và tham nhũng. Chúng tôi không còn biết trông cậy vào đâu.”

“Tôi cần phải nói rằng tôi đã may mắn tránh được hầu hết những sự đau khổ mà quê hương tôi phải chịu. Cha mẹ tôi giàu có. Cha tôi thuộc giai cấp gọi là yangban, có nghĩa là ông có quan hệ tốt, một thành viên của một gia đình tinh hoa. Ông là một nhà nho, một quan lớn trong chính quyền địa phương. Mẹ ông, bà tôi, từng phục vụ Hoàng hậu Myeongseong - hay còn gọi là Minh Thành Hoàng hậu - và đã từng sống một thời gian tại cung Xương Đức suốt những ngày hấp hối của vương triều Choson. Tình tiết này rất quan trọng trong câu chuyện của tôi. Còn bản thân tôi, tôi được cho vào học tại một trường tư hàng đầu và sau đó đến Đại học Tổng hợp Seoul, ở đó tôi nghiên cứu luật và kinh doanh. Tôi đã thành thạo tiếng Anh từ khi chưa đầy hai mươi tuổi.

Âm Hán Việt là “Lưỡng ban”, dùng để chỉ giai cấp thống trị bao gồm quan lại và học giả. Thời xưa, ngoại trừ vương tộc, toàn bộ cư dân Triều Tiên được chia thành bốn giai cấp: Quý tộc Lưỡng ban, Trung nhân, Thường dân và Tiện dân.

“Cuộc đời tôi mãi mãi thay đổi vào ngày Chủ nhật, 25 tháng Sáu năm 1950. Tôi còn nhớ mình đang trên đường về nhà ở Seoul, không quan tâm tới bất cứ điều gì trên thế giới này, thì chợt nghe tiếng còi báo động xé không khí vang lên. Tôi vội chạy về nhà thì thấy mẹ và hai em đang nghe một thông báo trên đài. Quân đội Bắc Triều Tiên, với 135.000 người được xe tăng T-34 và trọng pháo của Liên Xô hỗ trợ đã vượt vĩ tuyến ba mươi tám lúc bốn giờ sáng. Họ đang trên đường tiến về phía Nam và chúng tôi không thể làm gì để ngăn cản họ.”

Sin ngừng lời khi người phục vụ trở lại với bữa tối, một đĩa bít tết đơn giản, cơm và xa lát. Bond cảm thấy ánh mắt buồn chán của tên vệ sĩ đang nhìn anh khi anh cầm con dao lên. Anh quyết định phải ăn. Ngoài cái bánh kẹp và một cốc nước được đưa tới phòng giam cho anh vào bữa trưa thì anh chưa ăn gì trong suốt hai mươi bốn giờ mà anh lại đang cần sức để đối phó với bất cứ điều gì phía trước. Sin cũng được phục vụ cùng món như anh. “Tôi hy vọng anh không phiền nếu ta vừa ăn vừa nói chuyện, anh Bond nhỉ?”

“Có mỗi anh nói thôi.”

“Đúng thế thật,” hắn quay sang Jeopardy. “Cô có mọi thứ cô cần rồi chứ, cô Lane?”

“Rồi, cảm ơn anh.” Cô không buồn nhìn lên.

Người phục vụ rót hai ly vang cho Bond và Jeopardy, đặt chai rượu lên bàn - thêm một loại vũ khí? Không, mấy gã vệ sĩ vẫn còn quá cảnh giác - rồi ra ngoài. Sin trở lại với câu chuyện của mình.

“Cha tôi quyết định chúng tôi phải đi ngay. Ông biết rằng chưa đến một tuần nữa là những người Bắc Triều Tiên sẽ tiến vào thành phố - thực tế thì họ chỉ mất có ba ngày - và là một quan chức chính phủ rất có thể ông sẽ bị bắt và xử bắn. Ông là người rất cao ngạo, thường thì rất kiệm lời và không ai trong chúng tôi dám mơ tới chuyện cãi lại ông. Theo Nho giáo, quan hệ cha con là rất thiêng liêng. Ông ra lệnh cho chúng tôi đem theo rất ít đồ đạc. Ông để những thứ đồ quý giá của mình, vài tác phẩm nghệ thuật và đồ trang sức của mẹ, vào một ngăn nhỏ dưới nền nhà ondol[^ondol] trong phòng ăn. Có một hệ thống ống đưa hơi ấm từ bếp ra, nhưng tôi chưa từng thấy nó được mở ra bao giờ. Hoặc là chính vì thế mà tôi không bao giờ còn nhìn thấy nó lần nữa. Mẹ tôi, hai đứa em và tôi mỗi người mang theo một túi nhỏ. Chúng tôi khóa cửa trước và không nói một lời bước vào đêm tối.”

“Điểm đến của chúng tôi là làng Chu Gok Ri nơi ông bà tôi sinh sống. Bà tôi lúc đó ở một mình, ông đã mất hai năm trước. Chúng tôi bắt xe buýt tới sông Hàn, sau đó đi bộ qua cây cầu chính. Chúng tôi đã may mắn qua được. Một ngày sau, quân đội của chúng tôi đã cho nổ tung cây cầu không một lời cảnh báo, vụ đó đã giết chết hàng trăm dân thường. Và tôi cần nói rằng có rất nhiều câu chuyện về những sai lầm chết người rất kinh khủng. Máy bay Mỹ - mà chúng tôi gọi là ‘máy rú - tấn công chính quân đội của chúng tôi, nhầm họ với kẻ thù. Khi đó đã rõ ràng đây không phải một cuộc chiến theo nghĩa hiện đại. Mà là một đống hỗn tạp. Quân đội Mỹ ở Triều Tiên không được tập luyện, kỷ luật kém và ngu dốt. Nhiều binh sĩ đến huấn luyện cơ bản cũng không có được. Anh có thể muốn biết, và điều này cũng là một mấu chốt quan trọng trong câu chuyện của tôi, là họ không phân biệt được quân Bắc Triều Tiên, những kẻ mà họ phải chiến đấu chống lại, với dân tị nạn Nam Hàn, những người đang khiếp sợ mà họ phải bảo vệ. Tiếng Triều Tiên gọi người Triều Tiên là Hanguk-saram, vậy nên họ gọi chúng tôi là bọn gúc (gook). Không quan trọng chúng tôi tới từ đâu. Với họ, chúng tôi là gúc tất.”

Hệ thống sưởi sàn được dùng trong kiến trúc nhà ở truyền thống của Triều Tiên, sử dụng hơi nóng từ bếp chạy theo hệ thống dẫn nhiệt được thiết kế bên dưới sàn nhà để làm ấm.

Sin nâng cốc uống một ngụm nước. Không như Bond, hắn không được rót vang. Đồ ăn của hắn nguội dần trước mặt.

“Khi chúng tôi đến được Chu Gok Ri, dòng người đổ ra từ Seoul đã trở thành một cơn lũ và đường cao tốc chính tràn ngập khối người cùng xe cộ và tài sản bị vứt bỏ vương vãi khắp nơi. Chúng tôi đã thấy vài chiếc máy bay bay qua và thậm chí thấy cả mấy đoàn tàu chở theo những người lính Đại Hàn Dân Quốc lên phía Bắc chiến đấu, nhưng ra ngoài thành phố chúng tôi vẫn cảm thấy an toàn hơn. Bà tôi có một ngôi nhà đẹp lợp ngói truyền thống, bao quanh bởi những cây hồng vàng. Tôi nhớ bà là một người phụ nữ vô cùng điềm đạm, luôn tươi cười, đã rất già mặc dù bà mới chỉ hơn bảy mươi. Bà có đủ chỗ cho tất cả chúng tôi - dù cho các em gái tôi - Li-Na và Su-Min - phải ở chung phòng, còn tôi được một tấm đệm dúi vào gác mái. Chúng tôi ở với bà gần một tháng.

“Đương nhiên là rắc rối lần theo chúng tôi. Ngày càng có nhiều người tị nạn tràn về làng và vì không có chỗ nào để ở họ ngủ ngoài đường cho dù trời mưa tầm tã. Mặt đất chẳng bao lâu đã biến thành bùn và màn đêm mang tới những đám mây muỗi. Ngày nào chúng tôi cũng thấy có những gia đình mới đến, những người đàn ông còng lưng thì những chige - một kiểu khung gỗ chữ A đeo trên lưng chất đầy mọi thứ tài sản mà họ có thể mang theo. Vài phụ nữ mang theo nồi niêu xoong chảo mặc dù những thứ đó làm họ muốn gãy lưng. Trẻ con thì phải bế em. Đồng thời, chiến sự cũng đến gần. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng nổ vọng đến từ phía bên kia thung lũng và tới đêm ánh lửa nhoang nhoáng trên trời, không khí tràn ngập mùi xăng. Rồi lính Mỹ tới. Họ đi trên xe tải và xe jeep, đóng quân ngay bên ngoài làng. Họ đi dạo quanh, chơi bài, vài đứa trẻ thử lại gần họ xin sô cô la hay kẹo cao su. Nhưng cha tôi vẫn sợ. Ông nghe tin đồn đã có nhiều thường dân bị giết chết. Có vẻ như một mệnh lệnh đã được ban hành, theo đó nếu thấy đám đông tụ tập từ mười người trở lên, có thể coi cả đám là kẻ thù xâm nhập và xử bắn. Mấy chỉ huy người Mỹ sợ quân Bắc Triều giả dạng làm dân thường. Hầu hết người dân, dù người Bắc hay người Nam, đều hay mặc cùng một loại trang phục truyền thống màu trắng. Nên chỉ tụ tập thế thôi là đã đủ để bị coi là kẻ thù. Còn có nhiều tin đồn nữa cũng liên quan đến lính Mỹ, nhiều người trong bọn họ còn rất trẻ và chưa từng ngủ với phụ nữ. Mẹ tôi cắt tóc các em để họ xấu đi và bắt họ chỉ được loanh quanh gần nhà. Tôi vẫn còn nhớ nỗi sợ hãi trong mắt bà. Với bà, lính tráng cũng nguy hiểm như rắn rết.”

Bond yên lặng lắng nghe. Anh đã hình dung được câu chuyện này rồi sẽ dẫn đến đâu và anh ngạc nhiên thấy Sin vô cảm một cách lạ thường khi kể chuyện. Giọng hắn nhẹ nhàng và đơn điệu. Hắn không tìm kiếm sự đồng cảm hay thấu hiểu. Tựa hồ như hắn đang kể câu chuyện xảy ra với một người khác.

“Sau đó đến ngày người Mỹ bảo chúng tôi phải ra đi. Họ đã chịu nhiều thất bại ở phía Bắc và quân Bắc Triều Tiên đang lấn tới. Chúng tôi ở đúng nơi chẳng bao lâu nữa sẽ thành bãi chiến trường. Tôi còn nhớ một chiếc jeep chạy tới làng chở theo một người Mỹ to béo mặc đồ lính, một lái xe và một người phiên dịch tiếng Triều Tiên. Họ nói rằng chúng tôi có hai giờ để rời khỏi nhà, chỉ đem theo những gì có thể mang vác. Một cơn hoảng loạn có kiểm soát lan khắp làng. Cha tôi, trong vài tuần vừa qua đã mất hết quyền lực, nói rằng chúng tôi không còn lựa chọn. Chúng tôi phải làm những gì người ta nói. Ông về nhà đón bà nội tôi. Bà không được khỏe và vừa được đưa vào giường nằm, nhưng không thể nào để bà ở lại. Ít nhất thì chúng tôi cũng nghĩ vậy. Cha đi rất lâu và cuối cùng khi ông quay lại, mặt ông vô cùng sầu não.”

“‘Bà không đi’, ông đơn giản nói. Mẹ tôi bắt đầu có ý kiến nhưng ông ngắt lời bà. Bà đã quyết định rồi. Ông quay sang tôi. ‘Bà muốn gặp con. Nhanh lên. Chúng ta phải đi ngay.’”

“Hoảng sợ, tôi vội đến phòng bà. Bà ngồi trên giường, quan sát cả thế giới như bà chúa rồng mà tôi thường thấy trong các đền miếu. Có gì đó trên khuôn mặt bà khiến tôi thấy bất an. Ánh mắt bà sắt đá và tôi nhớ lại những gì cha tôi nói.”

“Bà gọi tôi lại giường và bảo tôi ngồi xuống. ‘Ta sẽ không đi với con,’ bà nói. Qua cách bà nói, tôi biết mình ở đây chỉ để nghe, không được ngắt lời. ‘Ta không sợ lính miền Bắc. Vì sao họ lại phải làm hại ta? Người Mỹ còn tệ hại hơn. Tụi nó ngu xuẩn và tàn bạo - nhưng rồi chúng cũng cuốn gói sớm thôi. Mà thôi, chuyện đó không quan trọng. Ta đã quá già cho tất cả những chuyện này, và thực tâm ta đã không còn quan tâm đến chuyện sống chết nữa rồi.’”

“‘Ta muốn cho con một thứ. Phải có ai đấy trong gia đình có nó mà con là đích tôn nên ta chọn con.’ Bà thò tay ra khỏi chăn và tôi thấy bà cầm một chiếc phong bì lụa nhỏ. ‘Đừng nói với cha con, bà tiếp tục. ‘Cha con sẽ nghĩ ta không tin tưởng nó, mà có thể nó đúng. Nó sẽ giận dữ lắm. Nhưng ta thấy con cũng có chất thép như ta hồi còn trẻ, và ta biết con sẽ dùng nó một cách thông minh, để giúp các em và cả nhà. Đừng mở nó bây giờ. Chờ đến lúc nào con chỉ có một mình, ở xa ngôi nhà này.’ Bà ấn cái phong bì vào tay tôi, rồi ngả người ra sau, thở hắt ra chút sức lực ít ỏi còn lại. Như thể bà đã trao cho tôi linh hồn của bà vậy. ‘Để ta lại đây, bà nói. Đi nhanh lên. Đừng tin ai. Tất cả những kẻ đến với đất nước nhỏ bé này của chúng ta đều đã phản bội lại nó. Chẳng có gì thay đổi cả. Đi ngay đi!

“Tôi để bà lại và không lâu sau tôi rời Chu Gok Ri, lột bỏ mọi danh phận, chỉ còn là một phần trong đoàn người nhà quê lộn xộn cùng các em và cha mẹ mình chật vật đi qua dải thung lũng hẹp một bên là ruộng lúa một bên là rừng thông, lính Mỹ hộ tống. Trời rất nóng, bức bối, đến chiều tối hôm đó thì mây đã chuyển thành mưa và chúng tôi ngay tức khắc ướt sũng. Chúng tôi nghe thấy văng vẳng tiếng súng nổ từ xa và cảm thấy mặt đất rung chuyển. Chưa đến đêm chúng tôi đã hoàn toàn kiệt sức và đói ngấu, nhưng không còn lựa chọn nào khác ngoài tiếp tục tiến lên. Thế rồi chúng tôi đến cái cây cầu ở làng No Gun Ri ấy.”

Đó là điều Bond mong đợi. Anh đã đọc một báo cáo tình báo về No Gun Ri. Nhiều người Mỹ - các chính trị gia và tướng lĩnh - đang vờ như nơi này không tồn tại.

“No Gun Ri có nghĩa là ‘rừng’ và ‘hươu’ trong tiếng Triều Tiên cổ,” Sin giải thích. “Cây cầu này được người Nhật xây. Nó là một công trình rất vững chãi - tôi có thể nói là cục súc nữa, với hai vòm bê tông đỡ một đường xe lửa chạy phía trên. Một con đường mòn sơ khai dẫn từ cây cầu đến mấy túp lều đất của những người nông dân địa phương. Gần đó có nhiều ruộng lúa hơn. Tới lúc này chúng tôi đã quá mệt để đi tiếp và đó là nơi chúng tôi dừng lại nghỉ, với những quả cầu lửa xẹt ngang qua bầu trời đêm, những tiếng nổ trầm đục xen giữa tiếng súng chát chúa, và sau đó là sự im lặng được lấp đầy bằng tiếng rù rì của ve sầu.

“Khi mặt trời lên, khoảng sáu trăm người chúng tôi túm tụm với nhau bên dưới đường ray dưới chân núi Bạch Mã cùng các lính Mỹ, lồ lộ trong những bộ quân phục xanh, đóng công sự trên sườn núi, vài người trong số họ dùng ống nhòm quan sát chúng tôi. Mẹ tôi đã mang theo thức ăn, chúng tôi ăn vội bữa sáng qua loa và băn khoăn không biết điều gì sẽ xảy ra kế tiếp. Tôi thấy dường như thật không thể tin nổi khi một gia đình bình thường vừa mới đây thôi còn đang sống rất thoải mái trong một thành phố hiện đại bỗng nhiên bị biến thành những kẻ chẳng hơn gì đám tá điền. Nhưng tôi biết là không được than phiền. Các em tôi hầu như không nói gì từ khi chúng tôi rời làng. Chúng tôi theo cha đến đây và tin ông sẽ đưa chúng tôi thoát. Ông tin rằng người Mỹ sẽ phái phương tiện vận chuyển nào đó tới cho chúng tôi và đúng là sau buổi trưa, khi trời trở nên nóng bức hơn bao giờ hết, chúng tôi đã nghe có tiếng máy bay đến gần. Tôi nhớ mình đã nghĩ điều đó thật lạ lùng. Ở đó không có chỗ nào cho máy bay hạ cánh cả.

“Máy bay là của người Mỹ. Chúng bay gần tới mức tiếng gầm của động cơ tràn ngập không gian. Chúng bay rất thấp. Không một ai di chuyển. Không một ai nghĩ đến chuyện bỏ chạy, cho tới khi chúng khai hỏa và bắt đầu tàn sát chúng tôi.

“Tôi không thể nào mô tả được sự kinh hoàng sau đó, anh Bond ạ. Tôi không biết cuộc tấn công kéo dài bao lâu. Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là ngày biến thành đêm, cả thế giới nổ tung và xung quanh tôi mọi người bị xé nát vì bom, tên lửa và súng máy. Khi tôi nói tiếng nổ điếc tai là tôi nói đúng nghĩa đen của nó. Tựa như có một nắm tay khổng lồ đấm vào đầu tôi và mọi âm thanh - tiếng hét và tiếng nổ - không còn phải là từ những gì tôi đang nhìn thấy nữa. Và đó là gì? Lửa và máu, dạ dày rách nát, tay chân đứt rời. Cha chết ngay trước mắt tôi. Một phút trước ông còn là một người đàn ông trung niên, một người mà cả đời tôi vẫn hằng kính yêu, một phút trước ông còn đứng đó giận dữ cuồng nộ, một phút sau đã mất đầu, thân người đổ nghiêng sang một bên trong khi mẹ tôi gào thét điên dại, toàn thân đẫm máu của ông. Cây cầu ở ngay trước mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy những vòm bê tông có thể thành vật che chắn duy nhất. Những người khác cũng có cùng ý tưởng - những người vẫn còn sống sót. Không thể biết được có bao nhiêu thân thể rách nát vương vãi trên mặt đất. Có gì đó nóng kinh khủng sượt qua cổ và tôi nhận ra rằng một viên đạn vừa trượt qua tôi có vài li. Nó từ đâu đến vậy? Đó chính là lúc tôi nhìn thấy những người Mỹ trên sườn núi đang bắn vào chúng tôi, hạ không phải từng người mà mười người một. Xác chết nằm la liệt khắp nơi.

“Tôi xốc Li-Na, em út của tôi, lên. Con bé mới mười hai tuổi. Mẹ tôi và em ba, Su-Min, ở ngay cạnh. Chúng tôi chạy về phía cây cầu. Tôi cố gắng không nhìn những người xung quanh mình. Cảnh tượng quá khủng khiếp, không thể tin nổi. Tất cả năng lượng của tôi tập trung vào việc tìm nơi ẩn nấp. Có gì đó đập vào mặt tôi. Trong một phút tôi nghĩ chắc đó là một viên đạn - nhưng không phải. Đó là một mẩu xương người. Li-Na run rẩy trong tay tôi, tôi quát bảo con bé phải yên không làm rối chân tôi. Con bé không nói gì. Cây cầu đã ở trước mặt tôi. Nó choán hết tầm nhìn của tôi. Trước mặt tôi, những người dân làng hoảng sợ trông như thể đang vùng vẫy để tiến lên phía trước. Trên cánh đồng bên cạnh tôi nhìn thấy một con bò đổ vật xuống đất khi chân nó bị xén đứt. Và rồi, thật phi thường, vòm cầu bê tông vươn ra ôm lấy tôi. Tôi khóc thổn thức. Cổ tôi rát bỏng và em gái nặng trĩu trên tay tôi. Tôi ngã người vào tường, thở hổn hển. Súng máy vẫn bắn. Không khí đặc quánh khói.

“Tôi cố đặt Li-Na xuống nhưng con bé không chịu tự đứng. Tôi cố thuyết phục nó và cùng lúc đó cảm thấy có gì đó ấm và ẩm tràn xuống quần mình. Tôi buông Li-Na ra và sững sờ lùi lại trong kinh hoảng và choáng váng tột độ. Trên lưng con bé có một cái lỗ lớn, có thể do viên đạn đáng ra phải dành cho tôi, nhưng vô tình con bé trở thành tấm lá chắn, và có lẽ nó đã chết trong suốt thời gian tôi bế nó theo. Đó là cô em gái nhỏ mà tôi từng cùng chơi đùa. Là cô em gái tôi từng bịa chuyện ra kể cho nghe trước khi đi ngủ. Vậy mà giờ đây đôi mắt nó trống rỗng, máu nó dính đầy người tôi. Tôi tìm mẹ và Su-Min. Tôi biết ngay là họ không thoát được. Khắp nơi chỗ nào cũng là người, gào thét và khóc lóc. Nhiều người mang những vết thương khủng khiếp. Nhưng không có người nhà tôi trong số họ. Tôi còn lại một mình.

“Trong hai mươi bốn giờ sau, khi ngày lại chuyển thành đêm, tôi thấy mình ở trong một địa ngục ngoài sức tưởng tượng, bị bao quanh bởi một nhà thương điên của người chết và hấp hối. Tôi nhìn thấy những vết thương quá khủng khiếp ngoài khả năng mô tả: những đứa bé thịt da rách nát. Trời rất nóng và những con ruồi đen, béo mập sà xuống thành đàn. Vậy mà những người Mỹ vẫn chưa xong với chúng tôi. Máy bay của họ tiếp tục tấn công chúng tôi. Nếu chúng tôi tìm cách rời khỏi vòm che, họ sẽ bắn chúng tôi. Nếu chúng tôi tìm cách đi lấy nước, chúng tôi sẽ chết. Tôi bị con khát giày vò. Đêm đến tôi liếm bức tường bê tông hy vọng tìm được chút hơi ẩm. Tôi nghĩ đến cha tôi và người em gái mà tôi biết là đã chết và ước gì mình có thể đến với họ, và cuối cùng thì tôi không còn chịu đựng nổi nữa. Nửa mê sảng, với chút sức lực cuối cùng, tôi ra khỏi đường hầm, chờ đợi được một tràng đạn đốn hạ. Nhưng đúng lúc đó mặt trăng lẩn ra sau một đám mây và thế nào đó mà tôi không bị phát hiện. Tôi đi ra từ phía cách xa đường chính và thoát được vào trong màn đêm. Một trăm người còn sống sót mà tôi bỏ lại phía sau còn phải ở trong đường hầm đó thêm ba ngày nữa.

“Tôi quay lại Chu Gok Ri, định về với bà nội. Nhưng ngôi nhà đã không còn. Người Mỹ đã áp dụng chính sách tiêu thổ, và giờ chỉ còn lại một màn khói phủ trên chốn đã từng là một ngôi làng. Tất cả nhà cửa đều bị đốt rụi, thường vẫn còn người bên trong. Có vài người vẫn đang nhặt nhạnh trên đống đổ nát và tôi xin họ được một chút thức ăn nước uống trước khi bỏ đi, tôi đi bộ gần 25 cây số đến một thị trấn tên là Yakmok. Từ khi còn bé, tôi nhớ ở đó có một nhà ga và đúng như vậy, khi tôi đến thì một đoàn tàu đầy binh sĩ Hàn Quốc sắp chuyển bánh. Tôi cầu xin sự thương hại của những người lính ấy. Tôi kể cho họ nghe chuyện vừa xảy ra. Họ cho tôi đi cùng.

“Đoàn tàu đưa tôi tới cảng Pusan trên mũi Đông Nam Hàn Quốc, một thành phố chật cứng binh lính và dân thường, người tị nạn tràn đầy phố xá đang vật lộn tìm cách để sống sót. Vài người trong số họ tìm được việc làm, giúp dỡ hàng khỏi những con tàu đến từ nước Mỹ. Cầu tàu và bến cảng chất đầy đồ quân sự. Tôi không có tiền, chẳng có gì. Tôi không biết ai. Trong đầu tôi có một cảm giác trống rỗng bỏng rát, như thể não bộ đã bị nhai nuốt mất từ bên trong. Và chính lúc đó tôi nhớ đến cái gói nhỏ bà nội đưa cho. Lẩn trốn trong bóng tối của một ngôi đền gần biển, tôi mở nó ra. Một tá những hòn đá nhỏ rơi vào bàn tay tôi. Tôi biết ngay chúng là gì cho dù chưa từng nhìn thấy thứ gì tương tự. Đó là những viên kim cương xanh, anh Bond ạ, khá hiếm và đáng giá nhiều tiền hơn tôi tưởng. Bà tôi có được chúng từ đâu? Tôi có nói bà khá gần gũi với Hoàng hậu Minh Thành. Có thể đây là đồ hoàng hậu đã thưởng cho bà. Cũng có thể bà đã lấy trộm chúng khi vương triều Choson tan rã xung quanh. Nhưng những câu hỏi này không quan trọng. Bà đã đưa chúng cho tôi và chúng là cứu tinh của tôi.

“Tôi bán một viên cho một thợ kim hoàn có cửa hàng trong khu buôn bán Gwangbok-dong. Tất nhiên là hắn lừa tôi. Hắn trả tôi chỉ một phần thực giá của viên kim cương. Nhưng thế là đủ để tôi hối lộ một lính thủy đánh bộ Mỹ giúp tôi lên một con tàu đi Hawaii. Nhiều nghìn người Triều Tiên đã di cư đến Hawaii hồi đầu thế kỷ, chủ yếu để làm việc trong các đồn điền mía, trong đó có cả họ hàng tôi và tôi chắc chắn mình sẽ được giúp đỡ và hỗ trợ khi đến nơi, nhất là với mười một viên kim cương xanh trong tay. Và đúng như vậy. Tôi sẽ không làm anh mệt bằng việc kể lể về chuyến đi hay những vấn đề mình gặp khi tới nơi. Chỉ cần nói rằng tôi đã sống trong cộng đồng Triều Tiên ở Hawaii vài tháng trước khi sang Mỹ, nơi tôi thành lập một công ty tuyển dụng và xây dựng mà tôi đặt tên là Kim Cương Xanh, và nó đã góp phần lớn đưa chúng ta tới thời điểm này.

“Nhưng có điều anh cần phải hiểu. Đó cũng là mục đích của câu chuyện tôi kể này. Ở Triều Tiên chúng tôi tin rằng nếu anh chết tha hương, anh sẽ buộc phải lang thang mãi mãi, tức là anh sẽ không bao giờ được yên nghỉ. Đó là điều đã đến với tôi. Tôi đã chết ở No Gun Ri. Thứ tôi bị tước mất không phải là tính mạng mà là tâm hồn, là nhân tính. Thậm chí khi ngồi đây lúc này, tôi vẫn nhìn thấy những xác chết. Tôi có thể nhìn thấy cái đầu của cha tôi khi nó bị cắt lìa khỏi thân thể. Tôi thấy cô em gái mình đã chết. Tôi ngửi thấy mùi máu. Những con ruồi đen xấu xí vẫn đang bò sau mắt tôi.

“Tôi trở nên rất giàu có. Đế chế kinh doanh của tôi trị giá gấp vài trăm lần những viên kim cương khởi nghiệp của tôi. Dù vậy con người tôi đã chết. Tôi không cảm thấy gì. Tôi đã quên ý nghĩa của khoái lạc. Với tôi, thức ăn vô vị, không khí không mùi, mặt trời không hơi ấm. Tôi không căm thù người Mỹ cho dù tôi không bao giờ tha thứ cho họ vì sự tàn bạo đã dẫn đến cái chết của gia đình tôi và nhiều người khác nữa. Tôi không có cảm xúc gì với họ, cũng như với cả nhân loại, kể cả anh và cô Lane đây. Ở khía cạnh nào đấy tôi đã trở thành chính cái chết. Tôi tổ chức tiệc tùng vì người ta kỳ vọng tôi làm chuyện đó. Tôi vẫy tay với máy quay và tươi cười khi những người bạn Mỹ giàu có gọi mình là Jason Sin, vô tư chà đạp văn hóa và gốc gác của tôi, và trong thâm tâm tôi muốn giết sạch bọn họ. Thực ra thì tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của rất nhiều người. Vài người trong số đó làm việc cho tôi. Những người khác là đối thủ cạnh tranh. Nhiều người hoàn toàn xa lạ. Tôi tồn tại chỉ để hủy diệt mọi thứ quanh mình và tôi hiểu rằng điều đó khiến tôi rất có ích cho SMERSH. À, họ thì cũng có ích cho tôi. Tôi không quan tâm đến lý tưởng của họ. Tôi hoàn toàn sẵn lòng làm việc cho Mật vụ Mỹ hay bất cứ ai khác. Đơn giản là họ cho tôi lý do làm việc mình làm.

“Chỉ thêm một chút nữa thôi. Tôi biết mình đã nói khá lâu, cảm ơn anh đã chiều tôi, nhưng tôi không có nhiều dịp để kể những chuyện này. Có thể thực ra anh quan tâm hơn đến chuyện tôi làm gì ở đây, chính xác thì tôi đang sắp xếp chuyện gì. Những chuyện này tôi cũng sẽ rất vui được kể với anh. Tôi có đang làm trò phù phiếm quá không nhỉ, tôi băn khoăn quá. Có lẽ nào tôi đang hơi quá tự mãn chăng? Tôi không biết - nhưng tôi đoán chắc đúng thế, vì chẳng có lý do gì để kể mọi thứ với anh. Ngay cả như vậy, tôi vẫn phải nói ngắn gọn rằng…”

Sin với tay lấy bộ bài và thảy nó về phía anh.